FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 05 bản án về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
STT | NỘI DUNG TÓM TẮT | SỐ TRANG |
1 | Bản án số: 07/2020/HS-ST ngày 28/04/2020 của Tòa án nhân dân huyện M’Đrắk, tỉnh Đắk Lắk
Về tội: “Gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp” Nội dung vụ án: Khoảng cuối năm 2004 Nguyễn Văn M đã nhờ ông Bùi Hữu B (đã chết) làm thủ tục hồ sơ và kê khai khống quá trình công tác tham gia đóng Bảo hiểm xã hội từ năm 1982 đến năm 2004 của vợ mình là bà Võ Thị H tại Nông trường cà phê A. Cơ quan Bảo hiểm xã hội làm thủ tục cho bị cáo H được nhận chế độ hưu trí hàng tháng, mặc dù trên thực tế bà H không phải là công nhân của Nông trường cà phê A và cũng không tham gia đóng Bảo hiểm xã hội. Bà H biết mình không thuộc diện được hưởng và các tài liệu kê khai quá trình công tác của mình là làm khống nhưng bị cáo H vẫn ký các tài liệu hoàn tất hồ sơ để hưởng chế độ hưu trí, từ tháng 6/2005 đến tháng 10/2018 bà H đã nhận được tổng số tiền 399.886.100 đồng từ Bảo hiểm xã hội. Nhận định của Tòa án sơ thẩm: HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Vì mục đích vụ lợi nên vào khoảng cuối năm 2004 bị cáo Nguyễn Văn M đã nhờ ông Bùi Hữu B (đã chết) làm thủ tục hồ sơ và kê khai khống quá trình công tác tham gia đóng BHXH từ năm 1982- 2004 của bị cáo H tại Nông trường cà phê A. Từ tháng 6/2005 đến tháng 10/2018 bị cáo H đã chiếm đoạt tổng số tiền 399.886.100 đồng từ BHXH. Hành vi của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Gian lận bảo hiểm xã hội”. Xét thấy các bị cáo đều có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, các bị cáo đều là người cao tuổi, việc không bắt các bị cáo chấp hành hình phạt tù, không gây nguy hiểm cho xã hội, nên không cần cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Chấp nhận việc bị cáo Nguyễn Văn M, Võ Thị H đã trả lại cho Bảo hiểm xã hội tỉnh Nghệ An số tiền 399.887.000 đồng Đối với ông Nguyễn Công H1 có ký một số giấy tờ liên quan với tư cách là PGD Nông trường cà phê A trong hồ sơ hưởng chế độ của bà Võ Thị H có dấu hiệu của tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”, nhưng đến nay đã hết thời hiệu xử lý hình sự… Tòa án sơ thẩm quyết định: – Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn M, Võ Thị H phạm tội “Gian lận bảo hiểm xã hội”. – Xử phạt bị cáo Võ Thị H 02 năm 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm ngày 28/4/2020. Giao các bị cáo Nguyễn Văn M, Võ Thị H cho Uỷ ban nhân dân xã M3, huyện Đ1, tỉnh Nghệ An giám sát giáo dục và gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với chính quyền địa phương trong việc giám sát giáo dục các bị cáo trong thời gian thử thách. – Về trách nhiệm dân sự: chấp nhận việc các bị cáo Nguyễn Văn M, Võ Thị H trả lại cho Bảo hiểm xã hội tỉnh Nghệ An số tiền 399.887.000 đồng. |
01-07 |
2 | Bản án số: 65/2021/HS-ST ngày 18/11/2021 của Tòa án nhân dân huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh
Về tội: “Gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp” Nội dung vụ án: Ông Phan Văn C (đã chết), có vợ là bà Trần Thị H. Từ năm 1965 – 9/1986, ông Phan Văn C tham gia Thanh niên xung phong tại tỉnh Quảng Trị sau đó về C tác tại Nông trường chè 20/4 Nghệ Tĩnh. Tháng 02/1986, Hội đồng Giám định Y K tỉnh Nghệ Tĩnh kết luận khả năng lao động của ông C thuộc hạng B. Ngày 25/8/1986, ông Phan Văn C được nghỉ hưởng chế độ mất sức lao động tại xã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh. Từ tháng 10/1986, ông C tiếp tục công tác tại Xí nghiệp thủy sản Kẻ Gỗ, thuộc Sở thủy sản tỉnh Hà Tĩnh, ngày 29/10/1993 UBND tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quyết định số 1050/QĐ cho ông C nghỉ hưởng chế độ Hưu trí từ ngày 01/11/1993, tại xã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên. Đến 1993, ông Phan Văn C và bà Trần Thị H chuyển sinh sống và đăng ký thường trú tại: Khối 8, phường Tân Lợi, TP. B, tỉnh Đắc Lắc, đồng thời cắt chuyển chế độ Hưu trí theo Quyết định số 1050/QĐ ngày 29/10/1993 từ Hà Tĩnh đến cơ quan BHXH tỉnh Đắc Lắc chi trả từ ngày 01/11/1993. Ngày 17/9/2001, ông Phan Văn C chết, nên bà Trần Thị H được BHXH tỉnh Đắc Lắc ban hành quyết định số 142/QĐ ngày 29/11/2001 cho hưởng chế độ tử tuất hàng tháng, kể từ ngày 01/10/2001. Đối với chế độ mất sức lao động của ông Phan Văn C theo Quyết định số 39/QĐ ngày 25/8/1986 của Giám đốc Nông trường 20/4 vẫn được BHXH tỉnh Hà Tĩnh chi trả tại tã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, do ông C nhờ ông Trần Văn M nhận thay hoặc trực tiếp nhận mỗi khi trở về quê. Sau khi ông C chết, chế độ trợ cấp mất sức lao động được chi trả tại BHXH tỉnh Hà Tĩnh vẫn tiếp tục được thực hiện do các cơ quan liên quan chưa nắm được việc ông C đã chết. Thời gian này Trần Văn M hoặc ông Phan Thanh M (hiện đã chết là em trai ông C) trực tiếp nhận chế độ mất sức lao động chi trả cho ông C và gửi vào cho bà H qua địa chỉ của anh Phan Xuân T (Con trai ông C), tuy nhiên phía gia đình bà H không biết đây là tiền chi trả chế độ mất sức lao động của ông C tại quê. Đến cuối tháng 10/2004, biết việc ông C đã chết mà vẫn hưởng chế độ mất sức lao động, Trần Văn M gặp ông Phạm Xuân K cán bộ chi trả chế độ BHXH trên địa bàn xã Cẩm M hỏi thủ tục thôi hưởng chế độ. Được ông K tư vấn về đối tượng đủ điều kiện hưởng chế độ tử tuất sau khi ông C chết, M biết bà H là đủ điều kiện hưởng chế độ này. Để làm hồ sơ, M đến UBND xã Cẩm M làm thủ tục khai tử để cắt chế độ mất sức lao động chuyển sang chế độ tử tuất. Để thực hiện việc khai tử phù hợp với hồ sơ nhận chế độ mất sức lao động của ông C, M đã khai khống các thông tin về ngày chết, nơi chết tại xã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh, lý do chết là ốm đau. Đồng thời, nhờ ông Trần Văn K (Đã chết) – thời điểm đó là Trưởng C an xã Cẩm M xác nhận bà Trần Thị H có hộ khẩu thường trú tại xã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên, trong đó có nội dung khai khống về việc chết của ông C. Trên cở sở các giấy tờ này và hồ sơ Bảo hiểm xã hội của ông C, ngày 10/12/2004 Giám đốc Bảo hiểm xã hội tỉnh Hà Tĩnh ban hành Quyết định số: 604/QĐ-BHXH-CĐCS về việc cho bà Trần Thị H được hưởng chế độ tử tuất hàng tháng gồm: tiền mai táng phí và tiền trợ cấp hàng tháng kể từ ngày 01/11/2004, số hồ sơ BHXH: 253696. Dưới danh nghĩa bà H, Trần Văn M đã trực tiếp nhận các khoản chế độ tử tuất theo Quyết định số: 604/QĐ-BHXH-CĐCS. Mỗi lần nhận tiền, M đều ký tên bà H tại phần chữ ký người nhận trong danh sách chi trả chế độ BHXH. Đến tháng 7/2020, qua rà soát các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trên địa bàn, Bảo hiểm 4 xã hội huyện Cẩm Xuyên phát hiện hồ sơ hưởng chế độ tử tuất của bà Trần Thị H có dấu hiệu sai phạm nên đã tạm dừng việc chi trả. Tổng số tiền trợ cấp chế độ tử tuất Trần Văn M nhận dưới danh nghĩa bà Trần Thị H là 70.996.000 đồng. Số tiền được nhận, M sử dụng để chi tiêu cá nhân. Nhận định của Tòa án sơ thẩm: – Quá trình điều tra, truy tố cũng như tại phiên tòa, bị cáo Trần Văn M đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai của bị cáo là khách quan, phù hợp với Cáo trạng truy tố, cũng như các tài liệu, chứng cứ có tại hồ sơ vụ án. HĐXX có căn cứ kết luận: Lợi dụng hồ sơ chi trả chế độ mất sức lao động của ông Phan Văn C (đã chết), có vợ là bà Trần Thị H, không cắt chuyển khẩu. Vì mục đích vụ lợi, tháng 10/2004 Trần Văn M đã đến UBND xã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh kê khai không đúng thời gian ông Phan Văn C chết và lấy tên bà Trần Thị H kê khai khống các tài liệu liên quan để cơ quan BHXH tỉnh Hà Tĩnh làm thủ tục cho bà Trần Thị H được nhận chế độ tử tuất hàng tháng từ ngày 01/11/2004 đến hết tháng 02/2021, chiếm đoạt với tổng số tiền 70.996.000 đồng. Trên thực tế, chế độ tử tuất của bà Trần Thị H được hưởng từ ông Phan Văn C đã được cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh Đắc Lắc chi trả theo quy định. – Về trách nhiệm dân sự: Bị cáo đã khắc phục đầy đủ số tiền chiếm đoạt cho bị hại. Bị hại không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không xem xét. – BHXH tỉnh Hà Tĩnh còn bị thiệt hại số tiền chi trả trợ cấp mất sức lao động sau khi người hưởng (ông Phan Văn C) đã chết từ tháng 11/2001 đến tháng 10/2004. Quá trình điều tra xác định những người liên quan không có hành vi gian lận để chiếm đoạt số tiền này, hành vi không có dấu hiệu tội phạm. Mặt khác, phía bị hại không có yêu cầu truy thu lại số tiền này cũng như không đề nghị xem xét trách nhiệm của những người liên quan. Do vậy, cơ quan Cảnh sát điều tra không xem xét, xử lý là có căn cứ. Tòa án sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Văn M phạm tội “Gian lận bảo hiểm xã hội”. – Xử phạt bị cáo Trần Văn M 09 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo với thời gian thử thách 18 tháng. Giao bị cáo Trần Văn M cho UBND xã Cẩm M, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. |
08-13 |
3 | Bản án số: 15/2022/HS-ST ngày 06/05/2022của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre
Về tội: “Gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp” Nội dung vụ án: Từ đầu năm 2019 đến quí I/2021, Trần Ái Th – Kế toán trưởng kiêm Thủ quỹ Công ty TNHH may mặc S – Bến Tre (Công ty A) địa chỉ ấp An Bình, xã An Hiệp, huyện Châu Thành, tỉnh Bến Tre, đã tự lập danh sách hưởng chế độ nghỉ dưỡng sức sau khi sinh cho 37 trường hợp người lao động làm việc tại Công ty S, vào chung danh sách đề nghị cho người lao động hưởng chế độ ốm đau, nghỉ thai sản, dưỡng sức sau khi sinh. Sau đó Th dùng mật khẩu, con dấu và chữ ký số điện tử của ông KT – Tổng Giám đốc Công ty S ký tên vào danh sách đề nghị gửi về BHXH huyện CT, tỉnh Bến Tre. Sau khi BHXH huyện CT, tỉnh Bến Tre chuyển tiền hưởng chế độ trên về tài khoản Công ty S để chi trả cho người lao động trong đó có 37 trường hợp nêu trên, thì Th lập séc trình ông KT ký rút tiền từ ngân hàng về chi trả chế độ ốm đau, nghỉ thai sản cho người lao động. Còn số tiền nghỉ dưỡng sức sau khi sinh thì Th lập sổ theo dõi riêng và sử dụng vào mục đích cá nhân, với số tiền 94.305.000đ. Cụ thể: Năm 2019; 04 lần với số tiền 43.794.000 đồng, năm 2020; 04 lần với số tiền 32.184.000 đồng, năm 2021; 01 lần với số tiền 18.327.000 đồng. Đến tháng 5/2021, những người lao động phát hiện được hưởng số tiền nghỉ dưỡng sức sau khi sinh trên hệ thống bảo hiểm điện tử nhưng thực tế không được nhận nên gặp Th để hỏi. Sau đó Th báo cáo Tổng Giám đốc Công ty S do không am hiểu pháp luật về thực hiện chế độ bảo hiểm, làm sai và đề nghị chuyển trả số tiền 94.305.000 đồng về BHXH huyện CT, tỉnh Bến Tre (do lúc này trong tài khoản Công ty S đã có tiền). Sau đó Th nộp tiền mặt vào quỹ Công ty S đúng như số tiền mà Công ty S chuyển trả cho Bảo hiểm xã hội huyện CT. Nhận định của Tòa án sơ thẩm: – Do động cơ tư lợi bất chính nên trong khoảng thời gian từ năm 2019 đến quý I năm 2021, tại Công ty S, địa chỉ: ấp AB, xã AH, huyện CT, tỉnh Bến Tre, Trần Ái Th là kế toán kiêm thủ quỹ của công ty đã 09 lần lập khống hồ sơ cho 37 trường hợp người lao động để hưởng chế độ nghỉ dưỡng sau khi chiếm đoạt tiền của BHXH huyện CT, tỉnh Bến Tre tổng số tiền 94.305.000 đồng. – Qua xem xét tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân, tình tiết tăng nặng và các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, thấy rằng hành vi phạm tội của bị cáo chỉ cần áp dụng hình phạt chính là hình phạt tiền cũng đủ điều kiện để cải tạo giáo dục bị cáo, răn đe và phòng ngừa chung, đồng thời cũng thể hiện tinh thần nhân đạo của pháp luật. Tuy nhiên bị cáo phạm tội khi đang đảm nhận chức vụ Kế toán trưởng, kiêm thủ quỹ của Công ty S. Vì vậy để tăng cường hiệu quả của hình phạt chính đã đồng thời loại bỏ điều kiện cho việc bị cáo sẽ thực hiện hành vi phạm tội lại nên cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định trong thời gian nhất định trong thời gian 05 năm theo quy định. Tòa án sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Ái Th phạm “Tội gian lận bảo hiểm xã hội”. – Xử phạt bị cáo Trần Ái Th 60.000.000 đồng, để nộp vào ngân sách nhà nước. Hình phạt bổ sung: Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc công việc nhất định (Kế toán trưởng, Thủ quỹ) trong thời gian 05 năm kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. |
14-18 |
LINK PDF: Tổng hợp 05 bản án về tội gian lận bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn