Feel free to go with the truth

Trang chủ / Kinh doanh & Thương mại / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP

FDVN tiếp tục chia sẻ bộ tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm và tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu và công tác. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích khác trái pháp luật.

TỔNG HỢP BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM

VỀ  TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP

 (THÀNH VIÊN, CỔ ĐÔNG, NGƯỜI QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP)

STT

NỘI DUNG BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM

SỐ TRANG

Bản án số 03/2019/KDTM-ST ngày 04/7/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước

Về việc: Nguyên đơn không ký hợp đồng chuyển nhượng vốn góp với ông Trần Hữu H, nhưng đại diện Công ty SM là Phạm Thế H đã hợp thức hóa việc góp vốn số tiền 01 tỷ cuả ông Trần Hữu H và nguyên đơn, làm khống thủ tục chuyển nhượng vốn góp của nguyên đơn. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp, khôi phục lại tư cách thành viên của nguyên đơn trong công ty.

Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn tuyên xử: Hủy Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp; Hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp có tên thành viên Trần Văn H; Khôi phục lại Giấy chứng nhận Đăng ký doanh nghiệp có tên của nguyên đơn.

01

Bản án số 05/2019/KDTM-ST ngày 20/03/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Về việc: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu xác định lại phần vốn góp của thành viên là ông Lê Minh H vào công ty là 4,6 tỷ đồng và yêu cầu huỷ giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 6, 7, 8 vì không trung thực, không đúng quy định.

Bản án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Q, công nhận phần góp vốn điều lệ của ông D là 5.612.884.825 đồng. Tuyên huỷ giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 6, 7, 8.

Nguyên đơn đơn kháng cáo chỉ yêu cầu xác định lại phần vốn góp của ông H (4,6 tỷ) và huỷ giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tòa cấp sơ thẩm không hướng dẫn cho đương sự viết đơn phản tố để thụ lý yêu cầu độc lập mà chỉ căn cứ tài liệu một bên do bị đơn cung cấp, chưa được nguyên đơn xác nhận và thực hiện quyền tiếp cận công khai chứng cứ để bảo đảm quyền tranh tụng là không đúng tố tụng và xử công nhận tăng số vốn điều lệ 1.012.844.825 đồng là vượt quá yêu cầu khởi kiện.

Tòa án phúc thẩm nhận định: Tòa án sơ thẩm chỉ căn cứ vào hai phiếu thu mà không xác minh lời khai của kế toán và thủ quỹ, bản cân đối tài chính không thông qua Chủ tịch Hội Đồng thành viên công ty nên việc công nhận ông D góp vốn là 1.012.844.825 đồng là không có căn cứ chấp nhận. Do đó, Tòa án quyết định sửa bản án sơ thẩm, xử chấp nhận đơn khởi kiện của ông Q, công nhận phần góp vốn điều lệ của ông D là 4,6 tỷ đồng. Tuyên hủy giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thay đổi lần thứ 6, 7, 8.

11

Bản án số 51/2018/KDTM-PT ngày 12/11/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP .HCM.

Về việc: Lê Hoàng Diệp Th (bà Th) khống chế cưỡng đoạt con dấu và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp của TNH, các công ty con và chi nhánh của các công ty trong hệ thống tập đoàn TN. Sử dụng trái phép con dấu mạo danh Hội đồng quản trị để tự bổ nhiệm mình giữ chức vụ Tổng giám đốc TNH và sử dụng con dấu của TNH yêu cầu đối tác “Dừng việc phân phối hàng hóa sản phẩm TN và G7 tại thị trường Mỹ”.

Nguyên đơn là Công ty Cổ phần đầu tư TN (TNH) do ông Đặng Lê Nguyên V khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc bà Th chấm dứt hành vi nhân danh TNH thực hiện các công việc không thuộc thẩm quyền; Chấm dứt hành vi đóng dấu lên chữ ký của người không có thẩm quyền của TNH; Chấm dứt hành vi chiếm giữ trái phép, chiếm đoạt con dấu của TNH và yêu cầu bà Th hoàn trả cho TNH con dấu và giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đã chiếm đoạt trái phép.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của TNH khởi kiện bà Lê Hoàng Diệp Th về hành vi chiếm đoạt 11 con dấu và 20 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với 08 Công ty và Chi nhánh .

2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn buộc bà Th phải chấm dứt hành vi chiếm giữ trái phép, chiếm đoạt con dấu; Phải hoàn trả cho TNH con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp; Phải chấm dứt hành vi đóng dấu lên chữ ký của người không có thẩm quyền của TNH; Phải chấm dứt hành vi nhân danh TNH để thực hiện các công việc không thuộc thẩm quyền.

Bản án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận kháng cáo của bà Lê Hoàng Diệp Th.

2. Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 310/2018/KDTM-ST.

3. Đình chỉ đối với yêu cầu khởi kiện của Công ty TNH khởi kiện bà Th về hành vi chiếm đoạt 11 con dấu và 20 Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đối với 08 Công ty và Chi nhánh.

4. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn:

– Buộc bà Th phải chấm dứt hành vi chiếm giữ trái phép, chiếm đoạt con dấu, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp  của Công ty TNH. Th phải hoàn trả cho Công ty TNH con dấu và Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.

– Bà Th phải chấm dứt hành vi đóng dấu lên chữ ký của người không có thẩm quyền của Công ty TNH.

– Bà Th phải chấm dứt hành vi nhân danh Công TNH để thực hiện các công việc không thuộc thẩm quyền

18

Bản án số 20/2018/KDTM-PT ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Về việc: Bị đơn là bà M, ông P, ông T1, bà O ký chuyển nhượng cho nguyên đơn là Công ty T Hà Nội (Công ty T) 20.375.800 cổ phần có giá trị là 314.011.00 đồng nhưng sau khi ký lại không thực hiện nghĩa vụ thanh toán và có yêu cầu bồi thường.

Bản án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty T Hà Nội:

1. Buộc bà M phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng 5.055.800 cổ phần của bà tại Công ty H cho Công ty T;

2. Buộc ông L, chị C và anh N phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng 5.690.000 cổ phần của bà O tại Công ty H cho Công ty T;

3. Buộc Công ty H phải ký giấy xác nhận chuyển nhượng 5.055.800 cổ phần của M và 5.690.000 cổ phần của bà O tại Công ty H cho Công ty T;

4. Đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về buộc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà O là ông L, anh N và chị C phải liên đới cùng ông P, bà M, bà T1, bồi thường thiệt hại 455.300.000.000 đồng.

5. Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông P, phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng 4.970.000 cổ phần và bà T1 phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng 4.660.000 cổ phần theo Thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần.

Bản án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T về việc buộc bà M và những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà O là ông L, chị C, anh N tiếp tục thực hiện Thỏa thuận chuyển nhượng.

2. Đình chỉ giải quyết vụ án và trả lại một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về buộc những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tố tụng của bà O là ông L, anh N và chị C phải liên đới cùng ông Nguyễn Tiến P, bà Lưu M, bà T1, bồi thường thiệt hại 455.300.000.000 đồng.

3. Đình chỉ giải quyết vụ án đối với yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc ông P, phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng 4.970.000 cổ phần và bà T1 phải hoàn tất thủ tục chuyển nhượng 4.660.000 cổ phần theo Thỏa thuận chuyển nhượng cổ phần.

27

Bản án số 50/KDTM-PT ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. HCM.

Về việc: Nguyên đơn (bà H) và bị đơn (bà Nh) thỏa thuận chuyển nhượng vốn góp với tổng giá trị  2.200.000.000 đồng, bà H góp 67% và bà Nh góp 33% nhưng bà Nh không thực hiện góp vốn nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án xóa tư cách thành viên của Nh trong NLQ2.

Bản án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà H: Bà Bùi Thị Quỳnh Nh không còn là thành viên của NLQ2.

Bản án phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của bà Nh và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

41

Bản án số 48/2018/KDTM-PT ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân cao cấp tại TP. HCM.

Về việc: Nguyên đơn là ông Nguyễn Văn H tiến hành kiểm tra tình hình hoạt động của công ty cổ phần vận chuyển S nhưng ông K cản trở Ban kiểm soát thực hiện quyền kiểm tra, giám sát.

Bản án sơ thẩm: Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu Tòa án xử buộc ông K phải chấm dứt hành vi vi phạm, cấm không được cản trở Ban kiểm soát công ty cổ phần vận chuyển S.

Bản án phúc thẩm tuyê: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H vì không có căn cứ xác định hành vi vi phạm, cản trở Ban kiểm soát S thực hiện quyền kiểm tra, giám sát.

47

Bản án số 43/2018/KDTM–PT ngày 20/9/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. HCM.

Về việc: Nguyên đơn bà Lê Hoàng Diệp Th khởi kiện:

1. Yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định bãi nhiệm chức danh Phó Tổng Giám đốc Thường trực của bà Th, do ông Đặng Lê Nguyên V với tư cách Chủ tịch Hội đồng quản trị của Công ty Cổ phần Tập đoàn TN ký (Công ty TNH);

2. Yêu cầu Công ty TNH cung cấp các báo cáo tài chính liên quan đến hoạt động của Công ty qua các năm trước đây và đến thời điểm hiện tại; cung cấp Điều lệ, các Biên bản họp, Nghị quyết của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông của Công ty TNH theo quy định của pháp luật; cung cấp các user và mật khẩu truy cập vào phần mềm SAP để kiểm soát hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp;

3. Yêu cầu Tòa án ngăn chặn và có biện pháp kiểm soát việc chi tiêu, thanh toán của ông Đặng Lê Nguyên V (với tư cách là Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám đốc Công ty) bằng tài khoản của Công ty TNH cho các giao dịch cá nhân gây thiệt hại lớn cho Công ty và lợi ích của các cổ đông góp vốn, trong đó có bà Th;

4. Yêu cầu ông V với tư cách Chủ tịch Hội đồng quản trị phải triệu tập các cuộc họp Hội đồng quản trị và Đại hội đồng cổ đông (thường niên và bất thường) theo quy định của pháp luật.

5. Yêu cầu ông V với tư cách Chủ tịch Hội đồng quản trị chấm dứt hành vi sửa đổi Điều lệ và thay đổi cơ cấu tổ chức điều hành của Công ty TNH trong thời gian Tòa án xem xét giải quyết vụ kiện.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc:

– Yêu cầu Công ty TNH cung cấp các user và mật khẩu truy cập vào phần mềm SAP để kiểm soát hoạt động quản lý kinh doanh của doanh nghiệp.

– Yêu cầu Tòa án ngăn chặn và có biện pháp kiểm soát việc chi tiêu, thanh toán của Đặng Lê Nguyên.

– Yêu cầu ông Đặng Lê Nguyên V với tư cách Chủ tịch Hội đồng quản trị chấm dứt hành vi sửa đổi Điều lệ và thay đổi cơ cấu tổ chức điều hành của Công ty.

2. Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:

– Hủy bỏ quyết định bãi nhiệm chức danh Phó Tổng Giám đốc Thường trực của bà Lê Hoàng Diệp Th; khôi phục lại chức danh Phó Tổng Giám đốc Thường trực của bà Th;

– Ông Đặng Lê Nguyên V không được ngăn cấm, cản trở bà Lê Hoàng Diệp Th tham gia điều hành, quản lý Công ty, với tư cách là một thành viên Hội đồng quản trị và Phó Tổng Giám đốc Thường trực.

3. Ghi nhận sự thỏa thuận của các đương sự về việc:

– Công ty TNH đồng ý cung cấp các báo cáo tài chính liên quan đến hoạt động của Công ty; cung cấp Điều lệ, các Biên bản họp, Nghị quyết của Hội đồng quản trị, Đại hội đồng cổ đông của Công ty Cổ phần Tập đoàn TN theo quy định của pháp luật cho bà Lê Hoàng Diệp Th;

Bản án phúc thẩm quyết định:

1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với các phần kháng cáo mà các bị đơn là Công ty TNH và ông Đặng Lê Nguyên V đã rút kháng cáo tại phiên tòa phúc thẩm.

2. Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn là Công ty TNH và ông Đặng Lê Nguyên V; giữ nguyên Bản án sơ thẩm

Tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn:

+ Hủy bỏ quyết định bãi nhiệm chức danh Phó Tổng Giám đốc Thường trực của bà Lê Hoàng Diệp Th;

+ Ông V không được ngăn cấm, cản trở ngyên đơn Th tham gia điều hành, quản lý Công ty, với tư cách là một thành viên Hội đồng quản trị và Phó Tổng Giám đốc thường trực.

53

Bản án số 05/2018/KDTM-ST ngày: 29/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.

Về việc: Bị đơn là Nguyễn Thị T (bà T) chuyển nhượng cho bà B toàn bộ phần vốn góp của bà T với giá là 7.200.000.000 đồng nhưng bà T và Công ty TNHH Sam H không thực hiện đăng ký thay đổi tư cách thành viên cho bà B.

Bà B khởi kiện yêu cầu huỷ Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp đã ký; buộc bà T trả lại số tiền đã nhận 4.000.000.000 đồng; trả tiền lãi chậm trả với mức lãi suất 9%/năm, số tiền lãi phải trả là: 330.000.000 đồng và phải tiếp tục trả lãi cho đến chi trả đủ số nợ với  mức lãi suất 9%/năm.

Bản án sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Hồ Thị B.

1. Ghi nhận sự tự nguyện các đương sự về việc hủy Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa bà B với bà T.

Buộc bà T hoàn trả cho bà B số tiền chuyển nhượng vốn góp 4.000.000.000 đồng và lãi chậm trả 202.000.000 đồng, tổng cộng là 4.202.000.000 đồng.

74

Bản án số 124/2018/KDTM-PT ngày 22/8/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Về việc: Trong quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty M, Giám đốc công ty là ông D cùng ông L và bà B ký thỏa thuận chuyển nhượng vốn góp của ông L và bà B sang cho D mà không được sự đồng ý của các thành viên góp vốn khác, ông D tự ý làm thủ tục thay đôi thành viên góp vốn mà không được Hội đồng thành viên biểu quyết thông qua, Công ty thay đổi bổ sung thành viên, thay đổi bổ sung vốn, bán một phần tài sản của Công ty nhưng không sửa đổi, bổ sung điều lệ Công ty; không ra nghị quyết, quyết định cơ cấu tổ chức quản lý Công ty; không thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh; chuyển nhượng phần vốn góp không đúng quy định.

Nguyên đơn là ông C và ông H yêu cầu Tòa án giải quyết:

1. Tuyên bố anh Q không còn vốn góp tại Công ty M;

2. Tuyên bố ông D chỉ còn lại phần vốn góp 450.000.000 đồng tại Công ty M;

3. Tuyên bố Biên bản thỏa thuận (Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp) về chuyển nhượng phần vốn góp (20%) của L và bà B cho ông D là giao dịch vô hiệu.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của ông H, ông C về yêu cầu tuyên bố Biên bản thỏa thuận chuyển nhượng vốn góp là giao dịch vô hiệu.

Bản án phúc thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận toàn bộ nội dung yêu cầu khởi kiện của ông H, ông C về yêu cầu tuyên bố anh Huỳnh Đỗ Q không còn vốn góp và ông Huỳnh Đỗ D chỉ còn phần vốn góp 450.000.000 đồng và yêu cầu tuyên bố Biên bản thỏa thuận chuyển nhượng phần vốn góp (20%) của ông L và bà B cho ông D là giao dịch vô hiệu vì nội dung không làm ảnh hưởng đến quyền và nghĩa vụ của người thứ ba, hoặc người thứ ba đồng ý.

2. Tuyên bố D có phần vốn góp tại Công ty M là 3.350.000.000  đồng; anh Q có phần vốn góp là 1.000.000.000 đồng.

3.  Ông D và các thành viên góp vốn thuộc Công ty M có trách nhiệm phải làm thủ tục thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp tại cơ quan có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (do có thay đổi về vốn điều lệ, giá trị phần vốn góp và tỷ lệ phần vốn góp vào Công ty M) theo đúng các quy định của pháp luật.

80

Bản án số 12/2018/KDTM-PT ngày 29/5/2018 của Tòa án cấp cao tại Đà Nẵng.

Về việc: Nguyên đơn bà Nguyễn Trần Khánh D gia nhập Công ty TNHH thương mại dịch vụ Công nghệ số N với số vốn là 450.000.000 đồng. Bà D quyết định tăng số vốn góp lên 1.200.000.000 đồng và được Công ty đồng ý đồng thời cấp giấy chứng nhận vốn góp. Sau đó, bà đề nghị công ty làm thủ tục điều chỉnh nội dung đăng ký doanh nghiệp, tăng số vốn góp của bà từ 450.000.000 đồng lên 1.200.000.000 đến nhưng công ty vẫn không thực hiện do đó bà D khởi kiển.

Nguyên đơn yêu cầu Công ty N phải thực hiện thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp, để tăng mức vốn của bà từ 450.000.000 đồng lên 1.200.000.000 nếu không đồng ý thì yêu cầu Công ty phải trả lại cho bà D phần vốn góp vượt quá là 750.000.000 đồng và yêu cầu Công ty cung cấp cho bà D các bản báo cáo tài chính thể hiện hoạt động kinh doanh và tài sản của Công ty từ khi thành lập đến nay.

Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm tuyên: Không chấn nhận yêu cầu của nguyên đơn bà D yêu cầu bị đơn phải thay đổi nội dung đăng ký doanh nghiệp để tăng mức vốn góp cho nguyên đơn từ 450.000.000 đồng lên 1.200.000.000 đồng vì Giấy chứng nhận góp vốn này thực chất không phải là chứng nhận góp vốn mà đây là văn bản xác nhận bà D đưa tài sản cá nhân để đảm bảo cho công ty vay vốn; Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn cung cấp cho nguyên đơn các Bản báo cáo tài chính thể hiện hoạt động kinh doanh và tài sản của Công ty từ khi thành lập cho đến nay.

99

Bản án số 56/2017/KDTM-PT ngày 12/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. HCM.

Về việc: Bà Hà Thị Quý N và bà Nguyễn Phương L1 ký hợp đồng nhận chuyển nhượng của bà L1 49.000 cổ phần và thỏa thuận giá chuyển nhượng 49.000 cổ phần là 200.000.000 đồng. Bà N đã thanh toán đủ tiền cho bà L1. Sau đó, bà N biết bà L1 không có đủ thẩm quyền để chuyển nhượng và không đúng số cổ phần thực tế mà L1 đang sở hữu. Vì sau khi chuyển nhượng tỷ lệ cổ phần của các cổ đông phải được điều chỉnh nhưng trong giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số cổ phần của các cổ đông vẫn gữi nguyên

Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và buộc bà L1 trả lại cho bà số tiền đã nhận là 200.000.000 đồng

Bản án sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà N và buộc bà L1 trả lại cho bà 200.000.000 đồng vì việc chuyển nhượng đã được thông qua Biên bản họp đại hội đồng cổ đông,  không cần cập nhật đối với cổ đông không phải là thành viên sáng lập công ty, chỉ cần làm giấy xác nhận cổ phần do Công ty xác nhận cho cổ đông và quản lý danh sách cổ đông tại Công ty là được.

Bản án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bà Hà Thị Quý N; Giữ nguyên Bản án sơ thẩm; Không chấp nhận khởi kiện của bà N yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng cổ phần và không chấp nhận yêu cầu buộc bà L1 trả lại cho bà N 200.000.000 đồng.

107

Bản án số 54/2017/KDTM-PT ngày 11/12/2017 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. HCM.

Về việc: Ông Chen S chuyển nhượng phần vốn góp của mình cho thành viên còn lại là Ông Zang Sheng Y. Theo sự thỏa thuận thì ông Chen S với Ông Zang Sheng Y thành viên còn lại là đại diện theo pháp luật của công ty và cùng lúc bên nhận chuyển nhượng thanh toán số tiền vốn góp còn lại 100.000USD và 192.761.165 đồng. Sau đó công ty đã soạn hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp yêu cầu ông Chen S ký trước nhưng không đồng thời thanh toán số tiền chuyển nhượng nên ông Chen S từ chối ký vì vậy phát sinh tranh chấp.

Nguyên đơn Chen S khởi kiện yêu cầu Công ty TNHH H phải thanh toán số tiền nhận chuyển nhượng vốn góp còn lại là 2.552.000.000đ.

Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Chen S yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn H hoàn trả số tiền vốn góp là 2.552.000.000đ vì thực chất các bên thỏa thuận rút cổ phần chứ không có việc mua bán, chuyển nhượng lại vốn góp.

115

Bản án số 17/2017/KDTM-ST ngày 29/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng.

Về việc: Ông Cho Gun W và Công ty TC do ông Lee Hye G làm Giám đốc ký hợp đồng chuyển nhượng cổ phần nhưng công ty không thực hiện chuyển nhượng, không bàn giao quản lý cho nguyên đơn là ông Gun M.

Nguyên đơn là  ông W đề nghị Tòa án xem xét buộc Công ty hoàn trả cho số tiền là 3.000.000.000đ đã góp vốn.

Bản án sơ thẩm quyết định:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ông Cho Gun W đối với Công ty TC về việc “Tranh chấp hợp đồng góp vốn giữa người chưa phải là thành viên công ty nhưng có giao dịch về chuyển nhượng phần vốn góp với công ty”.

2. Buộc Công ty TC có trách nhiệm trả lại cho Ông Cho Gun W số tiền 3.000.000.000đ vì Công ty TC đã vi phạm nghĩa vụ trong việc thực hiện thỏa thuận góp vốn nên chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.

121

Bản án số 30/2017/KDTM-PT ngày 20/9/2017 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

Về việc: Nguyên đơn yêu cầu khởi kiện đối với bị đơn là Công ty Cổ phần cao su TNT về việc yêu cầu xác nhận vốn góp

Nguyên đơn yêu cầu:

1. Huỷ một phần Nghị Quyết Công ty TNT có nội dung Dương Văn H chưa được công nhận là cổ đông.

2. Buộc Công ty TNT xác nhận vốn góp của ông H là cổ đông của công ty đã góp vốn cổ phần vào Công ty TNT với số lượng 43.000 cổ phần tương đương với giá trị là 430.000.000 đồng.

Bản án sơ thẩm:

1. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu huỷ một phần Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông của nguyên đơn ông H; Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu phản tố khoản tiền 340.000.000 đồng của bị đơn Công ty TNT.

2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn công ty TNT, buộc nguyên đơn ông H phải trả cho bị đơn Công ty TNT số tiền 692.698.000 đồng

Bản án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn ông H, chấp nhận yêu cầu Kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.

1.  Sửa một phần Bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông H đối với bị đơn Công ty Cổ phần cao su TNT về việc xác định vườn ươm cao su Hồ T đã đưa vào Công ty  hoạch toán là số vốn góp của ông  H.

2. Huỷ một phần Bản án sơ thẩm đối với yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNT về buộc nguyên đơn ông H phải trả cho Công ty TNT số tiền 692.698.000 đồng; chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

128

Bản án số 14/2017/KDTM-ST ngày 28/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Về việc: Các bên thực hiện chuyển nhượng 5% cổ phần vốn góp với giá 1,5 tỷ đồng. Hai bên ký làm việc là ảo mục đích để ông T đối phó với ông L. Thực chất 5% cổ phần ông T chuyển cho ông T ngày vẫn là thuộc quyền sở hữu của ông Nguyễn Viết Th chứ không thuộc quyền sở hữu của ông Lê Minh T.

Nguyên đơn yêu cầu:

1. Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa ông và ông Lê Minh T vô hiệu đối với 5% ông Th nhờ ông T giữ hộ.

2. Tuyên Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp giữa ông Phạm Quang L và ông Lê Minh T vô hiệu trong đó có 5% cổ phần của ông Th nhờ ông T giữ hộ.

3. Yêu cầu ông L trả lại cho ông Th 5% vốn góp trong công ty TNHH Du lịch Khoang X Suối T đã nhận từ ông Lê Minh T vì đây là phần vốn góp thuộc sở hữu của ông Th nhờ ông T giữ hộ.

4. Yêu cầu ông L trả cho ông Th số tiền tương ứng với 5% vốn góp từ năm 2005 đến nay là 1.994.320.100 tiền gốc chưa kể lãi.

5. Tuyên huỷ Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần thứ 5, khôi phục Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh thay đổi lần 4.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Viết Th về việc tuyên bố giao dịch chuyền nhượng vốn giữa ông Nguyễn Việt Th và ông Lê Minh T bị vô hiệu đối với 5% phần vốn góp trong tổng 12,5% phần vốn góp ông T đã nhận chuyển nhượng từ ông Th.

2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Viết Th buộc ông Phạm Quang L phải trả lại ông Th 5% phần vốn góp trong tổng 25% phần vốn góp ông L đã nhận chuyển nhượng từ ông Lê Minh T.

3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Viết Th đòi ông L trả tiền lãi phát sinh từ 5% phần vốn góp là 2.712.257.335đ.

4.Yêu cầu Sở Kế hoạch và Đầu tư thành phố Hà Nội thay đổi nội dung đăng ký kinh doanh thêm 5% phần vốn góp cho ông Th và hủy Giấy chứng nhận thay đổi đăng ký kinh doanh lần thứ 5, 6 đồng thời khôi phục đăng ký kinh doanh lần 4 của Công ty TNHH Du lịch Khoang Xh Suối T của ông Nguyễn Viết Th không thuộc phạm vi giải quyết của vụ án

146

Bản án số 29/2017/KDTM-PT ngày 14/8/2017 của Tòa án cấp cao tại TP. HCM.

Về việc: Ông Kakazu S thực hiện quyền và nhiệm vụ được giao trái với quy định của pháp luật, Điều lệ của Công ty gây thiệt hại cho Công ty STT.

Nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng thuê văn phòng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SGSGTTC ngày 06/5/2015 giữa Công ty STT và Công ty NLQ3 (Công ty NLQ3) vô hiệu do người tham gia ký kết hợp đồng là ông Kakazu S không có thẩm quyền, việc này do Đại hội đồng cổ đông (ĐHĐCĐ) của Công ty quyết định và yêu cầu ông Kakazu S bồi thường 1.483.954.720 đồng.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Hợp đồng số 2415-HĐTVP/2015/PVM SG-SGTTC giữa Công ty NLQ3 và Công ty STT ký là vô hiệu.

2. Ông Kakazu S phải chịu trách nhiệm bồi thường cho Công ty STT 1.483.954.720 đồng.

Bản án phúc thẩm tuyên:

1. Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Kakazu S vì ông không có vụ lợi cá nhân khi ký kết và thự hiện hợp đồng

2. Sửa một phần Bản án sơ thẩm.

3. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Văn H về việc yêu cầu ông Kakazu S bồi thường cho Công ty NLQ4. Buộc ông Kakazu S phải bồi thường cho Công ty NLQ4 65.000.000 đồng, do việc sử dụng lao động nước ngoài làm việc tại Việt Nam không có giấy phép lao động và sử dụng lái xe để tham gia kinh doanh vận tải mà không có hợp đồng lao động.

4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H về việc yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hợp đồng giữa Công ty NLQ3 với Công ty NLQ4.

5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H về việc yêu cầu ông Kakazu S bồi thường cho Công ty NLQ4 1.408.254.720 đồng, do việc ký hợp đồng trái pháp luật; do ký hợp đồng liên kết taxi trái pháp luật và do bị phạt về hành vi không thực hiện đúng các nội dung niêm yết giá cước taxi.

6. Đình chỉ giải quyết các yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Văn H về việc yêu cầu ông Kakazu S bồi thường tiền đặt cọc của Công ty BVLV.

160

Quyết định giám đốc thẩm số 01/2015/KDTM-GĐT ngày 12/01/2015 của Tòa án nhân dân tối cao

Về việc: Nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên hủy 2 hợp đồng mua bán cổ phiếu của Công ty Cổ phần thủy điện Sông Ba Hạ và yêu cầu ông BĐ Trần Linh trả lại cho ông số tiền 169.500.000 đồng và tiền lãi theo lãi suất của Ngân hàng nhà nước vì tại thời điểm ký kết Công ty Sông Ba Hạ chưa phát hành cổ phiếu nên ông không có cổ phiếu để chuyển nhượng.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Chấp nhận đơn khởi kiện của nguyên đơn – ông NĐ Vân. Hủy hai hợp đồng mua bán cổ phiếu phổ thông của Công ty cổ phần thủy điện sông Ba Hạ lập.

2. Buộc ông BĐ Trần Linh có nghĩa vụ trả lại ông NĐ Đoàn Cửu Vân số tiền gốc là 169.500.000 đồng và phải bồi thường cho ông NĐ Vân 32.159.000 đồng. Tổng số tiền ông BĐ Trần Linh phải trả cho ông NĐ Vân là 201.659.000 đồng.

Bản án phúc thẩm: Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nằng quyết định hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án với lý do thời hiệu khởi kiện vụ án đã hết. Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị theo hướng hủy Bản án phúc thẩm.

Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định:

1. Bị đơn Trần Linh không có tài sản (cổ phiếu đứng tên ông Trần Linh) hoặc quyền sở hữu cổ phần để giao dịch với nguyên đơn ông Đoàn Cửu Vân, nên việc ông Trần Linh ký 2 hợp đồng mua bán chuyển nhượng cho ông Vân 25.000 cổ phiếu phổ thông của Công ty cổ phần thủy điện sông Ba Hạ là trái với quy định. Các hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu giữa ông Linh và ông Vân này bị coi là vô hiệu, lỗi hoàn toàn thuộc về ông Linh, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định hợp đồng chuyển nhượng cổ phiếu giữa ông Linh và ông Vân là họp pháp là không đúng.

2. Ông Vân thanh toán tiền cho ông Linh vào các ngày 30/5/2008, 23/8/2008 và 09/02/2010 với tổng số tiền là 169.500.000 đồng. Sau ngày 09/02/2010, các bên mới xảy ra tranh chấp, và ngày 16/12/2010 ông Đoàn Cửu Vân có đơn khởi kiện là trong thời hiệu khởi kiện. Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng là đã quá thời hiệu khởi kiện để quyết định hủy Bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án là không đúng.

Do đó, hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 53/2011/KDTM-PT; Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nằng xét xử phúc thẩm lại.

171

Bản án số 16/2014/KDTM-ST ngày 23/7/2014 của Tòa án nhân dân quận X, TP. HCM.  

Về việc: Nguyên đơn là Công ty cổ phần đầu tư phát triển Minh Quân khởi kiện bị đơn là Công ty cổ phần bê tông Lan My yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa hai bên là vô hiệu và yêu cầu Công ty 620 hoàn trả lại giá trị phần vốn góp 22 tỷ.

Nguyên đơn cho rằng việc chuyển nhượng này phải được sự chấp thuận của Hội đồng cổ đông/Đại hội đồng cổ đông nhưng ông Hưng là cổ đông, là thành viên hội đồng quản trị của Công ty Quang Minh vừa là cổ đông của Công ty 620 nhưng vẫn có phiếu biểu quyết là không đúng quy định. Đồng thời giữa Công ty Minh Quân và Công ty 620 chưa quyết toán cũng như thanh lý hợp đồng chuyển nhượng vốn góp trong công ty nên vô Hợp đồng này vô hiệu.

Bản án sơ thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng vốn là vô hiệu vì các bên đã thực hiện theo đúng quy định nên không có căn cứ tuyên vô hiệu

2. Do hợp đồng chuyển nhượng vốn góp giữa Công ty Minh Quân và Công ty 620 có hiệu lực nên không chấp nhận yêu cầu của Công ty cổ phần đầu tư phát triển Minh Quân về việc buộc Công ty cổ phần bê tông Lan My phải hoàn trả lại vốn góp là: 22.000.000.000 đồng tương đương tỷ lệ giá trị phần vốn góp chiếm 51,76% LQ_Công ty cổ phần đầu tư phát triển Minh Quân đô thị Miền Nam.

176

Bản án số 03/2014/KDTM-ST ngày 18/7/2014 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐN.

Về việc: Ông nguyên đơn Yang Tai Xin khởi kiện bị đơn Công ty TNHH Trung Tín yêu cầu thanh toán lợi nhuận và yêu cầu công nhận ông Yang Tai Xin là thành viên góp vốn của BĐ Công ty TNHH Trung Tín.

Tòa án có thẩm quyền tuyên:

1. Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Yang Tai Xin về việc buộc BĐ Công ty TNHH Trung Tín chia lợi nhuận công ty do tại phiên tòa nguyên đơn rút đơn yêu cầu.

2. Đối với yêu cầu công nhận ông Yang Tai Xin là thành viên góp vốn của bị đơn công ty Trung tín vượt quá phạm vi khởi kiện ban đầu, ông Yang Tai Xin chưa làm thủ tục khởi kiện bổ sung nên không có cơ sở xem xét.

3. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông NĐ_Yang Tai Xin về việc đòi lại tài sản là khoản tiền đặt cọc thuê nhà xưởng của Doanh nghiệp tư nhân Hạnh Nga. Buộc BĐ Công ty TNHH Trung Tín phải thanh toán cho ông NĐ Yang Tai Xin số tiền 489.742.386 đồng.  Vì giấy yêu cầu chuyển tiền không thể hiện nội dung, các bản photo email Công ty Trung Tín cung cấp không được xem là chứng cứ hợp lệ để chứng minh; Ông Yang Tai Xin cũng đã cung cấp các chứng từ để chứng minh số tiền trên không nhằm thanh toán tiền đặt cọc.

182

Bản án số 02/2014/KDTM-ST ngày 06/6/2014 Tòa án nhân dân tình ĐN

Về việc: Tranh chấp giữa nguyên đơn và bị đơn trong quá trình thành lập, hoạt động của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Hòa Nhân.

Nguyên đơn có đơn khởi kiện yêu cầu:

1. Buộc bà Nguyễn Thị Minh Hằng phải trả lợi nhuận cho ông Vũ Minh Long tổng cộng là 131.112.572 đồng.

2. Buộc bà Hằng phải trả cho ông số tiền lợi nhuận (Chi nhánh I) cảng PH bà Hằng chiếm dụng tổng cộng là 535.060.401 đồng.

3. Buộc bà Hằng thu hồi các tài sản mà bà tự ý bán của LQ Công ty, bà không vào sổ sách.

4. Buộc bà Hằng phải chia số tiền thu được từ việc bà tự ý chuyển nhượng đất dự án của LQ Công ty tại xã AL, thị trấn NS, tỉnh HD cho hai công ty là: Công ty Trách nhiệm hữu hạn H.N.P và Công ty Trách nhiệm hữu hạn G.M.I. Ông yêu cầu được chia số tiền là 567.219.100 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Sỹ Thắng đối với bà Hằng về việc buộc bà Hằng phải trả lợi nhuận cho ông; buộc bà Hằng phải chia tiền bà Hằng tự ý chuyển nhượng đất dự án của LQ Công ty cho ông số tiền 567.219.100 đồng và buộc bà Hằng phải thu hồi trả LQ Công ty các tài sản vì việc chia lợi nhuận cho các thành viên là trách nhiệm của LQ_Công ty TNHH Hòa Nhân.

2. Không chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Hằng đối với ông Nguyễn Sỹ Thắng bồi thường cho bà số tiền chi không hợp lý 302.907.580 đồng, trả lại tiền ký hợp đồng khống cho LQ_Công ty 126.000.000 đồng và trả cho bà lợi nhuận số tiền 1.004.197.227 đồng bởi lẽ mọi hoạt động thu chi của chi nhánh ông Thắng dã giao nộp về cho Công ty LQ_Công ty để LQ_Công ty hoạch toán và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Các báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh và các bản theo dõi thu chi các năm của LQ_Công ty không thể hiện việc ông Thắng có nợ LQ Công ty.

189

LINK TẢI: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP NỘI BỘ DOANH NGHIỆP

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan