Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

STT

TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN

TRANG

Bản án số 05/2022/KDTM-PT ngày 04/4/2022 của TAND tỉnh Đắk Lắk về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”.

Nội dung: Công ty cổ phần thương mại Đ (sau đây viết tắt là Công ty Đ) và Công ty trách nhiệm hữu hạn xây dựng A (sau đây viết tắt là Công ty A) có quan hệ mua bán hàng hóa là vật liệu xây dựng rất nhiều năm với nhau. Trong thời gian từ ngày 26/12/2018 đến ngày 31/12/2019, Công ty Đ và Công ty A có ký hợp đồng mua bán vật liệu xây dựng. Tổng số tiền theo hợp đồng là 13.469.503.460 đồng, Công ty A có chuyển cho Công ty Đ số tiền là 12.938.000.000 đồng để thanh toán tiền hàng, theo đó số tiền đã mua hàng có hóa đơn giá trị gia tăng là 2.974.203.460 đồng. Sau đó Công ty Đ đã trả lại cho Công ty A số tiền là 10.495.300.000 đồng, theo 11 hóa đơn là các Phiếu thu và người nộp lại tiền cho Công ty A là bà Hoàng Diệu T, số tiền này nộp trực tiếp tiền mặt cho Công ty A, lý do nộp lại tiền là khi ký hợp đồng Công ty Đ không có hàng để giao hoặc giá cả thay đổi nên hai bên không tiếp tục thực hiện hợp đồng.

Ngày 25/7/2019, Công ty Đ và Công ty A đã cùng đối chiếu và lập Biên bản đối chiếu công nợ (đại diện Công ty A do ông Trịnh Hữu N, là Phó giám đốc; ông Nguyễn Văn Q, là Kế toán trưởng và bà Đỗ Thị T, Trợ lý vật tư cùng ký), theo đó đến hết ngày 23/7/2019 bên mua (Công ty A) còn nợ bên bán số tiền là 531.503.460 đồng. Đến ngày 31/3/2020 hai bên tiếp tục lập Biên bản đối chiếu công nợ (do ông Phạm Văn T, là Quyền Giám đốc Công ty A đại diện) xác nhận nội dung Công ty A còn nợ Công ty Đ số tiền là 531.503.460 đồng.

Ngày 24/4/2020, Công ty Đ có văn bản đề nghị Công ty A thanh toán tiền hàng còn nợ, yêu cầu trả nợ gốc và lãi suất trả chậm nhưng Công ty A không thanh toán. Do đó, Công ty Đ khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Công ty A thanh toán số tiền còn nợ gốc là 531.503.460 đồng và lãi suất theo quy định kể từ khi đối chiếu công nợ, ngày 23/7/2019 cho đến khi trả xong nợ.

Đại diện Công ty A cho rằng các chữ ký tại phiếu thu không hợp lệ, vì không đóng dấu của Công ty A; còn về chữ ký có thể là chữ ký của kế toán trưởng, về nguyên tắc tài chính và quy định của công ty khi người nộp tiền vào công ty thì sẽ được nhận một liên phiếu thu có đầy đủ chữ ký của Thủ quỹ, Kế toán trưởng, Giám đốc công ty và đóng dấu hợp pháp của công ty. Nếu phiếu không có dấu của công ty thì không liên quan đến Công ty A. Việc bà T-Đại diện công ty Đ có nộp tiền hay không thì không biết được, vì chỉ có Thủ quỹ là người nhận tiền mới biết, ông Q-Kế toán công ty A là người ký sau Thủ quỹ, sau đó đến Giám đốc. Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và tranh chấp giữa hai bên thì đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.

Toà cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận đơn kiện của Công ty cổ phần thương mại Đ. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng A trả cho Công ty cổ phần thương mại Đ số tiền 531.503.460 đồng và lãi suất số tiền 118.668.778 đồng.  Tổng cộng 650.172.238 đồng.

Toà cấp phúc thẩm nhận định: Đối với ý kiến của đại diện Công ty A cho rằng Công ty A đã thanh toán số tiền là 12.938.000.000 đồng, là vượt quá số tiền đã mua hàng hóa nên không còn nợ tiền Công ty Đ, xét thấy:

Công ty Đ xác định, sau khi nhận tiền từ Công ty A, do không có đủ hàng để giao cho theo hợp đồng, nên Công ty Đ đã chuyển trả lại (nộp tiền mặt) cho Công ty A số tiền là 10.495.300.000 đồng, theo 11 hóa đơn là các Phiếu thu (từ bút lục số 209 đến 219) và ông Nguyễn Hữu T, thời điểm đó là Giám đốc Công ty A đã ký xác nhận tại các phiếu thu tiền. Kết quả giám định chữ ký của Viện khoa học hình sự Bộ Công an cũng thể hiện điều này.

Theo như trình bày của các bên đương sự và diễn biến quá trình mua bán thì số tiền Công ty A mua hàng có hóa đơn giá trị gia tăng là 2.974.203.460 đồng, số tiền Công ty Đ chuyển trả lại cho Công ty A là 10.495.300.000 đồng. Như vậy, tổng cộng số tiền mua hàng và khoản tiền đã trả lại là 13.469.503.460 đồng, trong khi số tiền Công ty A đã chuyển khoản cho Công ty Đ là 12.938.000.000 đồng, nên số tiền hàng Công ty A còn nợ là 531.503.460 đồng, là hoàn toàn phù hợp với Biên bản đối chiếu công nợ giữa hai bên và yêu cầu khởi kiện của Công ty Đ.

Do đó ý kiến của bị đơn Công ty A cho rằng không còn nợ tiền hàng của Công ty Đ và không chịu trách nhiệm về khoản tiền nợ theo nội dung biên bản đối chiếu công nợ, là không có cơ sở chấp nhận.

Toà cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng A, giữ nguyên Bản án Kinh doanh thương mại sơ thẩm số: 15/2021/KDTM-ST, ngày 22/10/2021 của Toà án nhân dân thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.

Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên xây dựng A phải trả cho Công ty cổ phần thương mại Đ số tiền là 531.503.460 đồng và lãi suất chậm trả là 118.668.778 đồng, tổng cộng phải trả số tiền là 650.172.238 đồng (Sáu trăm năm mươi triệu một trăm bảy mươi hai nghìn hai trăm ba mươi tám đồng).

01-09

Bản án số: 09/2022/KDTM-ST ngày 24/01/2022 TAND quận Tân Bình, TP Hồ Chí Minh về “tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”

Nội dung: Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Dịch vụ (Công ty Avà Công ty Trách nhiệm hữu hạn K (Công ty K) ký kết Hợp đồng nguyên tắc, theo đó Công ty K đồng ý giao cho Công ty A làm đại diện phân phối trên toàn lãnh thổ Việt Nam các mặt hàng bánh kẹo có xuất xứ từ Thái Lan theo danh mục hàng hóa do Công ty K nhập về. Theo đó, Công ty A sẽ gửi đơn đặt hàng và hàng hóa sẽ được giao đến kho trong vòng 48 tiếng sau khi Công ty K nhận được thông báo chuyển khoản thanh toán.

Sau khi ký kết hợp đồng, hai bên đã ký xác nhận đơn đặt hàng số 01/0819-ĐH ngày 29/7/2019, Công ty A đã chuyển cho Công ty K để thực hiện việc mua bán theo đơn đặt hàng như sau:

– Ngày 30/07/2019, chuyển số tiền là 300.000.000đồng (Ba trăm triệu đồng).

– Ngày 26/08/2019, chuyển số tiền là 200.000.000đồng (Hai trăm triệu đồng).

– Ngày 30/08/2019, chuyển số tiền là 130.000.000đồng (Một trăm ba mươi triệu đồng).

Sau khi nhận số tiền như nêu trên thì Công ty K không giao hàng cho Công ty A như Hợp đồng đã ký kết mà tự ý bán số hàng hóa nhập từ Thái Lan về và chuyển lại tiền bán hàng cho Công ty A là:

+ Ngày 25/8/2019 chuyển 02 lần tiền bán hàng là: 100.000.000 đồng (mỗi lần chuyển 50.000.000đồng)

+ Ngày 26/8/2019 chuyển tiền bán hàng là: 50.000.000 đồng

Sau khi cấn trừ số tiền bán hàng như nêu trên, Công ty K còn nợ tiền mua hàng hóa là: 630.000.000đồng – 150.000.000đồng = 480.000.000 đồng nhưng đến thời điểm hiện nay vẫn không giao số hàng tương ứng với số tiền còn thiếu lại 480.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên toà bị đơn cho rằng số tiền 150.000.000 đồng là tiền bị đơn góp vốn vào Công ty A, không liên quan đến Hợp đồng nên nguyên đơn không cấn trừ vào số tiền đã thanh toán, bị đơn cần thanh toán lại cho nguyên đơn 630.000.000 đồng. Tổng số tiền gốc và lãi bị đơn phải trả cho nguyên đơn là: 630.000.000đ + 137.132.258đ = 767.132.258 đồng.

Bị đơn nêu đã chuyển đầy đủ 3.400 thùng hàng được thể hiện thông qua những tin nhắn, những buổi họp trực tuyến về việc triển khai bán hàng của nguyên đơn, hình ảnh giao nhận hàng…. . không có lập bất cứ văn bản gì.

Nhận định của Toà án: Phía bị đơn trình bày do hàng chuyển đến kho  vào ban đêm, người phụ trách nhận hàng của nguyên đơn không đến được nên ông tự  thực hiện việc nhận hàng của bị đơn và chuyển vào kho của nguyên đơn nhưng không  có bất cứ chứng cứ nào chứng minh đồng thời bản thân ông cũng là người đại diện  theo pháp luật của bị đơn là chủ thể có trách nhiệm phải giao hàng theo đơn đặt hàng  nhưng khi giao hàng lại không lập biên bản xác nhận đã giao nhận hàng đầy đủ có  nghĩa là không chứng minh được việc đã thực hiện trách nhiệm giao hàng của mình.

Về mức lãi suất: Theo quy định tại Điều 306 Luật Thương mại năm 2005: “Trường hợp bên vi phạm hợp đồng chậm thanh toán tiền hàng hay chậm thanh toán thù lao dịch vụ và các chi phí hợp lý khác thì bên bị vi phạm hợp đồng có quyền yêu cầu trả tiền lãi trên số tiền chậm trả theo lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán tương ứng với thời gian trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác”. 

Đối với số tiền 150.000.000 đồng bị đơn đã chuyển cho nguyên đơn: Tại phiên tòa, cả nguyên đơn và bị đơn đều xác nhận số tiền này là tiền cá nhân ông U chuyển từ tiền bán hàng để góp vốn vào nguyên đơn, không phải tiền do bị đơn chuyển trả lại đối với số tiền nguyên đơn đã thanh toán cho hợp đồng nguyên tắc và đơn đặt hàng hai bên đã ký. Xét các bên không có yêu cầu về số tiền này nên HĐXX không xem xét, giải quyết. Các tranh chấp phát sinh đến số tiền góp vốn này sẽ được giải quyết khi một hoặc các bên đương sự có yêu cầu.

Về thời gian tính lãi: Theo thỏa thuận tại Điều 2 của hợp đồng nguyên tắc thì hàng sẽ được bị đơn giao đến kho nguyên đơn trong vòng 48 tiếng sau khi bị đơn nhận được thông báo đã chuyển khoản cho bị đơn. Phía bị đơn xác nhận đã nhận được tiền vào các thời điểm nguyên đơn trình bày nên thời điểm tính lãi được tính bắt đầu từ ngày thứ 3 kể từ ngày nguyên đơn chuyển tiền trên trên từng số tiền đã chuyển. Đối với số tiền 300.000.000 đồng nguyên đơn chuyển tiền ngày 30/7/2019 nhưng nguyên đơn tính lãi từ ngày 29/8/2019 là có lợi cho bị đơn nên HĐXX chấp nhận.

Về số tiền tính lãi: Nguyên đơn tính lãi trên số tiền của từng đợt chuyển tiền thanh toán cho bị đơn. Riêng đối với số tiền 300.000.000 đồng, nguyên đơn chỉ tính lãi trên số tiền 150.000.000 đồng. Do đó, việc bị đơn vi phạm nghĩa vụ giao hàng trên số tiền nguyên đơn đã chuyển là 630.000.000 đồng nhưng nguyên đơn chỉ tính lãi trên số tiền 480.000.000 đồng là có lợi cho bị đơn nên HĐXX chấp nhận.

Toà án tuyên: 1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn – Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Dịch vụ A.

1.1. Công ty Trách nhiệm hữu hạn K có trách nhiệm thanh toán cho Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Dịch vụ A số tiền gốc 630.000.000 đồng (Sáu trăm ba mươi triệu đồng) và tiền lãi 137.132.258 đồng (Một trăm ba mươi bảy triệu một trăm ba mươi hai ngàn hai trăm năm mươi tám đồng). Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

1.2. Kể từ ngày Công ty Trách nhiệm hữu hạn Đầu tư Thương mại Dịch vụ A có đơn yêu cầu thi hành án nếu Công ty Trách nhiệm hữu hạn K chưa thi hành khoản tiền  nêu trên thì Công ty Trách nhiệm hữu hạn K phải chịu thêm tiền lãi trên số tiền còn  phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm  thanh toán tương ứng với thời gian chậm trả.

10-16

Bản án số: 39/2022/KDTM-PT ngày 25/3/2022 TAND thành phố Hà Nội về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”

Nội dung: Công ty TNHH VT (sau đây gọi tắt là Công ty VT- nguyên đơn) và Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B (sau đây gọi tắt là Thẩm mỹ B- bị đơn) có ký kết các hợp đồng mua bán hàng hóa số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018. Đối tượng của Hợp đồng là: Máy chụp cắt lớp 3 trong 1 (Sử dụng cho phòng nha B), Model: PHT-65 LHS Brand name: Green 16; Xuất xứ: VT K; số lượng 01 máy; Giá: 1.704.750.000 đồng; giá này báo gồm cả 5% VAT và bao gồm chi phí vận chuyển, bảo hành. Theo thỏa thuận trong hợp đồng Thẩm mỹ B có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty VT làm 03 đợt:

– Đợt 1: Đặt cọc 340.950.000 đồng vào ngày ký hợp đồng (ngày 10/02/2018)

– Đợt 2: Thanh toán 511.425.000 đồng khi Công ty VT lắp đặt và bàn giao

– Đợt 3: Thanh toán 852.375.000 đồng trong vòng 18 tháng kể từ ngày bàn giao thiết bị.

Thẩm mỹ B vẫn chưa thanh toán đợt 3 cho Công ty VT. Trong quá trình sử dụng thì bác sỹ chuyên môn của phòng Nha B (thuộc thẩm mỹ viện B) mới đưa  máy chụp cắt lớp 3 trong 1; Model PHT-65 LHS vào kiểm tra để tiến hành hoạt  động thì mới phát hiện phía Công ty VT đã giao cho Thẩm mỹ viện B không đúng mặt hàng  mà hai bên đã thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán, cụ thể: Đầu máy: ghi nhãn hiệu Product name: X- RAY GENERATOR  MODEl: DG 07-07 E 22 T2 Date: 2017-10 ; Thân máy: ghi nhãn hiệu Green 16; Xuất xứ: VT – HÀN QUỐC.  Product: Computed Tomography X-ray Sytem

Thẩm mỹ viện B nghi ngờ và cho rằng: VT đã giao máy không đồng bộ, sai mẫu mã. Vi phạm Điều 1 và điểm b – Điều 3 của Hợp đồng là “Đảm bảo cung cấp hàng mới 100%, đúng mẫu mã, số lượng và chất lượng”, không cung cấp đầy đủ chứng từ chứng nhận xuất xứ và kiểm tra chất lượng, hóa đơn trong vòng 01 tháng sau khi giao thiết bị theo như thỏa thuận trong Hợp đồng mua bán.

Công ty VT yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hộ kinh doanh thẩm mỹ B phải trả cho Công ty VT số tiền chưa thanh toán theo Hợp đồng mua bán số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018 là: 852.375.000 đồng. Ngoài ra yêu cầu Thẩm mỹ viện B phải trả tiền lãi do chậm thanh toán kể từ ngày 12/12/2019 (Thời điểm bị đơn phải thanh toán số  tiền còn lại cho nguyên đơn) tạm tính đến ngày xét xử sơ thẩm (ngày  18/10/2021). Nguyên đơn có thay đổi về căn cứ tính lãi suất như sau:

852.375.000 đồng x3,41% (Mức lãi suất công bố trên Website của ngân hàng) /tháng x 22 tháng = 647.576.500 đồng.

Như vậy tổng cả gốc và lãi là: 852.375.000 đồng + 647.576.500 đồng = 1.489.951.500 đồng.

Thẩm mỹ viện B cho rằng Công ty VT đã vi phạm nghĩa vụ Hợp đồng nên đề nghị tính lãi đối với số tiền đã thanh toán cho VT theo quy định tại Điều 3 của Hợp đồng mua bán. Căn cứ tính lãi cũng theo như cách tính của nguyên đơn là theo mức lãi suất cho vay quá hạn của Ngân hàng Vietcombank tại thời điểm Tòa án xét xử sơ thẩm.

Công ty VT cho rằng Tòa án thụ lý quan hệ: “Tranh chấp Hợp đồng mua bán hàng hóa” là không đúng, vì nội dung khởi kiện của nguyên đơn là “Đòi nợ” do bị đơn đã có 2 văn bản xác nhận với nguyên đơn là còn nợ số tiền 852.375.000 đồng

Toà cấp sơ thẩm tuyên:

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH VT đối với Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B về yêu cầu thanh toán tiền theo Hợp đồng mua bán số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018 giữa Công ty TNHH VT và Hộ kinh  doanh thẩm mỹ quốc tế B .

2. Tuyên Hợp đồng mua bán số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018 giữa Công ty TNHH VT và Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B vô hiệu.

3. Buộc Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B phải trả lại cho Công ty TNHH VT: 01 máy chụp cắt lớp 3 trong 1; Model PHT-65 LHS, hiệu Green 16, Xuất xứ:  VT – HÀN QUỐC, hiện đang lắp đặt tại trụ sở chính của Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B: Tầng 5 – 6 nhà số 463 KM, phường NK, quận BĐ , thành phố Hà Nội.  4. Buộc Công ty TNHH VT phải thanh toán trả cho Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B số tiền hàng mà Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B đã thanh toán trả cho Công ty TNHH VT là: 852.375.000 đồng (Tám trăm năm mươi hai nghìn ba trăm bảy năm đồng) và tiền bồi thường thiệt hại là: 283.414.688 đồng (Hai trăm tám mươi ba triệu bốn trăm mười bốn nghìn sáu trăm tám tám đồng). Tổng cộng là 1.135.789.688 đồng (Một tỷ một trăm ba mươi năm triệu bảy trăm tám chín nghìn sáu trăm tám tám đồng).

Nhận định của toà cấp phúc thẩm:

Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp: Tranh chấp giữa các đương sự là tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa. Bị đơn là Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B có trụ sở tại: Số 463 KM, quận BĐ, Hà Nội. Căn cứ khoản 1 điều 30, điểm b khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự thì Tòa án nhân dân quận BĐ thụ lý và giải quyết sơ thẩm là đúng thẩm quyền.

Về nội dung: Tại các cấp Tòa án, các bên đều xác nhận có ký kết hợp đồng mua bán số 2018 ngày 10/2/2018. Thấy rằng, hợp đồng mua bán này đều do người có thẩm quyền của các bên ký kết, việc ký kết là tự nguyện, mục đích và nội dung không vi phạm điều cấm, hình thức, nội dung phù hợp quy định của  pháp luật, như vậy giao dịch này có đủ các điều kiện quy định tại điều 117 Bộ luật  dân sự năm 2015 nên hợp đồng mua bán này có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên hợp đồng mua bán vô hiệu là không đúng.

Công ty đã giao giấy tờ về hàng hóa cho Thẩm mỹ B nhưng việc giao không được lập bằng văn bản mà thẩm mỹ B không công nhận nên không có căn cứ xác định là Công ty VT đã giao giấy tờ về hàng hóa cho Thẩm mỹ B theo quy định trong hợp đồng mua bán.

Như vậy, đối chiếu với hợp đồng mua bán các bên đã ký kết có căn cứ để khẳng định đối tượng hàng hóa trong hợp đồng mua bán và hàng hóa (máy chụp cắt lớp) mà Công ty VT giao cho Thẩm mỹ viện B là không đồng nhất. Việc bên bán máy là bên soạn thảo hợp đồng mua bán đối với các nội dung không rõ ràng, khi xảy ra tranh chấp đã giải thích theo hướng có lợi cho mình là trái khoản 6 điều 404 Bộ luật tố tụng dân sự nên không được chấp nhận.

Toà cấp phúc thẩm tuyên: Sửa Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 65/2021/KDTM-ST ngày 18/10/2021 của Tòa án nhân dân quận BĐ và quyết định như sau: 

1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH VT về việc yêu cầu Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B phải thanh toán tiền còn thiếu theo Hợp đồng mua bán số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018 giữa Công ty TNHH VT và Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B.

2. Hủy bỏ toàn bộ hợp đồng mua bán số 2018/VVN-04/HĐMB ngày 10/02/2018 giữa Công ty TNHH VT và Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B do Công ty TNHH VT vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng.

3. Buộc Công ty TNHH VT phải trả lại cho Hộ kinh doanh thẩm mỹ quốc tế B số tiền 852.375.000 đồng (Tám trăm năm mươi hai nghìn ba trăm bảy năm đồng) và tiền bồi thường thiệt hại là: 283.414.688 đồng (Hai trăm tám mươi ba triệu bốn trăm mười bốn nghìn sáu trăm tám tám đồng). Tổng cộng là 1.135.789.688 đồng (Một tỷ một trăm ba mươi năm triệu bảy trăm tám chín nghìn sáu trăm tám tám đồng).

17-34

Bản án số: 06/2017/KDTM-PT ngày 06 tháng 6 năm 2017 TAND tỉnh Tiền Giang về “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá”

Nội dung: Nguyên đơn anh Phạm Minh T và Bị đơn là Công ty trách nhiệm hữu hạn ST (Công ty ST- do Cao Minh V làm giám đốc, bà Nguyễn Thị Thanh V là thành viên góp vốn và chị Bùi Thị Thanh M là kế toán trưởng) thường xuyên thực hiện các giao dịch mua bán gạo với phương thức anh T giao gạo trước Công ty ST thanh toán sau. Trong năm 2013, anh có nhiều lần bán gạo cho Công ty TNHH ST và công ty trả tiền từng đợt. Đến ngày 07/11/2013 Công ty TNHH ST còn nợ anh số tiền là 7.479.825.000 đồng, sau đó công ty có trả một đợt tính đến ngày 22/4/2014 thì  số tiền còn nợ lại là 7.069.000.000 đồng và sau đó công ty tiếp tục trả đến ngày  24/6/2016 còn nợ lại anh số tiền là 6.459.000.000 đồng có giấy xác nhận nợ của  Bùi Thị Thanh M là kế toán trưởng của công ty. Anh T yêu cầu Công ty TNHH ST, bà Nguyễn Thị Thanh V và chị Bùi Thị Thanh M có nghĩa vụ liên đới trả cho anh số tiền là 6.459.000.000 đồng và yêu cầu tính lãi từ ngày 22/7/2016 đến ngày xét xử theo mức lãi suất 2%/tháng, yêu cầu trả ngay khi án có hiệu lực pháp luật.

Bị đơn trình bày: Năm 2013 công ty ông, bà có mua bán gạo với anh Pham Minh T. Công ty ông, bà chỉ mua bán vài chuyến hàng, việc mua bán đã thanh toán xong trong năm 2013 hai bên không nợ nần gì nhau. Việc mua bán hai bên có hóa đơn chứng từ như giấy nhập và xuất hóa đơn trả tiền nhưng việc mua bán xong nên công ty không còn lưu giữ. Việc anh T cho rằng công ty ông, bà còn thiếu tiền gạo ông, bà không đồng ý vì anh T không xuất trình được giấy nhập hàng và các giấy nợ tiền gạo hợp pháp do giám đốc công ty ký cũng không có tài liệu xác định số lượng gạo, giá gạo từng chuyến là bao nhiêu. Các giấy ghi nợ tiền chị Bùi Thị Thanh M ký mà anh T xuất trình cho rằng Công ty TNHH ST nợ, ông, bà không đồng ý vì các biên nhận, xác nhận không thể hiện là khoản nợ gạo, chị M không phải là người đại diện theo pháp luật của công ty và cũng không được công ty ủy quyền ký nhận nợ, không có biên nhận nào do đại diện hợp pháp của công ty ký và không có dấu của công ty, thực tế chị M đã nghỉ việc ở công ty từ ngày 01/9/2013 và làm tự do ở ngoài.

Toà cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của anh Phạm Minh T.

– Không chấp nhận yêu cầu của anh T yêu cầu Công ty TNHH ST, đại diện là ông Cao Minh V cùng bà Nguyễn Thị Thanh V, chị Bùi Thị Thanh M có nghĩa vụ liên đới trả số tiền là 6.459.000.000 đồng.

– Buộc chị Bùi Thị Thanh M có nghĩa vụ trả cho anh T số tiền là 6.459.000.000 đồng, thời gian thực hiện trả khi án có hiệu lực pháp luật.

Toà cấp phúc thẩm nhận định:

– Đối với chị M cho rằng thời gian chị M viết các tờ giấy đối chiếu công nợ cho anh T thì chị không còn làm việc tại Công ty TNHH ST là không có cơ sở để chấp nhận. Bị đơn là Công ty TNHH ST cùng chị M cho rằng chị M đã nghỉ làm kế toán từ tháng  8 năm 2013, đồng thời chứng minh bằng quyết định cho thôi việc số 01/QĐ ngày  15/8/2013 của Giám đốc Công ty TNHH ST. Căn cứ vào các chứng  cứ tài liệu thu thập có trong hồ sơ thì thấy rằng quyết định cho thôi việc đối với  chị M chỉ là quyết định mang tính đối phó, nhằm lẫn tránh trách nhiệm trong việc  đối chiếu công nợ đối với ông T. Tại giấy lĩnh tiền mặt ngày 13/3/2015, ngày  17/3/2015, ngày 19/3/2015 chị M đã ký tên giao dịch với  chức danh kế toán trưởng và người lĩnh tiền để giao dịch rút tiền tại Ngân hàng  MB với số tiền lần lượt là 15.300.000.000đồng, 11.650.000.000đồng và  2.230.000.000 đồng. Từ ngày 01/6/2016 đến ngày 03/8/2016 chị M có 34 lần đến giao dịch tại ngân hàng BIDV chi nhánh Tiền Giang để giao dịch rút tiền cho Công ty TNHH ST với tổng số tiền 135.860.000.000đồng, số tiền mỗi lần rút từ 1.000.0000.000đồng đến 13.900.000.000đ. Tất cả các lần rút tiền này đều thể hiện chị M rút từ tài khoản của Công ty TNHH ST. Cho nên, đã có cơ sở xác định chị M vẫn làm nhiệm vụ kế toán tại Công ty TNHH ST cho đến ngày 03/8/2016. Đặc biệt ngày 24/6/2016 chị M cũng đến ngân hàng BIDV chi nhánh Tiền Giang rút tiền cho Công ty TNHH ST với số tiền 3.100.000.000 đồng, ngày rút tiền này trùng khớp với ngày đối chiếu công nợ lần thứ 3 với ông T là ngày 24/6/2016. Như vậy, với vai trò kế toán Công ty TNHH ST thì chị M có quyền đối chiếu công nợ theo qui định tại Điều 5 của Luật kế toán số 03/2003/QH11.

– Riêng việc ông T cho rằng Ông V, bà Vân và chị M liên đới hoàn trả số tiền trên là không phù hợp với luật doanh nghiệp, cụ thể Công ty TNHH SThiện đang còn hoạt động thì Công Ty này phải chịu trách nhiệm thanh toán. Tại phiên tòa phúc thẩm chị H là người đại diện theo ủy quyền của Công ty TNHH ST thừa nhận vào khoảng đầu năm 2013 có giao dịch mua bán gạo với ông T vài chuyến, có hợp đồng mua bán cụ thể nhưng đã thanh toán xong, nay Công ty TNHH ST không còn lưu giữ chứng từ. Xét thấy lời khai nại của chị H là không có căn cứ, bởi lẽ việc lưu trữ các hợp đồng, hóa đơn nhập xuất hàng là qui định bắt buộc của chế độ kế toán, việc mua bán phát sinh từ năm 2013 đến nay mà không còn lưu trữ là không đúng qui định về nghiệp vụ kế toán. Từ căn cứ phân tích và nhận định trên, Hội đồng xét xử chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông T và sửa bản án sơ thẩm, buộc Công ty TNHH ST phải có trách nhiệm trả cho ông T số tiền 6.459.000.000đồng.

– Xét yêu cầu kháng cáo của chị M về việc đề nghị Tòa án bác yêu cầu khởi kiện của ông T. Hội đồng xét xử thấy rằng, chị M không có mua bán gạo với tư cách cá nhân đối với ông T. Ông T cũng khẳng định không có giao dịch dân sự  (cho mượn tiền) không yêu cầu cá nhân chị M trả nợ . Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của chị M, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không buộc chị M chịu trách nhiệm cá nhân cho ông T số tiền 6.459.000.000 đồng.

Toà cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của ông Phạm Minh T và yêu cầu kháng cáo của chị Bùi Thị Thanh M:

1. Buộc Công ty trách nhiệm hữu hạn ST, địa chỉ: Ấp Đ, Xã S, Huyện C, tỉnh T phải trả cho ông Phạm Minh T số tiền 6.459.000.000đồng (sáu tỉ bốn trăm năm mươi chín triệu đồng).

2. Không chấp nhận yêu cầu của ông T đòi ông Cao Minh V, bà Nguyễn Thị Thanh V và chị Bùi Thị Thanh M liên đới hoàn trả số tiền này. Kể từ ngày Ông T có đơn yêu cầu thi hành án, nếu Công ty TNHH ST chậm thi hành khoản tiền trên thì phải trả lãi theo qui định tại điều 357 của Bộ luật dân sự đối với số tiền và thời gian chậm thi Hnh án.

3Các quyết định khác của bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm về phần  yêu cầu tính lãi 2% không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm có  hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.

35-44

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN TRANH CHẤP VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HOÁ

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan