Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TỔNG HỢP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH LÀ TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM, PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC

TỔNG HỢP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH LÀ TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM, PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC

FDVN tiếp tục chia sẻ tài liệu “TỔNG HỢP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH LÀ TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM, PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC” do các Luật sư/Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm và tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này cho mục đích thương mại và các mục đích khác bất hợp pháp.

    MỤC LỤC

Tổng hợp 22 Bản án và Quyết định Giám đốc thẩm có liên quan

mà Tòa án nhận định là trường hợp đồng phạm, đồng phạm có tổ chức

STT

BẢN ÁN SỐ

TRANG

Bản án số: 770/2017/HS-PT Ngày 14-11-2017

Về tội ““Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt Trần Ngọc T 08 (Tám) năm tù, Kim Seong H 07 (Bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù, Yang Dong K 07 (Bẩy) năm 06 (Sáu) tháng tù, Kim Young Y 07 (Bẩy) năm tù.

Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định các bị cáo phạm tội trong trường hợp đồng phạm và phạm tội chưa đạt cho nên Hội đồng xét xử phúc thẩm áp dụng thêm quy định tại các Điều 18, 20 và 47 của Bộ luật Hình sự để phân hóa vai trò và giảm cho các bị cáo một phần hình phạt.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo và sửa bản án sơ thẩm.

  • Xử phạt Trần Ngọc T 07 (bẩy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 03/04/2016.
  • Xử phạt Kim Seong H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/12/2015.
  • Xử phạt Yang Dong K 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/12/2015.
  • Xử phạt Kim Young Y 05 (năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt 04/12/2015.

Hình phạt bổ sung: Trục xuất các bị cáo Kim Seong H, Yang Dong K và Kim Young Y phải rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngay sau khi mãn hạn tù.

1-15

Bản án số: 81/2018/HS-PT Ngày 13-6-2018

Về tội “Cưỡng đoạt tài sản”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt Bị cáo Nguyễn Văn T1 14 (Mười bốn) tháng tù, được khấu trừ vào thời hạn đã bị tạm giam là 01 (Một) tháng, còn lại phải thi hành là 13 (Mười ba) tháng, thời hạn tù được tính từ ngày bị bắt để chấp hành.

Bị cáo T1 kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định rằng bị cáo T1 là người khởi xướng, rủ rê bị cáo T2 cùng cố ý thực hiện tội phạm thuộc trường hợp đồng phạm, hành vi của bị cáo chưa phải là xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội. Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng các tình tiết tăng nặng tại điểm o khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 đối với bị cáo là chưa phù hợp. Bị cáo phạm tội lần đầu do bột phát nhất thời, đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo T1, sửa bản án sơ thẩm.

  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T1 12 (mười hai) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo: Nguyễn Phi T2 06 (sáu) tháng tù.

16-20

Bản án số 85/2018/HSST Ngày 04/5/2018

Về tội “Đánh bạc”.

Đây là vụ án đồng phạm có đông người tham gia nhưng là đồng phạm giản đơn, các bị cáo đều bột phát tham gia đánh bạc, chứ không có sự chuẩn bị, câu kết, tổ chức chặt chẽ giữa các bị cáo. Quá trình các bị cáo tham gia đánh bạc cũng như trong quá trình điều tra và tại phiên tòa không có căn cứ chứng minh được ai là người đề xuất, rủ rê, lôi kéo.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn T (sinh năm 1982) 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án.
  • Xử phạt: Bị cáo Đào Văn D 06 (sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (mười hai) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 04/5/2018. Giao bị cáo Đào Văn D cho UBND phường AQ, thành phố Hải Dương, tỉnh Hải Dương nơi bị cáo thường trú để giám sát và giáo dục trong thời gian thử thách.

21-32

Bản án số 144/2018/HS-PT Ngày 12/11/2018

Về tội “Trộm cắp tài sản”.

 Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Phạm Đình Q 18 (Mười tám) tháng tù;
  • Xử phạt bị cáo Đoàn Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù;
  • Xử phạt bị cáo Lê Đức Th 9 (Chín) tháng tù;
  • Xử phạt bị cáo Trần Ngọc Tr 7 (Bảy) tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo thi hành án.

  • Xử phạt bị cáo Mai Xuân H12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.
  • Xử phạt bị cáo Lương Sỹ M12 (Mười hai) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 (Hai mươi bốn) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân Hợi và Nguyễn Văn Kh mỗi người 6 (Sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 12 (Mười hai) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Sau khi tuyên án, bị cáo Lê Đức Th, Đoàn Văn L, Trần Ngọc Tr kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định bị cáo Đoàn Văn L mặc dù không trực tiếp thực hiện hành vi trộm cắp tài sản mà là người thực hiện hành vi phạm tội với vai trò giúp sức và việc thỏa thuận trước sẽ tiêu thụ tài sản do trộm cắp mà có nên đã tạo động lực để các bị cáo thực hiện hành vi trộm cắp tài sản nên hành vi của bị cáo L là đồng phạm về tội trộm cắp tài sản.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đoàn Văn L, sửa bản án sơ thẩm: Xử phạt bị cáo Đoàn Văn L 15 (Mười lăm) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 30 tháng kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

33-41

Bản án số: 189/2018/HSPT Ngày 06/6/2018

Về tội “Cố ý gây thương tích”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D (tên gọi khác: D2) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Sùng Mí T (tên gọi khác: D1) 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Trương Văn S1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
  • Tuyên trả tự do bị cáo Trương Văn S1 ngay tại phiên tòa, nếu bị cáo không bị tạm giam về một tội phạm khác.
  • Xử phạt bị cáo Dương Văn Th 01 (một) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 02 (hai) năm tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị một phần bản án hình sự sơ thẩm đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm áp dụng thêm tình tiết định khung tăng nặng “có tính chất côn đồ”. Tăng mức hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn D, Sùng Mí T, giữ nguyên mức hình phạt đối với Trương Văn S1 và không cho bị cáo Trương Văn S1 được hưởng án treo.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Khi T1 rủ các bị cáo tham gia đánh anh S, các bị cáo không có sự bàn bạc phân công nhiệm vụ mà đồng ý tham gia ngay và dùng tay, chân, gậy và kiếm đánh anh S gây thương tích 21%. Như vậy các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn, với vai trò là người thực hành và phải chịu chung trách nhiệm hình sự do hành vi của những người thực hành gây ra. Tòa án cấp sơ thẩm cho bị cáo Th được hưởng án treo là không đúng pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh.

  • Xử phạt bị cáo Hoàng Văn D 02 (hai) năm 03 (ba) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Sùng Mí T 02 (hai) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Trương Văn S1 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Dương Văn Th 01 (một) năm tù về tội “Cố ý gây thương tích”, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 02 (hai) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

42-51

Bản án số: 214/2018/HS-PT Ngày: 05/7/2018

Về tội “Cố ý gây thương tích”.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo: Trần Đình L 07 năm tù.
  • Xử phạt bị cáo: Hoàng Văn D 05 năm 06 tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo: Nông Văn P 04 năm tù.
  • Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Bản án sơ thẩm xác định đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo L là người khởi xướng, xúi dục, thực hiện; bị cáo D là người rủ rê, chuẩn bị công cụ phạm tôi và cùng các bị cáo P, T giúp sức và thực hiện hành vi phạm tôi là có căn cứ, các bị cáo không phạm tội với tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm a khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Đình L, Hoàng Văn D, Nông Văn P và kháng cáo của bị hại Phạm Đình K – Giữ nguyên bản án sơ thẩm về tội danh và mức hình phạt.

52-63

Bản án số: 687/2018/HS-PT Ngày 10/12/2018

Về tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Đặng Thanh B: 03 (ba) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Hà Tấn Ph: 02 (hai) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Lê Văn Th: 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Phạm Thế T: 01 (một) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Ngô Văn Th1: 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

Bị cáo Đặng Thanh B có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm; bị cáo Ngô Văn Th1, Lê Văn Th và Hà Tấn Ph có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin được hưởng án treo. Ngày 16/7/2018, bị cáo Phạm Thế T có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Các bị cáo đã không thực hiện đầy đủ chức trách nhiệm vụ của mình, thiếu kiểm tra giám sát nên đã tạo điều kiện cho Phạm Công D và đồng phạm gây ra thiệt hại hàng ngàn tỷ đồng tại Ngân hàng X là hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo Hà Tấn Ph, Lê Văn Th, Phạm Thế T, Ngô Văn Th1 phạm tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” là có căn cứ đúng pháp luật.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

64-95

Bản án số: 29/2019/HS-PT Ngày 12/8/2019

Về tội “Đánh bạc”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Quan Văn P 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù. Phạt tiền 10.000.000 đồng.
  • Xử phạt bị cáo Chẩu Văn H 01 (một) năm 05 (năm) tháng tù, phạt tiền 10.000.000 đồng.

Các bị cáo Quan Văn P, Chẩu Văn H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm hình phạt và hưởng án treo. Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm về phần tổng hợp hình phạt; đề nghị xét xử phúc thẩm theo hướng trừ thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của Bản án hình sự sơ thẩm số 40/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang, tổng hợp hình phạt chung theo quy định tại khoản 2 Điều 56 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Chẩu Văn H.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Bị cáo Chẩu Văn H là người thực hành với vai trò là đồng phạm, trực tiếp ghi số lô, số đề với những người đánh bạc, bị cáo phạm tội hai lần; cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết tăng nặng “Tái phạm” đối với bị cáo là không chính xác, vì bị cáo thực hiện hành vi phạm tội ngày 15/12/2018, nhưng bản án hình sự sơ thẩm số 40/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang chưa có hiệu lực pháp luật, nên không tính là tiền án, đến ngày 16/12/2018 bản án có hiệu lực pháp luật, nhưng số tiền đánh bạc dưới 5.000.000 đồng, nên được tính là yếu tố cấu thành tội phạm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Quan Văn P, chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Chẩu Văn H, chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm.

  • Xử phạt: Bị cáo Quan Văn P 01 (một) năm 03 (Ba) tháng tù về tội Đánh bạc.
  • Xử phạt: Bị cáo Chẩu Văn H 01 (một) năm 02 (Hai) tháng tù về tội Đánh bạc. Tổng hợp phần hình phạt chưa chấp hành của bản án số 40/2018/HS-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Tuyên Quang buộc Chẩu Văn H phải chấp hành hình phạt chung là 01 năm 03 tháng 13 ngày tù.

96-105

Bản án số: 38/2019/HS-PT Ngày: 26/11/2019

Về tội “Đánh bạc ” và “Gá bạc”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố các bị cáo phạm tội Đánh bạc. Về trách nhiệm hình sự:

  • Phạt tiền bị cáo: Nguyễn Văn T 30.000.000 đồng;
  • Các bị cáo Nguyễn Thành T, Nguyễn Văn N, Đỗ Viết H, Quản Văn C, Nguyễn Văn P mỗi bị cáo 25.000.000 đồng.
  • Các bị cáo Nguyễn Ngọc S và Triệu Giang S mỗi bị cáo 20.000.000 đồng.
  • Phạt bị cáo: Bùi Ngọc H 30.000.000 đồng.

Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị một phần Bản án hình sự sơ thẩm về tội danh đối với các bị cáo Nguyễn Văn T và Triệu Giang S; về hình phạt không áp dụng hình chính là hình phạt tiền đối với các bị cáo Nguyễn Văn T, Triệu Giang S, Bùi Ngọc H và Nguyễn Thành T.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Nguyễn Văn T, sử dụng nhà mình chứa chấp việc đánh bạc đồng thời thu tiền hồ, T là chủ mưu lôi kéo, chỉ đạo, trực tiếp phân công Triệu Giang S thực hiện tội phạm. Triệu Giang S là tên thực hành tích cực, thực hiện việc thu phế theo chỉ đạo của T, bị cáo đã phạm tội gá bạc với vai trò đồng phạm, hành vi có tính chất nguy hiểm, do vậy phải có hình phạt nghiêm khắc.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh, sửa bản án Hình sự sơ thẩm.Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn T, Triệu Giang S phạm tội “Gá bạc”.

  • Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 ( mười hai ) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Triệu Giang S 9 ( chín ) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
  • Xử phạt bị cáo Bùi Ngọc H 9 ( chín ) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.
  • Xử phạt bị cáo Nguyễn Thành T 9 tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thử thách 18 tháng tính từ ngày tuyên án phúc thẩm.

106-111

Bản án số 66/2019/HS-PT Ngày 29/3/2019

Về tội “Gây rối trật tự công cộng”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 02 (hai) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ bắt thi hành án. X
  • Xử phạt bị cáo Lâm Thanh N và Nguyễn Tuấn V mỗi bị cáo 03 (ba) năm 06 (sáu) tháng tù;
  • Xử phạt các bị cáoLê Văn U, Lê Vũ K, Nguyễn Quốc Đ, Phan Văn Thành N, Phan Thế Trường L, Nguyễn Thị Kim T, Võ Văn T 5 02 (hai) năm tù;
  • Xử phạt các bị cáo Nguyễn Ngọc Hoàng V, Nguyễn Thanh S, Lê Thị T, Nguyễn Thị Bé L 02 (hai) năm tù nhưng cho hưởng án treo.

Bị cáo Nguyễn Văn Đ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Bị cáo nhận thức được hành vi của mình vi phạm pháp luật nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý nhằm lôi kéo, xúi giục người khác tham gia gây rối, làm mất trật tự công cộng. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội với vai trò đồng phạm giúp sức thứ yếu (khoản 2 Điều 54 Bộ luật Hình sự), bị cáo thực hiện hành vi phạm tội khi mới bước qua tuổi 18 nên nhận thức còn hạn chế.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ về xin giảm hình phạt; không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn Đ về việc xin hưởng án treo; sửa Bản án hình sự sơ thẩm Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Đ 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.

112-118

Bản án số 88/2019/HS-ST Ngày 04/7/2019

Về tội “Trộm cắp tài sản”.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Trong vụ án này bị cáo Nguyễn Văn C là người chủ mưu, cầm đầu, rủ rê và phân công cho các bị cáo Đ, V ; đồng thời cũng là người trực tiếp lấy chìa khóa xe của anh L đi làm chìa khóa phụ để các bị cáo Đ, V dễ dàng thực hiện hành vi trộm cắp tài sản; còn bị cáo Nguyễn Ngọc Đ là đồng phạm giúp sức tích cực, do từng làm chung với anh L sợ bị phát hiện, Đ đã lôi kéo bị cáo V tham gia, bị cáo đã lấy xe của mình chở V từ Bình Dương rồi đưa V chìa khóa xe để V đi vào lấy xe; bị cáo V là người trực tiếp đi vào lấy trộm chiếc xe của anh L sau đó điều khiển xe mang về nhà trọ Bình Dương cất giấu; các bị cáo là đồng phạm có tổ chức.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn C 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù.
  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Ngọc Đ 02 (hai) năm tù.

119-126

Bản án số 368/2019/HS-PT Ngày 31/12/2019

Về tội “Chứa mại dâm”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:  Xử phạt: Nguyễn Thị D 01 năm tù về tội Chứa mại dâm.

Bị cáo Nguyễn Thị D có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Viện trưởng VKSND tỉnh kháng nghị bản án hình sự sơ thẩm nêu trên với lý do: Toà án cấp sơ thẩm bỏ lọt người đồng phạm Võ Văn Đ, là người giúp sức cho Nguyễn Thị D thực hiện hành vi chứa mại dâm.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Hành vi của Võ Văn Đ đã giúp sức cho Nguyễn Thị D thực hiện hành vi chứa mại dâm đối với anh B và H’ B mua bán dâm tại nhà nghỉ của mình. Cấp sơ thẩm không khởi tố, điều tra, truy tố đối với Võ Văn Đ về tội chứa mại dâm là bỏ lọt người phạm tội. Toà án cấp sơ thẩm, không trả hồ sơ để điều tra bổ sung về đồng phạm Võ Văn Đ là thiếu sót.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Huỷ bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung.

127-130

Bản án số 119/2019/HS-PT Ngày 25/06/2019

Về tội “Cố ý gây thương tích” và “Hủy hoại tài sản”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt Huỳnh Ngọc H 21 (Hai mươi mốt) tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 09 (Chín) tháng tù về tội “Hủy hoại tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung của cả 2 tội buộc bị cáo phải chấp hành là 30 (Ba mươi) tháng tù, trừ đi 04 tháng 03 ngày (từ ngày 29/09/2017 đến ngày 02/01/2019) đã bị tạm giam, bị cáo còn phải thi hành 25 tháng 27 ngày tù.
  • Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn tuyên về tội danh và hình phạt đối với các bị cáo Nguyễn Văn D, Lê Bá H2, Trần Văn K, Đặng Phước L và Lê Nguyễn Hồng P nhưng không có kháng cáo, không bị kháng cáo, kháng nghị.

Bị cáo Huỳnh Ngọc H có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin giảm nhẹ hình phạt.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Trong vụ án này tuy bị cáo H không trực tiếp tham gia cùng đồng bọn gây thương tích cho anh P và không trực tiếp tham gia hủy hoại tài sản tại phòng khám Nha khoa P do anh Nguyễn Văn V làm chủ, nhưng bị cáo H là người khởi xướng, xúi giục đồng phạm thực hiện hành vi phạm tội, nguyên nhân của vụ án là do bị cáo có mâu thuẫn với anh Nguyễn Văn V nên đã nhờ đồng bọn đánh anh V và đập phá tài sản của anh V nên mới gây ra vụ án; do vậy bị cáo phải là người chịu trách nhiệm chính trong vụ án với mức hình phạt cao hơn đồng bọn.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Huỳnh Ngọc H, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

131-136

Bản án số 49/2020/HS-PT Ngày 24/02/2020

Về tội “Bắt người trái pháp luật”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:  

  • Bị cáo Huỳnh Minh Th mức án 03 (ba) năm tù.
  • Bị cáo Phạm Minh S 02 (hai) năm tù.
  • Bị cáo Nguyễn Mạnh H 02 (hai) năm tù.

Bị cáo Phạm Minh S có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và về xử lý vật chứng. Bị cáo Nguyễn Mạnh H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm, đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai hủy toàn bộ bản án sơ thẩm để điều tra, truy tố, xét xử lại.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Hành vi của Huỳnh Minh Th và đồng phạm đã cấu thành tội “Bắt người trái pháp luật”. Nguyễn Nhật D và Nguyễn Hoài T biết và tham gia vào việc bắt Hoàng D nhưng Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân huyện L không điều tra, truy tố Nguyễn Nhật D và Nguyễn Hoài T là bỏ lọt tội phạm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Huỷ bản án hình sự sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho cấp sơ thẩm để điều tra lại theo thủ tục chung.

137-142

Bản án số 53/2020/HS-PT Ngày 10/3/2020

Về tội “Tổ chức đánh bạc”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:  

  • Xử phạt bị cáo Trần Vũ Hoài P 06 năm tù.
  • Xử phạt: Lê Quang D 05 năm 06 tháng tù.

Các bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Án sơ thẩm xử nặng, xin được xem xét theo trình tự phúc thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Trong vụ án này, bị cáo P là người đã rủ rê, lôi kéo bị cáo D cùng tổ chức đánh bạc và số tiền đánh bạc của bị cáo P cũng cao hơn bị cáo D nên mức án của bị cáo P phải cao hơn bị cáo D.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Vũ Hoài P và Lê Quang D, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

143-149

Bản án số: 53/2020/HSST Ngày 17/6/2020

Về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Các bị cáo Quàng Thị P, Lò Văn H đã thực hiện hành vi mua bán người dưới 16 tuổi ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam nên đã phạm vào tình tiết “Đưa nạn nhân ra khỏi biên giới nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự, có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm. Đối với Tòng Văn H, biết hành vi sai trái của P nhưng không ngăn cản mà còn tham gia đưa P ra nơi đón xe và đón bị hại giao cho P để đưa sang Trung Quốc bán, do đó bị cáo là đồng phạm với vai trò người giúp sức.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Quàng Thị P 12 (mười hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt với hình phạt 09 (chín) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2016/HSST ngày 13/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, buộc bị cáo Quàng Thị P phải chấp hành mức hình phạt tù chung là 21 (hai mốt) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Tòng Văn H 08 (tám) năm tù. Tổng hợp hình phạt với hình phạt 07 (bảy) năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 68/2016/HSST ngày 13/4/2016 của Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La, buộc bị cáo Tòng Văn H phải chấp hành mức hình phạt tù chung là 15 (mười lăm) năm tù.

150-158

Bản án số 284/2020/HSPT Ngày 16/6/2020

Về tội “Tham ô tài sản”.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:  

  • Xử phạt bị cáo Lê Văn Ph 07 (bẩy) năm 06 (sáu) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Nguyễn Hùng V 07 (bẩy) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Vũ Văn H1 04 (bốn) năm tù.
  • Xử phạt bị cáo Trịnh Chí L4 36 (ba mươi sáu) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Trương Văn C 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Xử phạt bị cáo Trương Quốc N 36 (ba mươi sáu) tháng tù.
  • Xử phạt bị cáo Vũ Hồng H2 36 (ba mươi sáu) tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm, kể từ ngày tuyên án.
  • Xử phạt bị cáo Lê Hồng Q2 36 (ba mươi sáu) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách 5 năm kể từ ngày tuyên án.

Bị hại là Công ty PT. Vietmindo Energitama có đơn kháng cáo với nội dung đề nghị tăng mức hình phạt tù đối với cáo bị cáo trong vụ án, buộc các bị cáo phải bồi thường thêm cho bị hại và xử lý trách nhiệm hình sự người đã tiếp tay cho tội phạm để tiêu thụ tài sản.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Tại phiên tòa phúc thẩm tất cả các bị cáo đều thành khẩn khai nhận hành vi đồng phạm phạm tội “Tham ô tài sản” mà các bị cáo đã cùng nhau thực hiện đúng như nội dung cáo trạng và bản án hình sự sơ thẩm đã quy kết về hành vi phạm tội của từng bị cáo. Căn cứ các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thì thấy ngoài các bị cáo bị truy tố xét xử sơ thẩm, thì không còn có căn cứ pháp luật để cho rằng còn bỏ lọt tội phạm như đã được thể hiện trong bản kết luận điều tra và trong cáo trạng của Viện kiểm sát, cũng như trong bản án của Tòa án cấp sơ thẩm đã đề cập. Hơn nữa, do giới hạn của việc xét xử thì Viện kiểm sát không truy tố thì Tòa án không được giải quyết và do cấp sơ thẩm chưa giải quyết nên không thuộc phạm vi xét xử phúc thẩm.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị hại về việc đề nghị tăng mức hình phạt tù, tăng tiền bồi thường đối với các bị cáo và bỏ lọt tội phạm như nội dung kháng cáo của bị hại, để giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm.

159-172

Quyết định giám đốc thẩm 23/2007/HS-GĐT ngày 07/08/2007 của Tòa án nhân dân tối cao.

Về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản và tội cưỡng đoạt tài sản”.

Trong vụ án này, bị cáo Nguyễn Văn Hưng có vai trò chính là người trực tiếp có đơn xin nhận khoán, đứng ra thành lập tổ thu phí, đề xuất việc nâng mức thu cao hơn quy định, có số vốn góp lớn nhất và cũng là người chiếm đoạt nhiều nhất, còn các bị cáo Dương Đình Mạc, Dương Văn Chung, Dương Văn Vĩnh, Nguyễn Văn Biên tham gia với vai trò đồng phạm giúp sức; riêng các bị cáo Dương Văn Chung, Dương Văn Vĩnh đã có một tiền án về tội đánh bạc nhưng chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm chỉ áp dụng một tình tiết định khung quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo là thiếu sót. Tòa án cấp phúc thẩm cũng có sai lầm khi cho rằng hành vi phạm tội của các bị cáo không phải là phạm tội có tổ chức.

Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy bản án hình sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội về hình phạt đối với Nguyễn Văn Hưng, Dương Đình Mạc, Dương Văn Vĩnh, Dương Văn Bộ, Nguyễn Văn Biên. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

173-179

Quyết định giám đốc thẩm số 07/2013/HS-GĐT ngày 10-6-2013 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao.

Về vụ án hình sự bị cáo Đặng Thị Mai Trinh và đồng phạm bị kết án về tội “Lưu hành giấy tờ có giá giả”.

Tại thời điểm xét xử vụ án, Bộ luật hình sự năm 1999 đã được sửa đổi, bổ sung và có hiệu lực từ ngày 01-01-2010. Theo quy định mới của pháp luật hình sự thì hành vi phạm tội của các bị cáo cấu thành tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách nhà nước”, quy định tại Điều 164a Bộ luật hình sự năm 2009 và là tội nhẹ hơn so với tội “Lưu hành giấy tờ có giá giả”. Vì thế, việc Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Đặng Thị Mai Trinh và Nguyễn Văn Tâm về tội “Lưu hành giấy tờ có giá giả” là sai lầm nghiêm trọng trong việc áp dụng Bộ luật hình sự. Do có sự thay đổi nêu trên của pháp luật hình sự theo hướng có lợi cho các bị cáo nên cần phải xem xét, xác định lại chính xác tội danh và mức độ trách nhiệm hình sự của Đặng Thị Mai Trinh và Nguyễn Văn Tâm.

Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 365/2010/HSPT ngày 24-6-2010 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh về phần trách nhiệm hình sự đối với Đặng Thị Mai Trinh và Nguyễn Văn Tâm. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

180-182

Quyết định giám đốc thẩm số 23/2015/HS-GĐT ngày 17-12-2015 của hội đồng thẩm phán tòa án nhân dân tối cao.

Về vụ án hình sự đối với Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Đông, Phan Bá Cường về tội “Giết người”.

Trong vụ án này còn có sự tham gia của Phan Văn Dương, Phan Văn Diệu, Nguyễn Vĩnh Oai, Phạm Văn Quỳnh. Mặc dù không có sự bàn bạc, thống nhất từ trước, nhưng khi nghe Phan Bá Cường hô hào “Anh em cầm dao, rựa sang chém hai thằng quê Kim Thành đánh anh Trường” thì Dương, Diệu, Oai, Quỳnh đã hành động rất tích cực, cùng cầm theo dao, dựa, gậy đi theo hô hào, kích động tìm người để đánh, uy hiếp những người khác là hành vi giúp sức, có dấu hiệu đồng phạm. Các cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ thẩm chưa đánh giá đúng tính chất, mức độ nguy hiểm hành vi của Dương, Diệu, Oai và Quỳnh để xem xét trách nhiệm hình sự là chưa triệt để, có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm. Bản án phúc thẩm không phát hiện ra những sai sót của cấp sơ thẩm và không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp của người bị hại, giữ nguyên bản án sơ thẩm là không đúng.

Tòa án nhân dân tối cao quyết định: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm và Bản án hình sự sơ thẩm về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Phan Văn Trường, Nguyễn Văn Đồng, Phan Bá Cường để điều tra lại. Giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát nhân dân tối cao để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

183-186

Quyết định giám đốc thẩm số 235/2017/HS-GĐT Ngày 07/9/2017

Về vụ án Bùi Thành T và đồng phạm bị xét xử về tội “Buôn lậu”.

Trong vụ án này, Bùi Thành T giữ vai trò là người chủ mưu, cầm đầu, trực tiếp ký hợp đồng với bên Trung Quốc, trực tiếp tìm kiếm nguồn hàng, thuê tàu vận chuyển và tổ chức, điều hành việc giao nhận hàng lên tàu để vận chuyển số lượng hàng hóa trị giá 2.128.483.000 đồng sang Trung Quốc. Hành vi phạm tội của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, số lượng quặng sắt buôn bán, vận chuyển trái phép qua biên giới có giá trị đặc biệt lớn. Các bị cáo T và H 1 phạm tội thuộc khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân, các bị cáo M và M phạm tội thuộc khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 05 năm đến 10 năm tù nhưng Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo T 03 năm tù cho hưởng án treo; xử phạt bị cáo H 1 23 tháng 29 ngày tù; xử phạt bị cáo M 02 năm tù cho bị cáo hưởng án treo; xử phạt bị cáo M 23 tháng 20 ngày tù là áp dụng không đúng quy định tại Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự; Nghị quyết số 01/2013/NQ-HĐTP ngày 06/11/2013 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 60 Bộ luật hình sự về án treo, chưa đánh giá đúng tính chất và mức độ đặc biệt nghiêm trọng của hành vi phạm tội của các bị cáo.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội quyết định: Hủy Bản án hình sự sơ thẩm về phần quyết định hình phạt chính đối với Bùi Thành T, Nguyễn Văn H 1, Vũ Tuấn M và Trịnh Văn M; Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

187-191

Quyết định giám đốc thẩm số 12/2019/HS-GĐT ngày 01 tháng 3 năm 2019.

Về tội “Nhận hối lộ”.

Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết tội Trần Hoàng L, Hoàng Phú Y “Nhận hối lộ” theo Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999 là đúng tội, nhưng áp dụng khoản 1 Điều 279 để xử phạt các bị cáo là không đúng khung hình phạt; ngoài ra Cơ quan điều tra còn bỏ lọt người phạm tội là đồng phạm trọng vụ án đối với Trần Thanh H1 và Nguyễn Thanh H4. Tòa án cấp phúc thẩm phát hiện hành vi của Trần Thanh H1 và Nguyễn Thanh H4 có dấu hiệu phạm tội “Nhận hối lộ” nhưng không hủy án sơ thẩm để điều tra lại mà kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét trách nhiệm hình sự của H1, H4 là không đúng theo quy định tại Điều 358 Bộ luật tố tụng hình sự, dẫn đến vụ án không được giải quyết triệt để và toàn diện.

Xét thấy vụ án này cần phải được điều tra lại để làm rõ hành vi “Đòi hối lộ” theo điểm đ khoản 2 Điều 279 Bộ luật Hình sự năm 1999 của các bị cáo Trần Hoàng L, Hoàng Phú Y và làm rõ vai trò đồng phạm về tội “Nhận hối lộ” của Trần Thanh H1, Nguyễn Thanh H4 nhằm giải quyết vụ án triệt để, toàn diện, đúng vai trò, mức độ phạm tội của từng bị cáo, đảm bảo sự công bằng, đúng pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng.  Hủy Bản án hình sự phúc của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình và Bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện T1, tỉnh Quảng Bình để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

192-197

LINK TẢI: TỔNG HỢP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM TOÀ ÁN NHẬN ĐỊNH LÀ TRƯỜNG HỢP ĐỒNG PHẠM, PHẠM TỘI CÓ TỔ CHỨC

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

45C Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàng Kiếm, thành phố Hà Nội

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan