NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: các đương sự được triệu tập hợp lệ, tuy nhiên có đương sự vắng mặt nhưng đã có đơn xin xét xử vắng mặt, theo đề nghị của đương sự có mặt tại phiên tòa và của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử thấy đây là phiên tòa được triệu tập lần thứ nhất, các đương sự đều nhận được Giấy triệu tập hợp lệ, việc vắng mặt của đương sự có đơn xin xét xử vắng mặt, nên thống nhất quyết định tiếp tục tiến hành phiên tòa.
[2] Về nội dung:
[2.1] Xét quá trình lao động và đóng BHXH của ông Vũ Xuân L theo sổ BHXH số 6307003021; Hội đồng xét xử thấy rằng: từ tháng 3 năm 1979, ông Vũ Xuân L tham gia quân ngũ; đến tháng 12 năm 1983; năm 1994 ông L đi kinh tế mới tại huyện E, tỉnh Đắk Lắk, được Nông trường cà phê X (nay là Công ty TNHH MTV cà phê X) ký Hợp đồng nhận khoán số 743/HĐK ngày 15/9/1996 đến năm 2002, chăm sóc cây cà phê nhưng không đóng BHXH. Tháng 01/2003, ông L ký hợp đồng lao động với Công ty X là công nhân chính thức trong biên chế của Công ty và đóng BHXH theo quy định. Ngày 06/8/2003, ông L làm đơn xin truy đóng BHXH từ năm 1995; ngày 25/11/2003 Nông trường cà phê X ban hành Công văn số 51/CV-NT về việc xin đóng BHXH từ năm 1995 đến 2002 cho ông L. Được sự đồng ý phê duyệt của BHXH tỉnh Đắk Lắk, ông L đã thực hiện đóng BHXH bổ sung cho Nông trường Cà phê X để đơn vị chuyển cho BHXH tỉnh Đắk Lắk với số tiền là 6.439.440 đồng, theo các phiếu thu nộp tiền số 542, 543 ngày 04/12/2003 của Nông trường cà phê X; tương ứng với thời gian là 07 năm 11 tháng kế từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002. Ngày 15/11/2011, ông L nghỉ việc theo Quyết định số 14/2011/QĐ-CT của Công ty cà phê X v/v nghỉ việc để hưởng chế độ BHXH. Theo hồ sơ hưởng chế độ hưu trí thì thời gian được tính hưởng BHXH của ông L như sau: từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2006 là công nhân chăm sóc cà phê, Nông trường Cà phê X, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; từ tháng 01/2007 đến tháng 12/2009 là công nhân chăm sóc cà phê, Công ty Cà phê X, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; từ tháng 01/2010 đến tháng 11/2011 là công nhân chăm sóc cà phê, Công ty TNHH MTV Cà phê X, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Tổng thời gian công tác được tính hưởng BHXH là 21 năm 9 tháng. Ngày 02/12/2011, BHXH tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 1623/QĐ-BHXH về việc hưởng chế độ hưu trí hàng tháng đối với ông Vũ Xuân L từ ngày 01/12/2011, tổng lương hưu hàng tháng là 1.052.080 đồng. Tuy nhiên ngày 20/5/2021, Giám đốc BHXH tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 561/QĐ-BHXH về việc chấm dứt hưởng chế độ hưu trí đối với ông Vũ Xuân L kể từ ngày 01/7/2021 với lý do quá trình thu, truy thu, ghi sổ BHXH, xác nhận sổ và giải quyết hưởng chế độ hưu trí không đúng quy định. Đồng thời thu hồi số tiền đã chi trả cho ông L là 211.718.500 đồng. Ông L có đơn khiếu nại, ngày 13/10/2021 BHXH tỉnh Đắl Lắk ban hành Quyết định số 1147/QĐ-BHXH không chấp nhận đơn khiếu nại của ông L.
[2.2] Xét quá trình lao động và đóng BHXH theo sổ BHXH số 4098053292 của bà Nguyễn Thị M; Hội đồng xét xử thấy rằng: bà M được tuyển dụng làm công nhân Nông trường cà phê X theo Quyết định số 202/TCLĐ-QĐ ngày 10/4/1988 đến tháng 3/1993 và đã tham gia đóng Bảo hiểm xã hội bắt buộc đầy đủ. Từ năm 1991, Nông trường cà phê X thay đổi đường lối hoạt động, thực hiện việc giao khoán vườn cây cho người lao động. Tại Hợp đồng giao nhận khoán số 36/HĐK ngày 01/8/1996 thể hiện việc ký kết với Nông trường cà phê X có tên chồng bà M là ông Nguyễn Văn Quynh, nên từ tháng 4/1993, bà M vẫn tiếp tục làm công việc chăm sóc cây cà phê tại Nông trường cà phê X nhưng không đóng BHXH. Ngày 18/11/1997, bà M làm đơn xin Nông trường cà phê X cho bà được đóng nối BHXH từ tháng 4/1993 đến năm 1998. Ngày 28/10/1998 Nông trường cà phê X ban hành Tờ trình số 24/TT-N về việc xin đóng BHXH bổ sung cho bà M có sự đồng ý phê duyệt của BHXH tỉnh Đắk Lắk. Ngày 20/12/1998, Nông trường Cà phê X điều chỉnh truy thu cộng nối thời gian tham gia BHXH. Do vậy, bà M đã thực hiện đóng BHXH bổ sung cho Nông trường Cà phê X để đơn vị chuyển cho BHXH tinh Đắk Lắk với số tiền là 3.277.000 đồng, tương ứng với thời gian là 69 tháng kể từ tháng 4/1993 đến tháng 12/1998. Tháng 01 năm 1999, bà tiếp tục tham gia BHXH đến tháng 4 năm 2009. Ngày 13/4/2009, bà M nghỉ việc để hưởng chế độ BHXH theo Quyết định số 06/2009/QĐ-CT của Công ty cà phê X. Theo hồ sơ hưởng chế độ hưu trí thì thời gian được tính hưởng BHXH của bà M như sau: từ tháng 3/1988 đến tháng 12/2002 là công nhân chăm sóc cà phê, Nông trường Cà phê X, huyện E, tỉnh Đắk Lắk; từ tháng 01/2003 đến tháng 4/2009 là công nhân chăm sóc cà phê, Công ty Cà phê X, huyện E, tỉnh Đắk Lắk. Tổng thời gian công tác được tính hưởng BHXH là 21 năm 02 tháng. Ngày 24/4/2009, BHXH tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 573/QĐ-BHXH-CĐCS về việc hưởng chế độ hưu trí hàng tháng đổi với bà Nguyễn Thị M từ ngày 01/5/2009. Tuy nhiên, ngày 18/6/2021, BHXH tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 696/QĐ-BHXH về việc chấm dứt hưởng chế độ hưu trí đối với bà Nguyễn Thị M kể từ ngày 01/7/2021 với lý do quá trình thu, truy thu, ghi sổ BHXH, xác nhận sổ và giải quyết hưởng chế độ hưu trí không đúng quy định. Đồng thời thu hồi số tiền đã chi trả cho bà M là 330.999.400 đồng. Bà M có đơn khiếu nại, ngày 15/10/2021 BHXH tỉnh Đắl Lắk ban hành Quyết định số 1161/QĐ-BHXH không chấp nhận đơn khiếu nại của bà M.
[2.3] Xét quá trình lao động và đóng BHXH theo sổ BHXH số 6307 003019 của ông Lê Văn U; Hội đồng xét xử thấy rằng: năm 1992 ông U làm bảo vệ cho Nông trường cà phê X và ký Họp đồng nhận khoán để chăm sóc cà phê. Ngày 01/7/2003, ông U ký hợp đồng lao động với Công ty X là công nhân chính thức trong biên chế của Công ty và đóng BHXH theo quy định của pháp luật. Ngày 08/8/2003, ông U làm đơn xin truy đóng BHXH từ năm 1995, ngày 10/11/2003 Nông trường Cà phê X ban hành Công văn số 51/CV-NT về việc xin đóng BHXH từ năm 1995 đến 2002 cho ông U và được BHXH tỉnh Đắk Lắk đồng ý. Do vậy, ông U đã thực hiện đóng BHXH bổ sung cho Nông trường Cà phê X tương ứng với thời gian từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002 là 07 năm 11 tháng, nhưng Bảo hiểm xã hội tỉnh Đắk Lắk lại cho việc ông U đóng nối BHXH là không đúng quy định, cắt giảm thời gian đóng BHXH của ông U. Ông U có đơn khiếu nại; ngày 18/8/2021, BHXH tỉnh Đắk Lắk ban hành Quyết định số 2378/BHXH-TTKT không chấp nhận đơn của ông Lê Văn ước.
[3] Xét kháng cáo của BHXH tỉnh Đắk Lắk; Hội đồng xét xử thấy rằng:
[3.1] Đối với ông L, trong giai đoạn từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002, ông L không phải là công nhân trong chỉ tiêu biên chế của Nông trường cà phê X nhưng vẫn là người lao động thực hiện công việc chăm sóc cây cà phê dưới hình thức Hợp đồng nhận khoán vườn cây cà phê của Nông trường cà phê X. Tại Công văn số 96/CV-CT ngày 24/11/2020, Công ty TNHH MTV Cà phê X đã nêu rõ việc giao khoán vườn cây cà phê cho người lao động là sự thay đổi trong cơ chế làm việc của Nông trường cà phê X từ giai đoạn năm 1991 trở đi. Như vậy, thực chất dù không có tên trong danh sách công nhân thuộc chỉ tiêu biên chế nhưng ông L vẫn là người lao động của Công ty, được Công ty cà phê X thừa nhận, đã gắn bó với Nông trường cà phê từ khi mới thành lập, là người làm công, hưởng sản phẩm từ công ty, nên quyền lợi BHXH của ông L phải được đảm bảo theo quy định của pháp luật.
[3.2] Đối với ông U; trong giai đoạn từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002, ông U không phải là công nhân trong chỉ tiêu biên chế của Nông truờng cà phê X nhưng vẫn là người lao động thực hiện công việc chăm sóc cây cà phê dưới hình thức Hợp đồng nhận khoán vườn cây cà phê của Nông trường cà phê X. Tại sổ BHXH do Nông trường cà phê X quản lý vẫn ghi nhận ông U là “Công nhân chăm sóc cà phê Nông trường X – C – E”. Bản thân ông U là người lao động không hiểu biết pháp luật nói chung và các quy định về BHXH nói riêng. Sau này, khi biết được lợi ích của BHXH thì ông U có nguyện vọng được đóng nối BHXH nên đã làm đơn đề nghị, xin phép Nông trường cà phê X cho ông U tiếp tục đóng BHXH. Nông trường Cà phê X đã có Công văn số 51/CV-NT về việc xin đóng BHXH bổ sung cho công nhân Lê Văn U và được Bảo hiểm xã hội tỉnh Đắk Lắk xem xét, phê duyệt. Trên cơ sở đó, ông U mới được đóng bổ sung BHXH của 07 năm 11 tháng tính từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002. Cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Đắk Lắk cho phép ông U đóng nối BHXH, thu đủ số tiền đóng BHXH của ông U và Nông trường cà phê X trong thời gian từ tháng 01/1995 đến tháng 12/2002. Vì vậy, việc BHXH tỉnh Đắk Lắk cho rằng việc ông U đóng nối BHXH không đúng quy định, cắt giảm thời gian đóng BHXH của ông U, là không đúng với chủ trương chính sách, pháp luật về Bảo hiểm xã hội.
[3.3] Đối với bà M; trong giai đoạn từ tháng 4/1993 đến tháng 12/1998, bà M không phải là công nhân trong chỉ tiêu biên chế của Nông trường cà phê X nhung vẫn là người lao động thực hiện công việc chăm sóc cây cà phê dưới hình thức Hợp đồng nhận khoán vườn cây cà phê của Nông trường cà phê X. Bà M làm việc cho Nông trường cà phê X xuyên suốt thời gian từ năm 1988 đến khi có Quyết định nghỉ việc vào năm 2009. Giai đoạn từ tháng 4/1993 đến tháng 12/1998, mặc dù không còn trong biên chế nhưng thực chất bà M chưa nghỉ việc và Nông trường cà phê X vẫn chưa giải quyết bất cứ chế độ nghỉ việc nào cho bà M. Tại sổ BHXH do Nông trường cà phê X quản lý vẫn ghi nhận bà M là “Công nhân chăm sóc cà phê đội 14 Nông trường X – C- E”. Cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Đắk Lắk cho phép bà M đóng nối BHXH, thu đủ số tiền đóng BHXH của bà M và Nông trường cà phê X trong thời gian 69 tháng tính từ tháng 4/1993 đến tháng 12/1998. Nay BHXH tỉnh Đăk Lắk cho rằng việc bà M đóng nối BHXH là không đúng quy định và thu hồi toàn bộ số tiền lương hưu hàng tháng mà bà M được nhận là không đúng, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của bà M. Hơn nữa, theo cách tính của BHXH tỉnh Đắk Lắk bà M chỉ đóng BHXH trong thời gian 15 năm 5 tháng. Tuy nhiên, đối với số tiền BHXH bà M và Nông trường cà phê X đã đóng trong thời gian 69 tháng không được tính và không đề cập gì là gây ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của người lao động được pháp luật bảo vệ.
[4] Từ nhận định trên đây, xét thấy; Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét toàn diện chứng cứ xử chấp nhận đơn của những người khởi kiện là đúng pháp luật. Tại phiên tòa hôm nay, BHXH tỉnh Đắk Lắk kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ nào mới là thay đổi đường lối giải quyết vụ án; do vậy Hội đồng xét xử bác kháng cáo của BHXH tỉnh Đắk Lắk, giữ nguyên quyết định của Bản án sơ thẩm, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ.
[5] Do kháng cáo của BHXH tỉnh Đắk Lắk không được chấp nhận nên BHXH tỉnh Đắk Lắk phải chịu án phí hành chính phúc thẩm theo quy định.
[Nguồn: Bản án số 95/2023/HC-PT ngày 31/3/2023 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 95/2023/HC-PT
———–
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn