Feel free to go with the truth

Trang chủ / BIỂU MẪU VÀ VĂN BẢN PHÁP LUẬT / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY]  Bản án bị sửa vì tuyên án không đúng và tuyên chịu án phí ha lần không đúng

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY]  Bản án bị sửa vì tuyên án không đúng và tuyên chịu án phí ha lần không đúng

08. Bản án về tranh chấp Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất bị sửa vì tuyên án không đúng và tuyên chịu án phí ha lần không đúng

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1]Về thủ tục tố tụng:

[1.1]Về việc mở phiên tòa phúc thẩm:

Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa lần thứ nhất vào ngày 25/04/2022 nhưng phải hoãn bởi vì có đương sự vắng mặt.

Tòa án cấp phúc thẩm mở phiên tòa lần thứ hai vào ngày hôm nay (10/05/2022). Tại phiên tòa, người kháng cáo (là ông Giang M cùng với người đại diện của ông Giang M) có mặt; bị đơn là ông Nguyễn Văn Đ và bà G H có mặt; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là bà Trần Mỹ K có mặt; các đương sự khác vắng mặt, mặc dù Tòa án đã triệu tập họ hợp lệ.

Vì vậy, việc xét xử phúc thẩm vẫn tiến hành theo luật định. [1.2]Về việc xác định tư cách tham gia tố tụng của đương sự:

-Tòa án cấp sơ thẩm thụ lý vụ án vào ngày 05/04/2018, xác định tư cách tham gia tố tụng của các đương sự như sau: nguyên đơn là bà Ngô Thị B; bị đơn là ông Nguyễn Văn Đ, bà G N và bà G H.

Trong quá trình giải quyết vụ án, vào ngày 23/03/2020, bà Ngô Thị B chết, không có di chúc.

Hàng thừa kế thứ nhất của bà Ngô Thị B gồm có 05 người con, là ông Nguyễn Văn Đ, bà G N, bà G M, bà G H và ông Giang M.

Về nguyên tắc, theo Điều 74 của Bộ luật Dân sự năm 2015, khi người tham gia tố tụng chết mà vụ án chưa giải quyết xong thì Tòa án phải đưa người thừa kế hợp pháp của họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự.

Việc xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của đương sự phải dựa trên nguyên tắc tố tụng như sau:

-Sự kế thừa (quyền và nghĩa vụ tố tụng) chỉ phát sinh khi có người đang tham gia tố tụng trong vụ án, chết;

-Một đương sự chỉ được tham gia tố tụng với một tư cách mà thôi (hoặc là nguyên đơn/bị đơn, hoặc là người liên quan);

-Việc kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của một ai đó phải được sự đồng ý của người nhận kế thừa;

-Quyền và nghĩa vụ tố tụng của người nhận sự kế thừa không được mâu thuẫn hoặc khác với quyền và nghĩa vụ của người đã chết.

Như vậy, trong vụ án này, khi bà Ngô Thị B chết, thì những người con là ông Nguyễn Văn Đ, bà G N, bà G H, bà G M và ông Giang M đều có thể trở thành người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B. Tuy nhiên, vốn dĩ ông Nguyễn Văn Đ, bà G N, bà G H đã là bị đơn trong vụ án (do sự khởi kiện của bà Ngô Thị B và có yêu cầu đối địch với bà Ngô Thị B) nên họ không thể là người kế thừa quyền và nghĩa vụ của bà Ngô Thị B. Đối với bà G M, đương sự có ý kiến trái ngược với yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B nên cũng không thể kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B, mặc dù đương sự đồng ý kế thừa. Như vậy, chỉ có ông Giang M là người có đủ điều kiện luật định để kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B (đương sự với yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị B và đồng ý kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B). Trong trường hợp này, ông Giang M chỉ được tham gia tố tụng với tư cách là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn bà Ngô Thị B và dĩ nhiên, không còn tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan nữa.

Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xác định bà G M và ông Giang M cùng là nguyên đơn (kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B), là chưa đúng; Tòa án cấp phúc thẩm sửa lại như sau:

-Xác định người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B là ông Giang M, là nguyên đơn;

-Bị đơn là ông Nguyễn Văn Đ, bà G N và bà G H;

-Những đương sự còn lại là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. [2]Về nội dung giải quyết vụ án:

[2.1]Vào năm 1962, bà Ngô Thị B chung sống với ông Nguyễn Văn Chưa và có một người con chung là ông Nguyễn Văn Đ. Đến năm 1963 do hai bên phát sinh mâu thuẫn, bà Bé bỏ về nhà mẹ đẻ tại ấp An Hòa, xã Tr A, huyện C Ch để sinh sống và giữ sự liên lạc với ông Nguyễn Văn Chưa; hiện nay ông Nguyễn Văn Chưa đã chết.

[2.2]Đến năm 1965, trong thời gian đi làm thuê tại phường Phú Cường, tỉnh Bình Dương, bà Ngô Thị B làm quen ông Giang Viên (vào lúc đó, ông Giang Viên đã có vợ) và có với ông Giang Viên 04 người con chung là G N, G M, G H và Giang M.

Sau đó, do người vợ của ông Giang Viên phát hiện sự việc, nên bà Ngô Thị B và những người con trở về sinh sống tại C Ch.

[2.3]Về nguồn gốc của những phần đất tranh chấp trong vụ án này:

Tài liệu, chứng cứ của vụ án thể hiện rằng từ năm 1975 (khi trở về C Ch sinh sống), bà Ngô Thị B bắt đầu khai khẩn đất hoang để trồng hoa màu, diện tích đất khai hoang là 1.497 m2 tại ấp An Hòa, xã Tr A, huyện C Ch. Sau đó, vào năm 1992 bà Ngô Thị B nhận chuyển nhượng thửa đất số 384, diện tích 53,6 m2 tọa lạc tại ấp 2, xã B M, huyện C Ch, trên đất có xây dựng một căn nhà cấp bốn để ở và bán nông sản.

Đến năm 1999, bà Ngô Thị B làm thủ tục kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất; UBND huyện C Ch đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số P138175 ngày 22/12/1999 cho bà Bé, diện tích đất là 1.497 m2 gồm 02 thửa đất: thửa đất số 1503 là đất thổ cư = 64 m2 và thửa đất số 1504 là đất vườn = 1.433 m2.

Như vậy, căn cứ các tài liệu, chứng cứ của vụ án, thì có căn cứ xác định rằng toàn bộ các thửa đất nói trên, là tài sản riêng do bà Ngô Thị B tạo lập mà có.

[2.4]Về sự tặng cho-đất của bà Ngô Thị B: Vào năm 2005 bà Ngô Thị B làm thủ tục tặng cho 1/2 diện tích đất của mình cho những người con, là ông Nguyễn Văn Đ, bà G H và bà G N, cụ thể như sau:

-Vào ngày 26/09/2005, bà Ngô Thị B lập “Tờ tương phân đất”, tặng-cho ông Nguyễn Văn Đ thửa đất số 91, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại xã B M, huyện C Ch, diện tích 53,6 m2 (UBND xã B M, huyện C Ch chứng thực vào ngày 10/10/2005);

-Vào ngày 28/12/2005, bà Ngô Thị B lập 03 văn bản dưới hình thức là “Giấy thuận cho” để tặng-cho ông Nguyễn Văn Đ thửa đất số 525 (diện tích 149,8 m2), tặng-cho bà G N thửa đất số 526 (diện tích 130,9 m2) và tặng-cho bà G H thửa đất số 524 (diện tích 378,8 m2); 03 văn bản tặng-cho đất này đều được UBND xã B M, huyện C Ch chứng nhận vào ngày 29/12/2005.

Về mặt thực tế chiếm hữu đất, thì sau khi được bà Ngô Thị B tặng-cho đất, các đương sự là ông Nguyễn Văn Đ, bà G H và bà G N đã nhận đất để sử dụng đến nay và họ đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ khi bà Ngô Thị B vẫn còn sống (giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AD 936753 ngày 28/11/2015, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H01422/03 do Ủy ban nhân dân huyện C Ch cấp cho ông Nguyễn Văn Đ; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 713024 ngày 17/01/2006, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00013/19 do Ủy ban nhân dân huyện C Ch cấp cho ông Nguyễn Văn Đ; giấy chứng quyền sử dụng đất số AĐ 713177 ngày 17/01/2006, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00014/19 do Ủy ban nhân dân huyện C Ch cấp cho bà G N; giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AĐ 713186 ngày 17/01/2006, số vào sổ cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất H00012/19 do Ủy ban nhân dân huyện C Ch cấp cho bà G H).

[2.5]Xét thấy, việc lập giấy tặng-cho đất mà bà Ngô Thị B đã thực hiện và thủ tục xác lập quyền sử dụng đất của ông Nguyễn Văn Đ, bà G H và bà G N, trong những trường hợp vừa nêu ra, là hợp pháp; không có bằng chứng cho thấy rằng việc bà Ngô Thị B tặng-cho đất là sự tặng-cho có điều kiện ràng buộc ông Nguyễn Văn Đ, bà G H và bà G N phải chăm sóc, nuôi dưỡng bà Ngô Thị B.

Vì vậy, yêu cầu của bà Ngô Thị B (và hiện nay, ông Giang M là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B) đòi Tòa án tuyên bố vô hiệu đối với 03 giấy thuận cho đất lập ngày 28/12/2005 tại Ủy ban nhân dân xã Tr A, huyện C Ch đối với các thửa đất số 524, 525, 526, tờ bản đồ số 22, tọa lạc tại xã Tr A, huyện C Ch, Thành phố Hồ Chí Minh và tuyên bố vô hiệu đối với “Tờ tương phân đất” lập ngày 26/09/2005 tại Ủy ban nhân dân xã B M, huyện C Ch đối với thửa đất số 91, tờ bản đồ số 6, tọa lạc tại xã B M, huyện C Ch, Thành phố Hồ Chí Minh, là không có căn cứ pháp luật. Do đó, Tòa án cũng không chấp nhận yêu cầu của bà Ngô Thị B đòi hủy bỏ các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà Ủy ban nhân dân huyện C Ch đã cấp cho ông Nguyễn Văn Đ, bà G N và bà G H.

[3]Như vậy, việc Tòa án cấp sơ thẩm xét xử không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Giang M (là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B), là có căn cứ pháp luật. Ông Giang M kháng cáo bản án sơ thẩm nhưng không có chứng cứ gì mới, Tòa án cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của đương sự.

[4]Về cách tuyên án:

Về thủ tục tố tụng, chỉ có ông Giang M là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của bà Ngô Thị B và đương sự cũng chỉ được tham gia tố tụng với một tư cách pháp lý này (là nguyên đơn kế thừa). Do đó, Tòa án chỉ có quyền tuyên án đối với bà Ngô Thị B (mà ông Giang M là người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng), chứ không thể tuyên án đối với bà Ngô Thị B và đối với ông Giang M như là hai cá nhân khác nhau.

[5]Về án phí sơ thẩm:

Các đương sự trong vụ án này chỉ yêu cầu Tòa án công nhận hoặc không công nhận tính hợp pháp của hợp đồng tặng-cho quyền sử dụng đất, nên chỉ chịu án phí không giá ngạch và chỉ có một mình ông Giang M phải chịu. Do đó, việc Tòa án cấp sơ thẩm tính án phí hai lần đối với ông Giang M (gồm cả phần yêu cầu của bà Ngô Thị B và cả phần yêu cầu của ông Giang M) là không đúng; Tòa án cấp phúc thẩm sẽ sửa lại như sau:

-Ông Giang M phải chịu án phí không giá ngạch đối với 04 yêu cầu hủy 04 hợp đồng tặng-cho đất, là 1.200.000 đồng.

 

 [Nguồn: Bản án phúc thẩm số 297/2022/DS-PT Ngày 10/5/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH]

Xem thêm các chia sẻ tài liệu pháp luật của chúng tôi tại các địa chỉ:

📣 Website: www.fdvn.vn hoặc www.fdvnlawfirm.vn

♥️ Fanpage and Group:

https://www.facebook.com/fdvnlawfirm

https://www.facebook.com/lawyersindanang

https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat

https://www.facebook.com/groups/saymengheluat

https://www.facebook.com/groups/legalforeignersinvietnam

🎵 Kênh Youtube: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

🎵 FDVN trên Tik Tok: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

☎️ Kênh Telegram FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Xem file đính kèm toàn văn Bản án: Bản án phúc thẩm số 397/2022/DS-PT

 

Bài viết liên quan