Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hôn nhân và GĐ / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án về tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung, vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án về tranh chấp ly hôn, chia tài sản chung, vô hiệu hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất, vô hiệu hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]. Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa và nghe ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát, HĐXX xét thấy,

[2]. Về việc ủy quyền: tại cấp sơ thẩm bà Bùi Trần Phú T tham gia vụ án với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Nguyễn Ngọc Y. Ngày 22/02/2021, bà Thư có Thông báo chấm dứt tham gia tố tụng với tư cách người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn Nguyễn Ngọc Y. Cùng ngày 22/02/2021, ông Y và bà Thư ký Hợp đồng ủy quyền bà Thư đại diện theo ủy quyền cho ông Y tham gia tố tụng tại Tòa án các cấp. Nhận thấy việc ủy quyền này phù hợp với quy định tại khoản 1 Điều 138 của Bộ luật Dân sự, nên được HĐXX chấp nhận.

[3]. Về thủ tục kháng cáo: Bản án sơ thẩm được tuyên ngày 21/10/2020, đến ngày 26/10/2020, ông Nguyễn Ngọc Y kháng cáo là trong thời gian luật định, nên được chấp nhận xem xét theo thủ tục phúc thẩm.

[4]. Về nội dung kháng cáo: ông Nguyễn Ngọc Y kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của ông, cụ thể:

[4.1]. – Yêu cầu tuyên bố vô hiệu các Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23/4/2018 và ngày 23/5/2018 giữa ông Y và bà H do bà H vi phạm điều kiện không đưa đủ cho ông 500.000.000 đồng sau khi ông ký Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất cho bà H.

[4.2]. – Hủy tất cả các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do S Tài nguyên và Môi trường tỉnh An Giang cấp cho Hồ Thị Tú E, đất tại xã B, huyện C, tỉnh An Giang như sau:

[4.2.1]. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gần liền với đất số CS08042, ngày 26/4/2019, diện t ch 131,7m2 , loại đất nông thôn, Thửa số 552, Tờ bản đồ số 3 .

[4.2.2]. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gần liền với đất số CS08041, ngày 26/4/2019, diện t ch 116,6m2 , loại đất nông thôn, Thửa số 551, Tờ bản đồ số 3;

[4.2.3]. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gần liền với đất số CS08038, ngày 26/4/2019 diện t ch 113m2 , loại đất làm nghĩa trang, nghĩa địa, Thửa số 237, Tờ bản đồ số 3;

[4.2.4]. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gần liền với đất số CS08039, ngày 26/4/2019, diện t ch 1.706,8m2 , loại đất nuôi trồng thủy sản, Thửa số 238, Tờ bản đồ số 3;

[4.2.5]. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền s hữu nhà và tài sản khác gần liền với đất số CS08040, ngày 26/4/2019, diện t ch 2.465,3m2 , loại đất và đất trồng cây lâu năm, Thửa số 239, Tờ bản đồ số 3,

[4.2.6]. + Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CS07968, ngày 11/3/2019, Diện tích đất 16.704m2 , loại đất chuyên trồng lúa nước, các Thửa số: 979, 980, 1001, Tờ bản đồ số 73.

[4.3]. – Yêu cầu chia tài sản chung như sau: tài sản chung chia đôi, ông nhận hiện vật là căn nhà số 360 cùng diện t ch đất 131,7m2 và diện t ch đất nông nghiệp 16.704m2 , trị giá chung là 2.344.997.000 đồng, ông hoàn lại giá trị cho bà H. Tất cả các tài sản khác đồng ý giao lại cho bà H, bà H phải hoàn lại ½ giá trị cho ông.

[4.4]. – Ông đồng ý hoàn lại 250.000.000 đồng đã nhận của bà H sau khi đã được nhận lại toàn bộ tài sản mà ông yêu cầu. [5]. Xem xét yêu cầu kháng cáo của ông Y, HĐXX xét thấy:

[6]. Giữa bà H và ông Y thống nhất trình bày: quá trình chung sống, ông bà tạo lập được các tài sản chung như sau:

[6.1]. – Đất nông nghiệp, diện t ch 16.704m2 ;

[6.2]. – Đất nuôi trồng thuỷ sản, diện t ch 1.706,8m2 ;

[6.3]. – Đất nông thôn và đất trồng cây lâu năm, diện t ch 2.465,3m2 (thổ cư, 600m2 , đất trồng cây lâu năm là 1.865,3m2 ; trên đất có 16 căn phòng trọ. Bản án sơ thẩm nêu 18 phòng trọ, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông Y và bà H thống nhất xác định có 16 căn phòng trọ, nên có cơ sở xác định tài sản chung có 16 căn phòng trọ.

[6.4]. – Đất nông thôn, diện t ch 131,7m2 , trên đất có căn nhà số 358. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bà H và Tú E đã tháo dỡ nhà, không còn tồn tại.

[6.5]. – Đất nông thôn, diện t ch 116,6m2 . Trên đất có căn nhà số 360 [6.6] Ngoài ra, còn các tài sản mà ông, bà không tranh chấp gồm: Đất sử dụng làm nghĩa trang, nghĩa địa, diện t ch 113m2 , hiện do bà Tú E đang quản lý; 05 phòng karaoke gần liền với quyền sử dụng đất diện tích 300m2 tại xã B, huyện C, tỉnh An Giang mua của ông P, hiện nay do bà Đây đứng tên; 01 chiếc xe SH, biển số 67D1-74949 do ông Nguyễn Ngọc Y đứng tên chủ sở hữu.

[7]. Trong tháng 4/2018, ông Y và bà H thỏa thuận, ông Y tặng cho bà H toàn bộ quyền sử dụng đất là tài sản chung của vợ chồng thể hiện qua: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23/4/2018 (Bút lục 130-132), ông Y tặng cho bà H 03 quyền sử dụng đất trong diện tích 4.533,4m2 gồm các loại đất nông thôn, đất ao và đất thổ cư trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Y và bà H cùng đứng tên; Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23/5/2018 (Bút lục 146-147), ông Y tặng cho quyền sử dụng đất trong diện tích 16.704m2 đất chuyên trồng lúa nước trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do ông Y và bà H cùng đứng tên; bà H giao lại cho ông Y 500.000.000 đồng tiền mặt sau khi ông Y ký Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất. Việc thỏa thuận giao tiền và thời gian thực hiện không được lập thành văn bản, nhưng bà H và ông Y đều xác nhận có thỏa thuận nội dụng này. Sự thừa nhận của đương sự là tình tiết không phải chứng minh theo quy định tại khoản 2, Điều 92 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Như vậy, xác định việc thỏa thuận này là tặng cho tài sản có điều kiện theo quy định tại Điều 462 của Bộ luật Dân sự.

[8]. Thực hiện việc tặng cho tài sản, ông Y đã ký Hợp đồng tặng cho và giao toàn bộ quyền sử dụng đất cho bà H; bà H đã chuyển tên và đã được cấp các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền s hữu nhà và tài sản khác g n liền với đất số: CS07568, CS07569, CS07570, CS07571, CS07572 cùng ngày 10/5/2018 và số CS07603, ngày 08/6/2018 (Bút lục 133, 134, 135, 136, 138, 144, 142, 140); bà H trình bày đã giao cho ông Y đủ 500.000.000 đồng, nhưng ông Y xác nhận chỉ nhận được 250.000.000 đồng. Tại Biên bản làm việc ngày 10/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện C (Bút lục 25) bà H trình bày đã đưa cho ông Y bằng tiền và tài sản trị giá chung 300.000.000 đồng, còn 200.000.000 đồng chưa đưa cho ông Y. Xét về chứng cứ, việc bà H trình bày đã đưa cho ông Y 300.000.000 đồng hoặc đưa đủ 500.000.000 đồng, không được ông Y thừa nhận, bà H không có chứng cứ để chứng minh, nên không có cơ s để chấp nhận. Do đó, xác định số tiền bà H đã đưa cho ông Y là 250.000.000 đồng.

[9]. Việc bà H không giao đủ tiền cho ông Y là không thực hiện đúng điều kiện của hợp đồng, cho nên, ông Y có quyền yêu cầu hủy bỏ Hợp đồng theo quy định tại Điều 424 và đòi lại tài sản theo quy định tại khoản 3 Điều 462 của Bộ luật Dân sự.

[10]. Do đó, HĐXX chấp nhận yêu cầu phản tố và yêu cầu kháng cáo của ông Nguyễn Ngọc Y hủy bỏ: Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23/4/2018 vào sổ công chứng số 282, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD và Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất ngày 23/5/2018 giữa ông Nguyễn Ngọc Y và bà Lâm Thị H số vào sổ công chứng số 371, quyển số 01TP/CC-SCC/HĐGD của Văn phòng Công chứng Nguyễn Duy Sinh, số 16A, đường Lý Nhân Tông, ấp Vĩnh Tiến, thị trấn Cái Dầu, huyện Châu Phú, tỉnh An Giang.

[11]. Khi Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất bị hủy bỏ thì Hợp đồng không có hiệu lực từ thời điểm giao kết, các bên không phải thực hiện nghĩa vụ đã thỏa thuận, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận sau khi trừ chi phí cho việc thực hiện hợp đồng theo quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 427 của Bộ luật Dân sự.

[12]. Tại phiên tòa phúc thẩm, bà H trình bày việc sang tên cho bà chi phí không đáng kể, nên bà không yêu cầu. Do đó, HĐXX không xem xét về chi phí này.

[13]. Do Hợp đồng bị hủy bỏ, nên các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà H đứng tên từ việc thực hiện hợp đồng này phải bị thu hồi. Tuy nhiên, thực tế, các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã bị thu hồi khi bà H chuyển tên quyền sử dụng đất cho bà Tú E. Do đó, cần tuyên bố chấm dứt hiệu lực của các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà H đứng tên.

[14]. Bà H có trách nhiệm hoàn trả các quyền sử dụng đất cho ông Y để nhập vào tài sản chung của vợ chồng phân chia.

[15]. Xem xét việc chuyển nhượng quyền sử dụng dất giữa bà H và bà Tú E: bà H kh i kiện ly hôn ông Y được Tòa án nhân dân huyện C thụ lý vào ngày 27/6/2018; ngày 23/7/2018, ông Y có Đơn yêu cầu phản tố với các nội dung: yêu cầu vô hiệu Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất với bà H và yêu cầu được chia tài sản chung là các tài sản nêu trên được Tòa án nhân dân huyện C thụ lý yêu cầu phản tố ngày 07/8/2018.

[16]. Trong thời gian Tòa án nhân dân huyện C giải quyết vụ án, thì ngày 12 và 26/4/2019, bà Ý ký hai Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất với nội dung chuyển nhượng toàn bộ 06 quyền sử dụng đất do bà đứng tên nêu trên cho cháu ruột tên Hồ Thị Tú E cùng nhà với bà với giá 600.000.000 đồng.

[17]. Nhận thấy, trong Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất có sự cam đoan của bà H và bà Tú E là đất không có tranh chấp, nhưng thực tế đất đang bị tranh chấp từ tháng 08/2018, bà Tú E là cháu chung nhà với bà H biết rõ việc đất đang tranh chấp nhưng vẫn nhận chuyển nhượng là hành vi tẩu tán tài sản nhầm trốn tránh việc thực hiện chia tài sản chung với ông Y. Việc chuyển nhượng quyền sử dụng đất đang tranh chấp là vi phạm điểm b, khỏan 1, Điều 188 của Luật Đất đai, nên giao dịch giữa Hòa và bà Tú E bị vô hiệu theo quy định tại Điều 123 của Bộ luật Dân sự.

[18]. Khi giao dịch dân sự bị vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi quyền và nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm giao dịch được xác lập; các bên khôi phục lại tình trạng ban đầu, hoàn trả cho nhau những gì đã nhận theo quy định tại Điều 131 của Bộ luật Dân sự.

[19]. Trong vụ án này, bà T đã nhận đất từ bà H. Tuy bà H không có yêu cầu nhận lại đất, nhưng ông Y có yêu cầu nhận lại đất là tài sản chung để chia, nên cần buộc bà Tú E phải có trách nhiệm hoàn trả toàn bộ diện t ch đất do nhận chuyển nhượng của bà H, để chia tài sản chung cho bà H và ông Y.

[20]. Đối với các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do bà Tú E đứng tên từ việc nhận chuyển nhượng của bà H, do Hợp đồng bị vô hiệu, nên kiến nghị S Tài Nguyên và Môi trường là cơ quan cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thu hồi các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này theo quy định tại khoản 26 Điều 1 của Nghị định số:148/2020/NĐ-CP, ngày 18/12/2020 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số Nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai.

[21]. Đối với nhà và 16 phòng trọ là bất động sản việc tặng cho phải được lập thành văn bản có công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 1, Điều 459 của Bộ luật Dân sự. Xét thấy việc tặng cho giữa ông Y và bà H chưa làm thủ tục, nên vẫn còn là tài sản chung của vợ chồng, ông Y yêu cầu được chia các tài sản này là phù hợp, nên được chấp nhận.

[22]. Đối với Bản án sơ thẩm, không nhận định xem xét yêu cầu của ông Y về việc chia các tài sản này, nhưng lại quyết định bác toàn bộ yêu cầu phản tố của ông Y là thiếu sót nghiêm trọng cần phải rút kinh nghiệm.

[23]. Qua phân t ch trên, xác định tài sản chung của ông Y và bà H theo yêu cầu phản tố của ông Y và đã được Hội đồng định giá của Tòa án nhân dân huyện C định giá tại Biên bản định giá ngày 07/9/2020 (Bút lục 142D gồm:.

[23.1]. – Đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước (LUC diện t ch 16.704m2 , giá 75.000 đồng/m2 , thành tiền là 1.252.800.000 đồng.

[23.2]. – Đất nuôi trồng thuỷ sản, diện t ch 1.706,8m2 , giá 120.000đ đồng/m2 , thành tiền là 204.816.000 đồng.

[23.3]. – Đất nông thôn và đất trồng cây lâu năm, diện t ch 2.465,3m2 (thổ cư, 600m2 , đất trồng cây lâu năm là 1.865,3m2 , giá thổ cư là 1.200.000đ/m2 , giá đất trồng cây lâu năm là 150.000 đồng, thành tiền là 720.000.000 đồng + 279.795.000 đồng = 999.795.000 đồng; 16 căn phòng trọ trên đất giá định là 665.520.000 đồng. Tổng cộng nhà, đất là 1.665.315.000 đồng

[23.4]. – Đất nông thôn, diện t ch 131,7m2 , giá 7.000.000 đồng/m2 , thành tiền là 921.900.000 đồng. Trên đất có nhà số 358 do bà H và Tú E đã tháo dỡ giá định là 139.103.712 đồng. Lẻ ra, cần buộc bà H tự chịu trách nhiệm về việc tháo dỡ căn nhà này, nhưng tại phiên tòa phúc thẩm, ông Y không yêu cầu đưa giá trị căn nhà đã tháo dỡ vào tài sản chung để chia, được bà H đồng ý. Đây là quyền tự định đoạt của đương sự, có lợi cho bà H, nên được HĐXX chấp nhận đình chỉ yêu cầu phản tố của ông Y đối với căn nhà số 358, không đưa giá trị căn nhà vào tài sản chung.

[23.5]. – Đất nông thôn, diện t ch 116,6m2 , giá 7.000.000 đồng/m2 , thành tiền là 816.200.000 đồng. Trên đất có nhà số 360 giá định là 170.296.770 đồng. Tổng giá trị nhà, đất là 986.496.770 đồng. [24]. Tổng giá trị nhà, đất có tranh chấp là 5.031.327.000 đồng. Ông Y và bà H mỗi người được chia 50%, trị giá là 2.515.663.000 đồng.

[25]. Đối với ông Y có yêu cầu nhận hiện vật gồm: diện t ch đất nông thôn 131,7m2 và diện t ch 16.704m2 đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước (LUC), trị giá chung là 2.174.700.000 đồng và 250.000.000 đồng ông Y đã nhận của bà H thành tiền là 2.424.700.000 đồng, nên bà H phải có nghĩa vụ giao cho thêm cho ông Y 90.963.000 đồng.

[26]. Đối với bà H, được chia và giao cho bà H được s hữu căn nhà số 360 cùng với 16 phòng trọ và các quyền sử dụng đất:

[26.1]. – Đất nuôi trồng thuỷ sản, diện t ch 1.706,8m2 , trị giá 204.816.000 đồng.

[26.2]. – Đất nông thôn và đất trồng cây lâu năm, diện t ch 2.465,3m2 (thổ cư, 600m2 , đất trồng cây lâu năm là 1.865,3m2 ), trị giá 999.795.000 đồng. 16 căn phòng trọ trên đất trị giá định là 665.520.000 đồng. Đất và phòng trọ có giá trị chung là 1.665.315.000 đồng.

[26.3]. – Đất nông thôn, diện t ch 116,6m2 , trị giá 816.200.000 đồng. Trên đất có căn nhà số 360 giá định là 170.296.770 đồng. Đất và nhà có giá trị chung là 986.496.770 đồng.

[27]. Tài sản bà H được nhận trị giá 2.856.627.000 đồng, vượt cao hơn giá trị tài sản bà được chia 2.515.663.000 đồng, nên buộc bà H có trách nhiệm giao lại cho ông Y 304.964.000 đồng, được khấu trừ 250.000.000 đồng ông Y đã nhận của bà H. Sau khi khấu trừ, bà H còn phải tiếp tục giao cho ông Y 90.964.000 đồng.

[28]. Đối với đất nông nghiệp chuyên trồng lúa nước (LUC , diện t ch 16.704m2 , bà Tú E đang cho người khác thuê theo từng mùa vụ và việc cho thuê đất không làm hợp đồng bằng văn bản, nên không cần thiết phải đưa người thuê đất vào tham gia tố tụng. Bà Tú E là người cho thuê đất thì bà chịu trách nhiệm lấy đất lại trả cho ông Y.

[29]. Hiện tại, bà Tú E đang quản lý nhà, đất, phòng trọ nên cần buộc bà Tú E phải có trách nhiệm giao trả nhà, đất, phòng trọ cho ông Y, bà H theo quyết định của Tòa án.

[30]. Diện t ch đất thực tế, quá trình giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân huyện C đã ban hành Quyết định xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc đối với diện t ch đất tranh chấp, nhưng bà H, bà Tú E cản trở , không cho xem xét, thẩm định tại chỗ, đo đạc, nên không thực hiện việc xem xét thẩm định tại chỗ và đo đạc được diện t ch nhà, đất thực tế. Tòa án nhân dân huyện C đã yêu cầu Văn phòng Đăng ký Đất đai – Chi nhánh Châu Phú trích lục hồ sơ địa chỉ đối với các thửa đất đang tranh chấp, có thể hiện rõ số đo các cạnh, diện t ch, vị trí khu đất (Bút lục 159-164), nên Tòa án sử dụng các bản Trích lục hồ sơ địa chỉ này để buộc bà Tú E hoàn trả đất.

[31]. Ông Y đã rút lại yêu cầu khởi kiện đối với thửa đất số 237, tờ bản đồ số 03, diện t ch 113,0m2 ; bà H không có yêu cầu đòi bà Tú E trả lại diện t ch đất này, nên trong vụ án này Tòa án chưa buộc bà Tú E hoàn trả đất diện t ch 113,0m2 . Các đương sự có quyền kh i kiện thành một vụ án dân sự khác.

[32]. Đối với bà Tú E không có yêu cầu bà H trả 600.000.000 đồng tiền chuyển nhượng đất, nên không giải quyết. Bà T có quyền khởi kiện thành một vụ án dân sự khác.

[33]. Ông Y, bà H có trách nhiệm đăng ký lại quyền sử dụng đất đối với đất được chia theo quyết định của Tòa án.

[34]. Do bà T có trách nhiệm giao trả nhà, đất cho ông Y, bà H, nên cần tiếp tục duy trì Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời số: 08/2019/QĐ-BPKCTT, ngày 23/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện C để đảm bảo việc thi hành án.

[35]. Việc ông Y yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là đúng, nên huỷ bỏ Quyết định buộc thực hiện biện pháp bảo đảm số: 11/2019/QĐ[1]BPBĐ, ngày 23/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện C. Ông Nguyễn Ngọc Y được nhận lại số tiền 32.000.000 đồng (ba mươi hai triệu đồng theo Sổ tiết kiệm số AD00010277877 do ông Nguyễn Ngọc Y m ngày 23 tháng 8 năm 2019 tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam chi nhánh huyện Châu Phú.

[36]. Đố với đề nghị của Kiểm sát viên về việc tạm ngừng phiên tòa để thẩm định lại số của hai căn nhà đang tranh chấp và việc có nhà của bà Lâm Thị B trên diện t ch đất 1.706,8m2 . HĐXX xét thấy:

[36.1]. Quá trình Tòa án nhân dân huyện C giải quyết vụ án, đã 2 lần tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ đều bị bà H và bà Tú E cản tr , không cho xem xét thẩm định tại chỗ. Tại phiên tòa hôm nay, bà H xác nhận việc này. Do đó, không cần thiết phải tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ lại. Theo nhận định nêu trên thì diện t ch đất này giao cho bà H, nếu bà H có tranh chấp việc bà H cho bà Bình trên diện t ch đất 1.706,8m2 thì có quyền khởi kiện thành vụ án khác;

[36.2]. Đối với số của hai căn nhà, tại phiên tòa, các đương sự xác nhận chỉ có hai căn nhà đó là nhà số 358 đã bị tháo dỡ và nhà số 360 hiện tại do bà H và Tú E đang , nên không nhất thiết phải thẩm định lại. Do đó, không chấp nhận đề nghị của Kiểm sát viên về việc tạm ngừng phiên tòa.

[37]. Các đề nghị của Luật sư phù hợp với nhận định nêu trên, nên được HĐXX chấp nhận.

[38]. Từ nhận định nêu trên, chấp nhận toàn bộ yêu cầu kháng cáo của ông Y, sửa Bản án sơ thẩm. [39]. Về chi phí tố tụng: Ông Nguyễn Ngọc Y đã tạm ứng tổng cộng 6.292.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm, ông Y tự nguyện chịu toàn bộ chi phí này. Đây là quyền tự định đoạt của đương sự phù hợp với quy định của pháp luật, nên được HĐXX công nhận.

[40]. Về án phí:

[40.1]. – Án phí dân sự phúc thẩm: Do sửa án sơ thẩm, nên ông Y không phải chịu án phí dân sự phúc thẩm.

[40.2]. – Án phí hôn nhân và gia đình: bà H và ông Y thuận tình ly hôn, nên mỗi người phải chịu 150.000 đồng án phí thuận tình ly hôn

[40.3]. – Án phí chia tài sản chung: ông Y, bà H mỗi người phải chịu án phí trên giá trị tài sản được chia thành tiền là 82.313.000 đồng.

[40.4]. – Án phí tuyên bố hợp đồng vô hiệu: bà H và bà Tú E mỗi người phải chịu 300.000 đồng.

[40.5]. Riêng ông Y là người cao tuổi có đơn xin miễn án phí , nên được miễn toàn bộ án phí . Ông Y được nhận lại tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp.

[Nguồn: Bản án số: 04/2021/HNGĐ-PT ngày 02/3/2021 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH AN GIANG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 04/2021/HNGĐ-PT

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan