FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 30 bản án tuyên phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do cung cấp thông tin gian dối đáo hạn ngân hàng” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 30 bản án tuyên phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do cung cấp thông tin gian dối đáo hạn ngân hàng
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số 20/2023/HSST ngày 08 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Gia Lai về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Đặng Văn Q là nhân viên Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu, chi nhánh Gia Lai – phòng giao dịch An Khê. Thời gian làm việc tại Ngân hàng,Q quen biết chị Văn Thị Hồng P, anh Thái Xuân B và Nguyễn Thị Cẩm D, là các khách hàng có phát sinh giao dịch với ngân hàng và chị Trương Thị Cẩm H. Khoảng thời gian từ đầu năm 2020 đến cuối tháng 10/2020Q nhiều lần vay tiền của chị P, chị D, anh B để đáo hạn Ngân hàng cho khách hàng. Các lần vay tiền này,Q đều trả gốc và lãi đầy đủ. Tuy nhiên, đến ngày 6/11/2020, mặc dù không có khách hàng liên hệ vay tiền để đáo hạn ngân hàng, nhưng Q nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của các bị hại bằng cách đưa ra thông tin gian dối cần tiền để làm dịch vụ đáo hạn ngân hàng, hứa hẹn trả lãi suất cao, làm cho các bị hại tin tưởng, đưa tiền và sau đó bịQ chiếm đoạt, cắt đứt liên lạc rồi bỏ trốn. Chỉ trong thời gian từ ngày 6/11/2020 đến ngày 25/11/2020,Q đã chiếm đoạt của chị P số tiền 700.000.000 đồng, anh B số tiền 900.000.000 đồng, chị D số tiền 2.050.000.000 đồng, chị H 600.000.000 đồng. Tổng cộng 4.250.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm quyền sở hữu tài sản của công dân được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu trong dư luận nên phải chịu mức án trong khung hình phạt tương xứng hành vi phạm tội. Tại phiên toà, bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội; tác động gia đình nộp 30.000.000 đồng để khắc phục hậu quả; cha bị cáo là người có thành tích xuất sắc trong công tác nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, bị cáo nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Đặng Văn Q phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Đặng Văn Q 15 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2022. |
1 |
|
Bản án số 716/2020/HS-PT ngày 23 tháng 11 năm 2020 của Toà án nhân dan cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Năm 2012, Nguyễn Thị Kim L được tuyển dụng làm nhân viên Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chi nhánh tỉnh Đắk Nông. Năm 2014, L thuê phòng ở tại khách sạn do bà Đỗ Thị T làm chủ, trong thời gian ở đây, L thường đưa người đến vay tiền của bà T để đáo hạn ngân hàng, trong đó có Võ Thị Bích H vay và trả nợ đầy đủ. L và H biết rõ bà T chỉ cho vay đáo hạn ngân hàng (không cho vay thông thường) và hồ sơ phải do L đang giải quyết nên L và H nhờ người thân đóng giả khách hàng cần vay tiền đáo hạn ngân hàng để vay của bà T rồi đưa tiền lại cho L và H tiêu xài. Tổng số tiền L và H chiếm đoạt của T là 2.700.000.000 đồng; Trong đó L 1.000.000.000 đồng, đã trả 380.000.000 đồng; Hạnh 1.700.000.000 đồng, đã trả 700.000.000 đồng. Ngày 08/3/2017, L nhờ chị ruột là Nguyễn Thị Kim T1 đóng giả khách hàng của L. L điện thoại cho chị Nguyễn Thị H1 nói có khách hàng cần vay 1.400.000.000 đồng đáo hạn ngân hàng xong trả lại thì H1 đồng ý. Khoảng 14 giờ ngày 10/3/2017, L và T1 gặp H1 ở quán cà phê Lệ Đá thì T1 viết giấy vay tiền, H1 yêu cầu phải có chồng của T1 thì T1 gọi điện thoại cho chồng là Nguyễn Ngọc C nói chuyện với H1. Do đã nghe T1 nói trước về việc vay tiền dùm cho L nên sau khi nghe điện thoại xong thì C nhắn tin cho H1 để xác nhận nội dung vay tiền. Sau đó H1 chuyển vào tài khoản của C 2 lần bằng 1.400.000.000 đồng. C rút hết tiền giao cho L tiêu xài cá nhân không còn khả năng trả lại. L chiếm đoạt của H1 1.400.000.000 đồng, đã trả 60.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Kim L, bị cáo Võ Thị Bích H phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Kim L 13 năm tù tính từ ngày bị bắt tạm giam từ ngày 13/7/2017, bị cáo Võ Thị Bích H 08 năm tù tính từ ngày bị bắt tạm giam từ ngày 13/7/2017. Ngày 11/6/2020, người bị hại Đỗ Thị T có đơn kháng cáo yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm vì đã không xử lý hình sự đối với Thân Thị D và Nguyễn Thị Lệ H2; đồng thời bị cáo L chưa trả tiền cho bà, số tiền 380.000.000 đồng L trả là tiền vay riêng, không liên quan trong vụ án này. Ngày 11/6/2020, người bị hại Nguyễn Thị H1 có đơn kháng cáo yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm vì đã không xử lý hình sự đối với Nguyễn Ngọc C và Nguyễn Thị Kim T1; đồng thời bị cáo L chưa trả tiền cho bà, số tiền 60.000.000 đồng L trả là tiền vay riêng, không liên quan trong vụ án này. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Các ông bà Thân Thị D, Nguyễn Thị Lệ H2, Nguyễn Ngọc C và Nguyễn Thị Kim T1 có hành vi gian dối, giúp sức cho Nguyễn Thị Kim L, Võ Thị Bích H vay tiền của bà Đỗ Thị T, Nguyễn Thị H1 nhưng là giúp trên cơ sở khách hàng của L có nhu cầu vay đáo hạn Ngân hàng. Sự giúp đỡ của D, H2, C, T1 chỉ là giúp trên phương diện tình cảm, họ đều tin tưởng L, H thật sự đáo hạn Ngân hàng và có khả năng trả tiền lại cho bà T, bà H1. Sự gian dối của D, H2, C, T1 chưa đủ để bà T, bà H1 tin tưởng cho vay tiền mà phải có L đứng ra bảo lãnh, những người này không biết được mục đích chiếm đoạt của L, H nên không đồng phạm với L, H về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Do vậy, không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị T và bà Nguyễn Thị H1 yêu cầu xác định D, H2, C, T1 đồng phạm với L, H. Bà Đỗ Thị T xuất trình bản photocopy “Giấy vay tiền” ngày 20/01/2017 để cho rằng bị cáo Nguyễn Thị Kim L trả cho bà 380.000.000 đồng là trả cho khoản nợ 500.000.000 đồng theo biên nhận trên, không phải là trả cho khoản tiền đã lừa đảo; Tương tự, bà Nguyễn Thị H1 cũng xuất trình bản photocopy “Giấy vay tiền” ngày 21/02/2017 để cho rằng bị cáo Nguyễn Thị Kim L trả cho bà 60.000.000 đồng là trả cho khoản nợ 700.000.000 đồng theo biên nhận trên, không phải là trả cho khoản tiền đã lừa đảo, nhưng bị cáo L không thừa nhận, cả bà Đỗ Thị T và bà Nguyễn Thị H1 đều không xuất trình được chứng cứ chứng minh khi nhận số tiền do bị cáo Nguyễn Thị Kim L trả thì các bên có thỏa thuận rõ là trả cho các khoản nợ theo các biên nhận, nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị T và kháng cáo của bà Nguyễn Thị H1 về phần này. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bà Đỗ Thị T và bà Nguyễn Thị H1. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2020/HS-ST ngày 03/6/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông. |
11 |
|
Bản án số 191/2023/HS-PT ngày 11 tháng 4 năm 2023 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Võ Kim A đã có hành vi gian dối chiếm đoạt của người bị hại bà Trần Thị D số tiền 5.045.000.000 đồng. Số tiền này do chính bị cáo thực hiện hành vi lừa đảo để chiếm đoạt của người bị hại (số tiền này sau đó đã nộp cho Ngân hàng SHB CM để tất toán cho khoản vay của chính bị cáo). Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Võ Kim A phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo A 14 (mười bốn) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 02/3/2021. Buộc bị cáo A phải có nghĩa vụ hoàn trả cho bà Trần Thị D 5.045.000.000 (năm tỷ không trăm bốn mươi lăm triệu) đồng. Ngày 27/7/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh CM kháng nghị đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng: Tuyên buộc Ngân hàng SHB CM phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho bị hại Trần Thị D số tiền 5.045.000.000 đồng. Ngày 25/7/2022, bị hại Trần Thị D kháng cáo đề nghị sửa án sơ thẩm theo hướng: Tuyên buộc Ngân hàng SHB CM phải có trách nhiệm hoàn trả lại cho bị hại Trần Thị D số tiền 5.045.000.000 đồng. Ngày 26/7/2022, bị cáo Võ Kim A kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Khi xác định Ngân hàng SHB phải hoàn trả lại số tiền 5.045.000.000 đồng cho bà D, thì phía Ngân hàng SHB được xác định là người bị thiệt hại. Thiệt hại này đối với Ngân hàng SHB được xảy ra từ hành vi gian dối trước đó của bị cáo A, khi bị cáo này đã lén lút đối với Ngân hàng SHB tới Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố CM để nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, sau đó đã dùng giấy chứng nhận này để thế chấp vay vốn tại Ngân hàng Agribank Chi nhánh CM (giấy chứng nhận này lẽ ra phải nộp lại cho Ngân hàng SHB). Và như vậy, thì cần phải điều tra làm rõ các vấn đề sau: Làm rõ ý thức của bị cáo Võ Kim A trong việc gian dối đối với Ngân hàng SHB trong quá trình thực hiện thỏa thuận? Làm rõ trách nhiệm của cá nhân, tổ chức tại Văn phòng đăng ký đất đai Thành phố CM trong việc giao giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bị cáo A, trong khi bị cáo không có phiếu hẹn trả (phiếu hẹn này đang do Ngân hàng SHB giữ). Đồng thời, đối với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã chỉnh lý sang tên bị cáo A cần được xem là vật chứng và phải giải quyết trong cùng vụ án này. Tờ cam kết 9/11/2020 được cho là cam kết giữa bị cáo A và người bị hại Trần Thị D, có nội dung: ‘tôi xin cam kết trong vòng đến ngày 30/11/2020 sẽ trả cho Danh số tiền đã mượn và số lãi theo thỏa thuận đã phát sinh. Nếu không trả dứt điểm cũng phải trả trước một phần”. Chứng cứ này chưa được thu thập trong quá trình điều tra. Tại phiên tòa phúc thẩm, phía đại diện Ngân hàng cho rằng, trong quá trình điều tra, phía Ngân hàng đã thông báo cho Cơ quan điều tra biết về chứng cứ này, tuy nhiên Cơ quan điều tra đã không tiến hành thu thập và làm rõ. Như vậy, đây là chứng cứ cần phải được thu thập một cách hợp pháp và đánh giá toàn diện mới có đủ cơ sở giải quyết vụ án. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Hủy toàn bộ bản án sơ thẩm số 40/2022/HS-ST ngày 14/7/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh CM. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát cấp sơ thẩm để điều tra và giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật. |
17 |
|
Bản án số 343/2022/HS-PT ngày 19 tháng 5 năm 2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Do cần tiền để trả nợ nên các bị cáo Nguyễn Văn N, Huỳnh Thị Nh đã gặp bà Quàng Thị L đưa ra thông tin gian dối là cần vay 1.000.000.000 đồng của bà L để đáo hạn ngân hàng, sau đó làm hồ sơ vay lại số tiền lớn hơn. Do tin tưởng những thông tin mà N, Nh đưa ra là thật nên ngày 05/02/2018 bà L đã nộp 1.000.000.000 đồng vào tài khoản của N tại Ngân hàng Đ chi nhánh huyện Đ. Ngay trong chiều ngày 05/02/2018 các bị cáo N, Nh từ huyện Đ lên Ngân hàng Đ chi nhánh thành phố Đ2 rút toàn bộ số tiền này mang về trả cho bà Th chứ không thực hiện việc trả nợ ngân hàng để vay lại như thông tin ban đầu đã đưa ra. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị có Huỳnh Thị Nh, bị cáo Nguyễn Văn N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Xử phạt bị cáo Huỳnh Thị Nh 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt giam để thi hành án; bị cáo Nguyễn Văn N 09 (chín) năm tù. Ngày 07/10/2021, bị cáo Huỳnh Thị Nh có đơn kháng cáo với nội dung: Bị cáo thừa nhận vợ chồng bị cáo có vay của bà L 01 tỷ đồng để đáo hạn Ngân hàng nhưng bị bà Phan Thị Kim C lừa lấy hết số tiền này. Bị cáo không có ý chiếm đoạt tiền của bà L, Toà án tỉnh Lâm Đồng kết án bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là oan cho bị cáo. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Xét kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Nh thấy rằng; Khi quyết định hình phạt, Toà án cấp sơ thẩm đã xem xét về nhân thân của bị cáo, đánh giá tính chất hành vi, hậu quả của tội phạm, áp dụng đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự và xử phạt bị cáo 07 năm tù là dưới mức thấp nhất của khung hình phạt. Tại phiên toà hôm nay, bị cáo không xuất trình được tình tiết gì mới nên không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo. Hội đồng xét xử phúc thẩm giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Thị Nh. Giữ nguyên quyết định về hình phạt của Bản án hình sự sơ thẩm số 32/2021/HS-ST ngày 22/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng đối với bị cáo Huỳnh Thị Nh. |
25 |
|
Bản án số 527/2022/HS-PT ngày 26 tháng 7 năm 2022 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Từ năm 2016 đến năm 2019, bị cáo Nông Trung N là nhân viên của Ngân hàng BIDV và Ngân hàng Vietinbank L đã đưa ra thông tin gian dối về việc cần tiền làm đáo hạn ngân hàng cho khách hàng để vay tiền của nhiều người, sau khi vay được tiền Nông Trung N không làm đáo hạn ngân hàng mà chiếm đoạt để trả nợ cho người khác. Tổng số tiền Nông Trung N đã chiếm đoạt của 06 bị hại là 15.420.000.000 đồng gồm: 3.500.000.000 đồng của Lê Thị L2; 1.350.000.000 đồng của Lê Minh T; 2.400.000.000 đồng của Trần Quang L3; 3.500.000.000 đồng của Đào Thị H3; 1.500.000.000 đồng của Đinh Thị Cúc H1 và 3.170.000.000 đồng của Nông Thị S. Bị cáo đã trả lại cho Lê Minh T tổng cộng là 751.525.000 đồng; trả cho Trần Quang L3 tổng cộng là 1.450.000.000 đồng; trả cho Đinh Thị Cúc H1 tổng cộng là 248.500.000 đồng; trả cho Nông Thị S tổng cộng là 39.100.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Nông Trung N phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nông Trung N 20 (hai mươi) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt để tạm giam là ngày 05/8/2020. Ngày 10/9/2021, bị cáo Nông Trung N kháng cáo với nội dung xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 08/9/2021, bị hại chị Đinh Thị Cúc H1 kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 31/8/2021, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm Vi Thanh H4 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm chiếm đoạt số tiền 1.251.500.000 đồng, trách nhiệm bồi thường của bà Vi Thanh H4, tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nông Trung N. Ngày 10/9/2021, bị hại Lê Minh T kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 31/8/2021, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm của Nông Minh N1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm chiếm đoạt số tiền 1.350.000.000 đồng, trách nhiệm bồi thường của bà Nông Minh N1, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo Nông Trung N. Ngày 10/9/2021, bị hại Đào Thị H3 kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 31/8/2021, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm của Nông Minh N1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm chiếm đoạt số tiền 3.500.000.000 đồng, trách nhiệm bồi thường của bà Nông Minh N1, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo Nông Trung N. Ngày 10/9/2021, bị hại Nông Thị S kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 31/8/2021, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm của Nông Minh N1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm chiếm đoạt số tiền 3.170.000.000 đồng, trách nhiệm bồi thường của bà Nông Minh N1, tăng nặng trách nhiệm hình sự của bị cáo Nông Trung N. Ngày 14/9/2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lâm Thu T1 kháng cáo: Buộc bị cáo Nông Trung N, bà Nông Minh N1 phải có trách nhiệm thanh toán số tiền đã chiếm đoạt của chị Lâm Thu T1 là 2.115.500.000 đồng. Ngày 14/9/2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị H5 kháng cáo: Buộc bị cáo Nông Trung N phải có trách nhiệm thanh toán số tiền đã chiếm đoạt của chị Nguyễn Thị H5 là 3.500.000.000 đồng. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Xét kháng cáo của các bị hại Đinh Thị Cúc H1, Lê Minh T, Đào Thị H3, Nông Thị S: Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 08/9/2021 và 10/9/2021, các bị hại Đinh Thị Cúc H1, Lê Minh T, Đào Thị H3, Nông Thị S kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy toàn bộ Bản án sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 31/8/2021, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm của Vi Thanh H4 và Nông Minh N1 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” với vai trò đồng phạm; trách nhiệm bồi thường của bà Vi Thanh H4, Nông Minh N1 và tăng nặng trách nhiệm hình sự đối với bị cáo Nông Trung N thấy việc giao dịch vay mượn tiền diễn ra giữa bà với Vi Thanh H4 là đồng nghiệp của Nông Trung N, mặc dù sau này bị cáo đứng ra trả lại một 1 phần tiền cho bị hại nhưng ai là người đứng ra vay tiền thì người đó phải trả tiền. Tuy nhiên, theo lời khai của Nam và Hằng thì Hằng là người giới thiệu Nam vay tiền bà Đinh Thị Cúc H1, bản thân Hằng không được tham gia bàn bạc, không biết bị cáo Nam đưa ra thông tin gian dối khi vay tiền. Toàn bộ số tiền của bà H1 được chuyển vào tài khoản do Nam chỉ định và Nam là người trực tiếp sử dụng số tiền này, Hằng không được hưởng lợi. Bị cáo Nam là người trực tiếp chuyển trả số tiền 248.500.000 đồng vào tài khoản của gia đình bà H1 nên không có căn cứ, cơ sở để xử lý hình sự dối với Vi Thanh H4. Bà H1 xuất trình giấy vay tiền của Nông Trung N và Nông Minh N1, tin nhắn qua zalo của Hằng với bà (nhưng không có nội dung Hằng vay tiền bà), giấy nộp vào tiền vào tài khoản Lý Minh H5, ngoài ra không có tài liệu nào khác thể hiện việc Vi Thanh H4 vay tiền và chiếm đoạt tiền của bà. Xét kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lâm Thu T1 và Nguyễn Thị H5: Ngày 14/9/2021, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Lâm Thu T1 và Nguyễn Thị H5 kháng cáo: Buộc bị cáo Nông Trung N, bà Nông Minh N1 phải có trách nhiệm thanh toán số tiền đã chiếm đoạt. Xét thấy: Đây là các giao dịch dân sự giữa các bên nên không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Nếu các bên xét thấy quyền và lợi ích bị xâm phạm, có việc tranh chấp thì có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết theo trình tự thủ tục tố tụng dân sự. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nông Trung N. Không chấp nhận nội dung đơn kháng cáo của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Giữ nguyên giữ nguyên quyết định của Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2021/HS-ST ngày 21 tháng 7 năm 2021 của Tòa án nhân dân tỉnh L. |
30 |
|
Bản án số 185/2020/HS-PT ngày 08 tháng 5 năm 2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Để có tiền trả cho bà Trương T.D, ngày 25/9/2017, Hoàng N.Đ đặt vấn đề vay của ông Nguyễn X.H số tiền 1.000.000.000 đồng để làm thủ tục đáo hạn cho khoản vay 2.000.000.000 đồng tại Ngân hàng BIDV. Khi vay, Đ nói đã có l.000.000.000 đồng và mặc dù chưa có nguồn tiền hay phương án trả nợ nhưng Đ vẫn hẹn 03 ngày sau sẽ trả lại cho ông H. Tin lời, ông H đã giao 1.000.000.000 đồng cho Đ. Đ viết giấy nhận nợ với nội dung “mượn chú Hạnh số tiền 1.000.000.000 đồng để đáo hạn”. Hẹn ngày 28/9/2017 trả lại đủ số tiền 1.000.000.000 đồng + lãi”. Nhận được tiền của ông H, Đ đem trả cho bà D. Đến hạn trả nợ cho ông H nhưng Đ không có tiền để trả. Ông H đến nhà và gọi điện thoại nhiều lần yêu cầu trả nợ thì bị cáo Đ nói dối với ông H là đang chờ Ngân hàng giải ngân cho vay tiền. Ngoài ra, vào ngày 03/10/2017, Đ nhận được số tiền 5.900.000.000 đồng từ bà Dương Thị Th.L (thông qua việc bán đất cho bà L) nhưng cũng không trả cho ông H mà đem trả cho những người khác. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Hoàng N.Đ phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Hoàng N.Đ 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 11/5/2018. Ngày 12/12/2018, bị cáo Hoàng N.Đ nộp đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Ngày 07/12/2018, ông Nguyễn X.H nộp đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo Đ. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, khai báo thành khẩn, ăn năn, hối cải, đã bồi thường toàn bộ số tiền chiếm đoạt cho người bị hại và người bị hại cũng có đơn bãi nại, đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Như vậy, bị cáo có 02 tình tiết giảm nhẹ được quy định tại khoản 1 Điều 51 và các tình tiết giảm nhẹ khác được quy định tại khoản 2 Điều 51, không có tình tiết tăng nặng được quy định tại Điều 52. Hành vi phạm tội của bị cáo có đủ các điều kiện để Hội đồng xét xử quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng, theo quy định tại khoản 1 Điều 54 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Mức án 12 năm tù mà bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là có phần nghiêm khắc. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Hoàng N.Đ và ông Nguyễn X.H. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 56/2018/HS-ST ngày 28 tháng 11 năm 2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng. |
47 |
|
Bản án số 210/2021/HS-PT ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Do nợ nần nhiều nhưng không có khả năng trả nợ và những người cho vay liên tục thúc ép việc trả nợ, nhằm mục đích lấy tiền để thanh toán những khoản nợ đã vay, Nguyễn Thị C đã bằng nhiều thủ đoạn gian dối, đưa ra các thông tin không đúng sự thật, như: Vay tạm tiền để đảo khế ngân hàng, trả tiền ngân hàng để lấy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vay tiền để giải quyết công việc, vay tiền trong một thời gian ngắn sẽ trả lại, vay tiền lần này nữa rồi sẽ thanh toán hết các khoản nợ trước đó… làm cho những bị hại tin tưởng đưa tiền cho Nguyễn Thị C, nhưng Nguyễn Thị C không sử dụng số tiền đã vay đúng mục đích như đã cam kết đối với các bị hại mà chiếm đoạt để sử dụng. Với thủ đoạn trên, trong khoảng thời gian từ tháng 02/2018 đến tháng 8/2019, Nguyễn Thị C đã thực hiện hành vi lừa đảo, chiếm đoạt của 15 người bị hại với tổng số tiền 3.313.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị C phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị C 13 năm tù; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam bị cáo. Sau khi xét xử, ngày 02/12/2020 những bị hại, gồm: Ông Nguyễn Nhật N, bà Trần Thị T, bà Nguyễn Thị H, ông Nguyễn Văn G kháng cáo cho rằng cấp sơ thẩm xét xử chưa đúng tội danh, xét xử chưa đúng người, đề nghị buộc bị cáo trả tiền cho những bị hại phải có thời gian cụ thể, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm là anh Lê Văn A7. Ngày 02/12/2020 và ngày 04/12/2020 những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, gồm: Ông Trần Ngọc K, bà Phùng Thị L, bà Nguyễn Thị A và bà Võ Thị B có đơn kháng cáo về mức hình phạt của bị cáo quá thấp; có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội là anh Lê Văn A7, anh Nguyễn Thành A24, ông Phạm Quang A25; buộc bị cáo phải có trách nhiệm trả lại bìa đỏ, hồ sơ xin xiệc và số tiền đã nhận để xin việc. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Do việc điều tra của cấp sơ thẩm chưa đầy đủ, có căn cứ khẳng định cấp sơ thẩm bỏ lọt hành vi phạm tội mà chưa được truy tố, xét xử. Vì vậy, để giải quyết vụ án khách quan, toàn diện đúng pháp luật, đảm bảo được quyền lợi ích hợp pháp của các đương sự, nên cần hủy bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích, đánh giá chứng cứ đã đề nghị Hội đồng xét xử hủy Bản án sơ thẩm để điều tra, xét xử lại là có căn cứ; quan điểm của Luật sư bào chữa cho bị cáo Nguyễn Thị C không có căn cứ để chấp nhận. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 55/2020/HS-ST ngày 18/11/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh để điều tra, xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật. Chuyển hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Tĩnh để giải quyết theo thủ tục chung theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. |
54 |
|
Bản án số 10/2023/HS-ST ngày 30 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Ia Grai, tỉnh Gia Lai về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Nguyễn Văn Đ là nhân viên tín dụng của Ngân hàng N chi nhánh huyện G – Đông Gia Lai từ ngày 15/01/2018. Trong thời gian công tác tại Ngân hàng, Đ là cán bộ tín dụng được giao phụ trách địa bàn các xã phía tây huyện G, trong đó có xã K, huyện G, tỉnh Gia Lai vì vậy Đ quen biết được ông Vũ Văn G và bà Rơ Lan H. Vào tháng 4/2019, Đ chơi cá độ bóng đá qua mạng Internet dẫn đến thua số tiền khoảng 2.000.000.000 (hai tỷ) đồng, không còn khả năng trả nợ nên Đ nảy sinh ý định đưa ra thông tin gian dối là cần vay tiền để đáo hạn ngân hàng, đặt cọc mua đất để chiếm đoạt tiền của người quen trả tiền thua độ bóng đá. Trong tháng 6/2019, Đ nghỉ việc, bỏ đi khỏi địa phương, thay đổi số điện thoại và chiếm đoạt tổng số tiền 450.000.000 (bốn trăm năm mươi triệu) đồng. Ông Vũ Văn G và bà Rơ Lan H không liên lạc được với Đ nên đã trình báo Cơ quan Công an. Qua làm việc, Nguyễn Văn Đ đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Bị cáo nhận thức rõ hành vi của mình là trái pháp luật, xâm phạm đến tài sản của người khác nhưng vẫn cố ý thực hiện, phạm tội rất nghiêm trọng do đó cần phải xử bị cáo mức án nghiêm khắc bằng hình phạt tù có thời hạn để cải tạo, giáo dục bị cáo và răn đe, phòng ngừa chung. Bị cáo có ba lần thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, mỗi lần đều đủ định lượng cấu thành tội phạm nên bị áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo là người có nhân thân tốt. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị hại đề nghị giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo nên được áp dụng tình tiết quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử xem xét và giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn Đ phạm “Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 09 (chín) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 07/11/2022. |
71 |
|
Bản án số 133/2022/HSST ngày 13 tháng 10 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Quảng Ninh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Do cần tiền để trả nợ và sử dụng cá nhân, Triệu Văn H nảy sinh ý định lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhiều người. Trong khoảng thời gian từ tháng 11/2018 đến tháng 01/2019, H làm cán bộ Ngân hàng Agribank – Chi nhánh Đông Quảng Ninh, trụ sở tại thành phố Móng Cái, có quen biết xã hội với bà Bùi Thị C, anh Hoàng Văn N và anh Nguyễn Minh Đ, H nói dối với họ, vay tiền để đáo nợ ngân hàng cho khách hàng vay, hưởng chênh lệch về lãi suất và vay của họ với tổng số tiền là 1.450.000.000 đồng. Sau khi nhận được tiền, H không dùng để đáo nợ cho khách hàng vay mà sử dụng vào việc trả nợ cho các khoản vay khác và chi tiêu cá nhân, bỏ việc và bỏ trốn khỏi địa phương, để chiếm đoạt số tiền 1.450.000.000 đồng, Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, trực tiếp xâm phạm đế n quyền sở hữu tài sản của người khác, trong vụ án này bị cáo đã lợi dụng lòng tin của các bị hại, đưa ra thông tin gian dối làm cho bị hại tin đó là sự thật và giao tài sản cho bị cáo để chiếm đoạt tài sản của họ, điều đó thể hiện sự coi thường pháp luật của bị cáo, làm mất trật tự trị an tại địa phương nên cần phải xử lý nghiêm. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: bị cáo H phạm tội 02 lần trở lên, nên phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải về hành vi phạm tội; đã tác động gia đình bồi thường thiệt hại cho các bị hại; được các bị hại xin giảm nhẹ hình phạt; ngoài ra bị cáo còn có bố và mẹ đẻ đều là những người có công với nhà nước, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Triệu Văn H phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Triệu Văn H 08 (tám) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt 30/11/2021. |
76 |
|
Bản án số 223/2021/HS-PT ngày 19 tháng 5 năm 2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Trong khoảng thời gian từ tháng 4/2017 đến tháng 8/2018, do mất khả năng thanh toán, không có tiền để trả cho những khoản vay trước nên Nguyễn Thị Thanh T đã nhờ chị Phan Thị Lệ U giới thiệu để vay tiền của các bị hại. Bị cáo T nhận thức rõ về khả năng, trách nhiệm trả nợ của bản thân đối với khoản vay của bị hại. Tuy nhiên, để nhận được tiền khi vay tiền, T đưa ra thông tin mình vay để làm đáo hạn Ngân hàng, khi nào làm xong đáo hạn sẽ trả hoa hồng và chia một phần lãi cho họ. Khi vay được tiền, T không làm đáo hạn mà đem tiền của người này đi trả lãi và gốc cho người khác. Với thủ đoạn như vậy, T đã chiếm đoạt của chị Đặng Thu H số tiền 700.000.000 đồng, của anh Phan Văn T3 số tiền 1.120.000.000 đồng và của Phạm Văn N là 640.000.000 đồng. Tổng số tiền T chiếm đoạt là 2.460.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thị Thanh T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” Xử phạt Nguyễn Thị Thanh T 16 (Mười sáu) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giam 07/8/2019. Sau xét xử sơ thẩm, ngày 23/7/2020 bị cáo Nguyễn Thị Thanh T có đơn kháng cáo giảm nhẹ hình phạt. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo T thay đổi yêu cầu kháng cáo, cho rằng không có hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản mà chỉ thừa nhận hiện nay chưa trả được số tiền nhận của người bị hại như án sơ thẩm quy kết và cho rằng đây là giao dịch dân sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo không phạm tội. Bị cáo T khai nhận bị cáo làm ruộng và đậu thu nhập hàng tháng khoảng 20 triệu đồng/tháng; bị cáo vay mượn của những người không quen biết, không có mâu thuẫn. Việc bị cáo nhận được tiền là do tự các bị hại cho bị cáo vay tiền. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Tại phiên tòa phúc thẩm, quan điểm của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo kêu oan và giữ nguyên quyết định của bản án sơ thẩm là phù hợp. Bị cáo và các luật sư bào chữa cho rằng bị cáo không phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là không có căn cứ. Do đó, Hội đồng xét xử không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo kêu oan của bị cáo. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Thị Thanh T; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm số 28/2020/HSST ngày 16 tháng 07 năm 2020. |
84 |
LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 30 bản án tuyên phạt tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản do cung cấp thông tin gian dối đáo hạn ngân hàng
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn