NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Ông Nguyễn Thanh S khởi kiện cho rằng: Diện tích 587,7m2 thuộc thửa số 73, tờ bản đồ số 18, tọa lạc tại khóm P3, phường C2, thị xã C1 là do gia đình ông Nguyễn Thanh S tạo lập vào năm 1970, để trồng hoa màu. Quá trình sử dụng đất, gia đình ông S đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước và thực hiện việc đăng ký kê khai; cụ thể: Ngày 30/3/1992, ông Nguyễn Thanh S đi đăng ký kê khai diện tích đất trên (được ông Nguyễn C4 – Chủ tịch UBND thị trấn B1 ký xác nhận) và ngày 30/10/1996, ông Nguyễn Thanh S tiếp tục đi kê khai (được ông Nguyễn H4 – Phó Chủ tịch UBND thị trấn B1 ký xác nhận) nhưng khi gia đình ông S làm đơn xin cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nhiều lần nhưng không được xem xét giải quyết.
Việc UBND thành phố C1 không xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với Thửa đất số 73 (diện tích 587,7m2), tờ bản đồ địa chính số 18 cho gia đình ông Nguyễn Thanh S là trái quy định pháp luật nên ông S đã làm đơn kiến nghị và UBND thành phố C1 ban hành Văn bản số 2699/UBND-TNMT ngày 30/7/2020 không chấp nhận đơn kiến nghị. Vì vậy, ông Nguyễn Thanh S khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản số 2699/UBND-TNMT ngày 30/7/2020 của UBND thành phố C1.
[2] Xét yêu cầu khởi kiện và yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S:
[2.1] Thửa đất số 73, tờ bản đồ số 18, diện tích 587,7m2 tại tổ dân phố P3, phường C2, thành phố C1 (ông Nguyễn Thanh S yêu c u UBND thành phố C1 xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất) đã được Chủ tịch UBND thị xã (nay là thành phố) C1 ban hành Quyết định số 61/QĐ-CT ngày 27/01/2005; giải quyết tranh chấp quyền sử dụng đất giữa ông Lê V (thường trú ấp L1, xã L2, huyện D, tỉnh Tây Ninh) với ông Nguyễn Thanh S, với nội dung: Bác đơn tranh chấp phần diện tích 587,7m2 thuộc thửa đất số 73, tờ bản đồ địa chính số 18 (đo đạc năm 2000) tại khóm P3, phường C2, thị xã C1 giữa ông Lê V với ông Nguyễn Thanh S và giao cho UBND phường C2 kiểm tra quá trình quản lý, sử dụng diện tích nêu trên đối với ông Nguyễn Thanh S, trên cơ sở đó đề xuất cho UBND thị xã C1 xem xét quyết định;” và đã được Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa giải quyết tại Quyết định số 121/QĐ-UBND, ngày 09/02/2006, với nội dung: Bác đơn khiếu nại của ông Lê V đối với Quyết định số: 61/QĐ-CT ngày 27/01/2005 của Chủ tịch UBND thị xã C1 và giao cho Chủ tịch UBND thị xã C1 ra quyết định thu hồi phần diện tích 533,4m2 thuộc thửa đất số 73, tờ bản đồ số 18 tọa lạc tại khóm P3, phường C2, thị xã C1 do ông Nguyễn Thanh S, vợ là bà Bùi Thị Th sử dụng để đưa vào sử dụng theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đai đã được UBND tỉnh phê duyệt tại Quyết định số: 238/QĐ-UB ngày 29/01/2004 khi thực hiện dự án”.
Các quyết định nêu trên của Chủ tịch UBND thị xã (nay là thành phố) C1 và của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa bị khởi kiện tại Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa và đã được Bản án hành chính sơ thẩm số 10/2020/HC-ST ngày 03/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa xử Bác yêu cầu hủy Quyết định số 61/QĐ-CT ngày 27/01/2005 và hủy Quyết định số 121/QD-UBND ngày 09/02/2006;
Bản án hành chính số 10/2020/HC-ST ngày 03/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa không bị kháng cáo kháng nghị và có hiệu lực pháp luật; ông Nguyễn Thanh S là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan trong Bản hành chính số 10/2020/HC-ST ngày 03/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa và nội dung của Quyết định số 121/QĐ-UBND ngày 09/02/2006 của Chủ tịch UBND tỉnh Khánh Hòa đã nhận định: “không có cơ sở pháp ly để công nhận phần diện tích nói trên do hộ ông Nguyễn Thanh S khai hoang mà có…H ông Nguyễn Thanh S đã sử dụng không hợp pháp phần đất này đ trồng 44 cây bạch đàn xung quanh khuôn viên m t phần lô đất…” và từ đó đã Quyết định: “giao cho Chủ tịch UBND thị xã C1 ra quyết định thu hồi phần diện tích 533,4m2 thu c thửa đất số 73, tờ bản đồ số 18 tọa lạc tại khóm P3, phường C2, thị xã C1 do ông Nguyễn Thanh S, vợ là bà Bùi Thị Th sử dụng không hợp pháp đất của Nhà nước quản lý …”. Như vậy, Quyết định số 121/QĐ-UBND ngày 09/02/2006 đã phát sinh nghĩa vụ giao đất, chấm dứt quyền sử dụng diện tích đất: “diện tích 533,4m2 thu c thửa đất số 73, tờ bản đồ số 18 tọa lạc tại khóm P3” của gia đình ông S nhưng ông S không khiếu nại, khởi kiện các quyết định số 61/QĐ-CT ngày 27/01/2005, Quyết định số 121/QD-UBND ngày 09/02/2006 hoặc kháng cáo đối với Bản án hành chính số 10/2020/HC-ST ngày 03/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Khánh Hòa là đã thừa nhận việc sử dụng không hợp pháp và đồng ý việc thu hồi diện tích 587,7m2 thuộc thửa đất số 73, tờ bản đồ địa chính số 18 (đo đạc năm 2000) tại khóm P3, phường C2, thị xã C1.
[2.2] Lời khai thừa nhận của ông S về diện tích đất 587,7m2 thuộc thửa số 73, tờ bản đồ địa chính số 18 đã được đưa vào Hợp tác xã B1 3 để sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách hợp tác hóa nông nghiệp vào năm 1985: “Năm 1985, Hợp tác xã B1 3 lâý đất vào hợp tác xã… khi Hợp tác xã giải thể, đất của ai về lại cho người đó quản lý, gia đình tôi nhận lại và tiếp tục quản lý sử dụng diện tích đất trên…”, phù hợp với việc Hợp tác xã B1 3 đăng ký kê khai là chủ sử dụng đất tại sổ đăng ký ruộng đất vào năm 1985 được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt. Như vậy, diện tích đất do ông Nguyễn Thanh S yêu cầu UBND thành phố C1 xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bị Nhà nước quản lý trong qua trình thực hiện chính sách đất đai; ông S không có tài liệu, chứng cứ được Nhà nước giao lại đất để sử dụng và không có giấy tờ theo quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 Luật đất đai 2003 (Điều 100 Luật đất đai 2013) là thuộc trường hợp lấn chiếm đất. Hơn nữa, diện tích đất 587,7m2 của thửa đất số 73, tờ bản đồ số 18 hiện nay nằm trong vùng đất quy hoạch chi tiết Khu dân cư sinh thái chất lượng cao C2 có tổng diện tích 109,4 ha được UBND tỉnh Khánh Hòa phê duyệt tại Quyết định số 238/QĐ-UB ngày 29/01/2004. Do đó, UBND thành phố C1, không có cơ sở xem xét giải quyết cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với Thửa đất số 73 (diện tích 587,7m2), tờ bản đồ địa chính số 18 (đo đạc năm 2000), tại TDP P3, phường C2, thành phố C1 cho ông Nguyễn Thanh S là đúng quy định của pháp luật.
[2.4] Với các nhận định nêu trên, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của ông Nguyễn Thanh S.
[3] Về án phí: Do yêu cầu kháng cáo không được chấp nhận nên người kháng cáo là ông Nguyễn Thanh S phải chịu án phí hành chính phúc thẩm nhưng ông S là người cao tuổi, thuộc đối tượng miễn án phí, có đơn đề nghị nộp cho Tòa án theo quy định tại Điều 12 và 14 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án nên miễn án phí hành chính sơ thẩm cho ông Nguyễn Thanh S.
[Nguồn: Bản án số: 252/2022/HC-PT ngày 16/11/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 252/2022/HC-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn