NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên; Hội đồng xét xử phúc thẩm nhận định:
[1] Về tố tụng:
[1.1] Đơn kháng cáo của các bị đơn – ông Nguyễn Trọng H2, ông Nguyễn Hữu H1 đảm bảo đúng thủ tục, nội dung và nộp trong thời hạn theo quy định tại các Điều 272, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự nên hợp lệ; Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận xem xét lại bản án sơ thẩm theo trình tự phúc thẩm.
[1.2] Sự vắng mặt của các đương sự tại phiên tòa: Tòa án đã tống đạt quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định hoãn phiên tòa và quyết định tạm ngừng phiên tòa hợp lệ cho các đương sự; các đương sự vắng mặt không có lý do chính đáng hoặc sự kiện bất khả kháng, một số đương sự vắng mặt đã có đơn xin xét xử vắng mặt và đây là phiên tòa lần thứ hai nên theo quy định tại khoản 3 Điều 296 Bộ luật tố tụng dân sự thì Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt họ.
[2] Xét nội dung kháng cáo của ông Nguyễn Trọng H2, ông Nguyễn Hữu H1 về yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện vì cho rằng thời hiệu khởi kiện đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đã hết thì thấy:
[2.1] Về việc giao kết hợp đồng thế chấp:
Ngày 22/12/2010, Ngân hàng TMCP Đ1, chi nhánh V1 ký hợp đồng cấp bảo lãnh số 01/HĐBL-2010 với Công ty cổ phần Đ2 số 44, tổng trị giá bảo lãnh tối đa là 6.232.780.070 đồng để bảo lãnh hoàn tạm ứng theo Hợp đồng số NBLC-ICB A5-S10&11 giữa Công ty cổ phần Đ2 số 44 và Công ty K.
Để đảm bảo cho nghĩa vụ được bảo lãnh nêu trên cho Công ty cổ phần Đ2 số 44, bên thứ ba là ông Nguyễn Hữu H1, bà Nguyễn Thị L và ông Nguyễn Trọng H2, bà Phạm Thị Á đã thế chấp 02 quyền sử dụng đất cụ thể như sau:
+ Quyền sử dụng đất có diện tích 244,9m2 thuộc thửa số 112, tờ bản đồ số 04 tọa lạc tại phường L (nay là phường L), thành phố B, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được Ủy ban nhân dân thị xã B (nay là thành phố B) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AB 650888 ngày 19/4/2005. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.1 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011 giữa bên nhận thế chấp chi nhánh ngân hàng TMCP Đ1, bên vay Công ty Cổ phần Đ2 số 44 và bên thế chấp ông Nguyễn Hữu H1, bà Nguyễn Thị L. Đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 14/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B (nay là Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai thành phố B), tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
+ Quyền sử dụng đất có diện tích 259,3m2 thuộc thửa số 16, tờ bản đồ số 76A tọa lạc tại thị trấn N, huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu được Ủy ban nhân dân huyện C cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BC 584687 ngày 27/9/2010. Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.2 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011 giữa bên nhận thế chấp chi nhánh ngân hàng TMCP Đ1, bên vay Công ty Cổ phần Đ2 số 44 và bên thế chấp ông Nguyễn Trọng H2, bà Phạm Thị Á. Đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 12/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
[2.2] Ngân hàng Đ1 khởi kiện vợ chồng ông Nguyễn Trọng H2, vợ chồng ông Nguyễn Hữu H1 về tranh chấp hợp đồng thế chấp để yêu cầu được phát mãi tài sản thế chấp đảm bảo cho nghĩa vụ trả nợ thay cho Công ty Đ2 (do Công ty vi phạm nghĩa vụ trả tiền vay). Do đó, cần xác định đây là tranh chấp về hợp đồng thế chấp. Tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015 quy định về thời hiệu khởi kiện: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”.
Tòa án cấp sơ thẩm không áp dụng thời hiệu khởi kiện trong vụ án này theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Bộ luật dân sự 2015 “Yêu cầu bảo vệ quyền sở hữu, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên quan quy định” là không có căn cứ pháp luật, sai yêu cầu về giải quyết tranh chấp hợp đồng thế chấp trong vụ án.
[2.3] Bị đơn – ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Trọng H2 yêu cầu Tòa án áp dụng thời hiệu khởi kiện được đưa ra trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra Bản án. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm căn cứ vào khoản 2 Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự, áp dụng quy định về thời hiệu theo yêu cầu của ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Trọng H2.
[2.4] Áp dụng quy định về thời hiệu như sau:
[2.4.1] Xét thời điểm phát sinh quyền yêu cầu xử lý Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.1 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 14/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC- QSDĐ/DN.2 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 12/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu thì thấy:
Quá trình thực hiện Hợp đồng đã xảy ra sự kiện bảo lãnh của Ngân hàng TMCP Đ1 dẫn đến phát sinh nghĩa vụ của các bên, cụ thể: Công ty Đ2 đã vi phạm nghĩa vụ thi công Hợp đồng xây dựng nên Công ty K1 đã khởi kiện Ngân hàng TMCP Đ1 phải thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh. Tại Quyết định công nhận thỏa thuận của các đương sự số 20/2013/QĐST-KDTM ngày 26/9/2013 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm, Thành phố Hà Nội đã quyết định: Ngân hàng TMCP Đ1 phải thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh, hoàn trả cho Công ty K1 số tiền gốc đã tạm ứng 4.683.569.955 đồng; Công ty Đ2 có trách nhiệm thanh toán lại cho Ngân hàng TMCP Đ1 số tiền 4.683.569.955 đồng trong hời hạn 24 tháng kể từ ngày S1 chuyển số tiền 4.683.569.955 đồng cho Công ty K1, mỗi tháng trả 195.150.000 đồng và tiền lãi với lãi suất 12,34%/tháng, lãi quá hạn 150% lãi suất trong hạn.
Ngày 03/10/2013, Ngân hàng TMCP Đ1 đã chuyển tiền thanh toán cho Công ty K1 số tiền 4.683.569.955 đồng. Đồng thời cùng ngày 03/10/2013, Công ty Đ2 số 44 đã ký “Giấy nhận nợ lần thứ 1” xác nhận nợ phát sinh kể từ ngày 03/10/2013 là 4.683.569.955 đồng.
Căn cứ vào Quyết định công nhận thỏa thuận số 20/2013/QĐST-KDTM ngày 26/9/2013 của Tòa án nhân dân quận Hoàn Kiếm đã có hiệu lực pháp luật và “Giấy nhận nợ lần thứ 01” ngày 03/10/2013, “Giấy nhận nợ lần thứ 02” ngày 16/01/2014” giữa Công ty Đ2 và Ngân hàng TMCP Đ1 có cơ sở để xác định:
Tại thời điểm ngày 03/10/2013 đã phát sinh nghĩa vụ của Công ty Đ2 44 phải hoàn trả số tiền bảo lãnh mà Ngân hàng đã thanh toán cho Công ty K1; tuy nhiên Ngân hàng TMCP Đ1 và Công ty Đ2 44 tự nguyện thỏa thuận số nợ trên là khoản tiền vay có thời hạn vay được kéo dài đến ngày 18/01/2016.
Theo xác nhận của Ngân hàng TMCP Đ1 thì đến ngày 18/01/2016, Công ty Đ2 vẫn chưa trả được số tiền vay trên (bao gồm tiền nợ gốc 4.796.252.955 đồng và tiền lãi phát sinh). Do đó, xác định Công ty Đ2 44 vi phạm nghĩa vụ trả tiền vay bắt đầu từ ngày 19/01/2016.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều I Hợp đồng thế chấp số 10294-QSDĐ/DN.1 ngày 11/03/2011 giữa bên thế chấp ông Nguyễn Hữu H1, bà Nguyễn Thị L và bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ1 thỏa thuận:
“2. Nghĩa vụ được đảm bảo:
a. Nghĩa vụ hoàn trả (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi quá hạn, phạt và các chi phí phát sinh khác nếu có) theo Hợp đồng bảo lãnh số 01/HĐBL-2010 ngày 22/12/2010 ký giữa Bên B (bên được bảo lãnh Công ty Đ2 44) và Bên A (bên bảo lãnh Ngân hàng Đ1) với số tiền bảo lãnh là: 1.700.000.000 đồng (bằng chữ: Một tỷ bảy trăm triệu đồng chẵn) và các nghĩa vụ theo Hợp đồng khác với bên A dẫn chiếu tới Hợp đồng thế chấp này”.
Căn cứ điểm a khoản 2 Điều I Hợp đồng thế chấp số 10294-QSDĐ/DN.2 ngày 11/03/2011 giữa bên thế chấp ông Nguyễn Trọng H2, bà Phạm Thị Á và bên nhận thế chấp Ngân hàng TMCP Đ1 thỏa thuận:
“2. Nghĩa vụ được đảm bảo:
a. Nghĩa vụ hoàn trả (bao gồm nợ gốc, lãi, lãi quá hạn, phạt và các chi phí phát sinh khác nếu có) theo Hợp đồng bảo lãnh số 01/HĐBL-2010 ngày 22/12/2010 ký giữa Bên B (bên được bảo lãnh Công ty Đ2 44) và Bên A (bên bảo lãnh Ngân hàng Đ1) với số tiền bảo lãnh là: 600.000.000 đồng (bằng chữ: Sáu trăm triệu đồng chẵn) và các nghĩa vụ theo Hợp đồng khác với bên A dẫn chiếu tới Hợp đồng thế chấp này”.
Đồng thời, tại Điều VI của 02 Hợp đồng thế chấp tài sản thì điều kiện để xử lý tài sản thế chấp: “khi đến hạn trả nợ của các khoản vay nào được đảm bảo bằng tài sản thế chấp mà bên B (Công ty Đ2) không thực hiện và bên C (bên thế chấp) không thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay trong khoảng thời gian mà bên A (Ngân hàng) yêu cầu thì Ngân hàng được quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ”.
Như vậy, căn cứ vào thời điểm bắt đầu vi phạm nghĩa vụ trả tiền vay của Công ty Đ2 44 với Ngân hàng TMCP Đ1 và căn cứ vào thỏa thuận điều kiện xử lý tài sản thì Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định: Thời điểm phát sinh quyền yêu cầu xử lý Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.1 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 14/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.2 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 12/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện C, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu là kể từ ngày 19/01/2016. Ngân hàng TMCP Đ1 là người biết rõ quyền, lợi ích hợp pháp của mình bị Công ty Đ2 44 xâm phạm từ ngày 19/01/2016.
[2.4.2] Xác định thời hiệu khởi kiện của vụ án:
Căn cứ Điều 429 Bộ luật dân sự 2015 quy định: “Thời hiệu khởi kiện để yêu cầu Tòa án giải quyết tranh chấp hợp đồng là 03 năm, kể từ ngày người có quyền yêu cầu biết hoặc phải biết quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm”; Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định: Thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự đối với quan hệ tranh chấp hợp đồng thế chấp được ký giữa Ngân hàng TMCP Đ1 và vợ chồng ông Nguyễn Trọng H2, vợ chồng ông Nguyễn Hữu H1 được tính từ ngày 19/01/2016 đến ngày 19/01/2019.
Căn cứ ngày Ngân hàng TMCP Đ1 gửi đơn khởi kiện trực tiếp đến Tòa án nhân dân thành phố Bà Rịa theo giấy xác nhận số 59/GXN-TA ngày 30/3/2022; căn cứ khoản 2 Điều 190 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định “Ngày khởi kiện là ngày đương sự nộp đơn khởi kiện tại Tòa án” Hội đồng xét xử có cơ sở để xác định: Ngày khởi kiện là ngày 30/3/2022.
Đối chiếu giữa thời hiệu khởi kiện vụ án với ngày khởi kiện thì có căn cứ để xác định thời hiệu khởi kiện vụ án (thời hiệu Ngân hàng TMCP Đ1 khởi kiện liên quan đến Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.1 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 14/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.2 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 12/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu) đã hết.
[2.5] Giải quyết vụ án do thời hiệu khởi kiện đã hết:
Căn cứ điểm e khoản 1 Điều 217 Bộ luật tố tụng dân sự quy định đình chỉ giải quyết vụ án dân sự trong trường hợp: “Đương sự có yêu cầu áp dụng thời hiệu trước khi Tòa án cấp sơ thẩm ra bản án, quyết định giải quyết vụ án và thời hiệu khởi kiện đã hết” thì cần phải chấp nhận yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện của bị đơn – ông Nguyễn Trọng H2 và ông Nguyễn Hữu H1 để đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu khởi kiện. Ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Trọng H2 được quyền hưởng lợi từ việc áp dụng thời hiệu; nên Ngân hàng TMCP Đ1 không được quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp tại Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.1 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 14/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thị xã B và Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất của bên thứ ba số 10294/HĐTC-QSDĐ/DN.2 được công chứng tại Phòng C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu ngày 11/3/2011; đăng ký thế chấp vào lúc 08 giờ ngày 12/3/2011 tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất huyện C, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Bản án sơ thẩm tuyên xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, tuyên cho nguyên đơn được quyền yêu cầu xử lý tài sản thế chấp của phía bị đơn là không có căn cứ, áp dụng sai quy định của pháp luật; làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Trọng H2 yêu cầu được áp dụng thời hiệu khởi kiện, căn cứ vào Điều 311 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 để hủy bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án.
Trường hợp xét thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì vợ chồng ông Nguyễn Trọng H2, vợ chồng ông Nguyễn Hữu H1 được quyền khởi kiện Ngân hàng TMCP Đ1 để đòi lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
[3] Về chi phí tố tụng: Ngân hàng TMCP Đ1 phải chịu 3.000.000đ (Ba triệu đồng); đã nộp xong.
[4] Về án phí sơ thẩm:
Hoàn lại cho Ngân hàng TMCP Đ1 số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng).
[5] Về án phí phúc thẩm:
Người kháng cáo – ông Nguyễn Hữu H1, ông Nguyễn Trọng H2 không phải chịu.
[Nguồn: Bản án số 06/2024/KDTM-PT ngày 27-9-2024 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 06/2024/KDTM-PT
………………….
Luật sư tại Đà Nẵng:
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn