Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 14 Bản án áp dụng án lệ số 16/2017/AL để giải quyết tranh chấp

Tổng hợp 14 Bản án áp dụng án lệ số 16/2017/AL để giải quyết tranh chấp

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 14 Bản án áp dụng án lệ số 16/2017/AL để giải quyết tranh chấp” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 14 Bản án áp dụng án lệ số 16/2017/AL để giải quyết tranh chấp

STT

NỘI DUNG

SỐ TRANG

1

Bản án số: 01/2018/DS-ST ngày 12/01/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu

Về: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và chia thừa kế

Nội dung vụ án:

Cha ông là cụ Hà Văn U (chết năm 2013) và cụ Lê Thị Q (chết năm 2010) có 08 người con: ông Hà Hữu T, Hà Văn N (chết năm 2005), Hà Văn B1, Hà Văn V, Hà Lệ T, Hà Hoàng V, Hà Văn M (chết năm 1972) và Hà Tất L. Cụ U và bà Q tạo lập được khối tài sản chung là đất nông nghiệp có diện tích 11.741,05m2, tờ bản đồ số 04, thửa 38-39 tọa lạc tại ấp C, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Ngày 24/03/2011 cha ông chuyển nhượng toàn bộ diện tích trên cho ông Hà Văn B, nhưng không có sự đồng ý của tất cả các người con của cụ U. Mặt khác cụ U cũng không có quyền tự quyết định đối với tài sản chung vợ chồng với bà Q. Do đó, ông yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ U và ông B và yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông B và bà T.

Đối với ½ tài sản là tài sản của bà Q do ông B nhận chuyển nhượng trái quy định pháp luật nên ông yêu cầu được nhận lại đất và không đồng ý bồi thường, còn đối với ½ tài sản thuộc quyền sở hữu của cụ U, thì ông đồng ý trả lại đúng số tiền mà ông B nhận chuyển nhượng từ cụ U. Đối với tài sản là phần đất nông nghiệp có diện tích 11.741,05m2, tờ bản đồ số 04, thửa 38-39 tọa lạc tại ấp C, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu ông yêu cầu chia thừa kế cho các con của cụ U và bà Q.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

Thực tế, diện tích đất 11.660,61m2 là tài sản chung của cụ U và cụ Q, cụ Q chết năm 2010, theo quy định pháp luật cụ U chỉ có quyền định đoạt 50% khối tài sản chung, còn 50% tài sản của cụ Q nhưng hợp đồng chuyển nhượng chỉ có cụ U ký tên là chưa đúng quy định pháp luật. Xét về lỗi thì cụ U phải chịu 80%, ông B chịu 20% thiệt hại khi hợp đồng bị hủy.

Tại án lệ số 16/2017/AL (do ngày 15/01/2018 mới có hiệu lực) về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng, nhận thấy việc cụ U chuyển nhượng toàn bộ diện tích đất tranh chấp hiện nay là khối tài sản chung vợ chồng giữa cụ U và cụ Q cho ông B là vi phạm quy định pháp luật thì các con của cụ U biết việc chuyển nhượng đất giữa cụ U và ông B nhưng không có ý kiến gì và cũng không phản đối, ông B được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với phần đất nhận chuyển nhượng từ năm 2011 đến năm 2016 không phát sinh tranh chấp. Vì vậy có cơ sở xác định các con của cụ U và cụ Q đã đồng ý để cụ U chuyển nhượng diện tích 11.741,05m2 nêu trên cho ông B, nên không có căn cứ chấp nhận yêu cầu của ông T, ông L hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa cụ U với ông B.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Hà Hữu T, Hà Tất L yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Hà Văn U với ông Hà Văn B và chia thừa kế đối với diện tích 5.830,3m2.

Không chấp nhận yêu cầu của ông T yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông B và bà T diện tích 5.830,3m2.

Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kện của ông Hà Hữu T, Hà Tất L đối với diện tích 5.830,3m2 + 80,44 m2 (diện tích hai ngôi mộ).

01 – 07

2.

Bản án số: 475/2018/DS-PT ngày 14/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về: Tranh chấp quyền sử dụng đất

Nội dung vụ án:

Bà Nguyễn Thị Nh được Ủy ban nhân dân huyện B cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vào sổ số 243/QSDĐ ngày 29/4/1995 chung cho hộ gia đình, gồm các thửa 511, 585, 608, 606, 605, 607, 610, 600, 513, 609, 603 tờ bản đồ số 04, và thửa 60 tờ bản đồ số 03, tổng diện tích 15.697m2, thuộc bộ địa chính thị trấn T theo Quyết định số 140/QĐ-UB ngày 19/4/1995 của Ủy ban nhân dân huyện B, cấp đổi Giấy chứng nhận mới ngày 14/01/2000.

Năm 2001, bà Nguyễn Thị Nh chuyển nhượng cho con là bà Lê Thị M một phần thửa 610 tờ bản đồ số 04, diện tích 2.734m2 theo hợp đồng chuyển nhượng số 62/CN được Ủy ban nhân dân thị trấn T xác nhận ngày 04 tháng 6 năm 2001. Ngày 01/8/2001, Ủy ban nhân dân huyện B đã cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, vào sổ số 1422/QSDĐ cho bà Mười, diện tích 2.734m2, bà M đã sử dụng ổn định, nộp thuế đầy đủ từ khi nhận chuyển nhượng đến nay.

Năm 2014, ông Lê Văn B (anh ruột của bà M) và vợ là Huỳnh Ngọc T đã chiếm dụng khoảng 1.000m2 để canh tác. Bà M đã nhiều lần yêu cầu ông B, bà T trả lại diện tích đất nêu trên nhưng ông B, bà T không trả, sự việc đã được Uỷ ban nhân dân thị trấn T hòa giải nhưng không thành.

Căn cứ bản đồ hiện trạng vị trí do Công ty TNHH Đo đạc Thiết kế Xây dựng Dịch vụ Bất động sản HL lập ngày 02/10/2014 thì diện tích đất ông Lê Văn B lấn chiếm của bà M là 1.087,7m2 để trồng lúa.

Bà Lê Thị M yêu cầu ông Lê Văn B, bà Huỳnh Ngọc T trả diện tích đất lấn chiếm 1.087,7m2 thuộc thửa 1016 (phân chiết từ thửa 610), tờ bản đồ số 04, mục đích sử dụng 2L tại khu phố 3, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Buộc ông Lê Văn B, bà Huỳnh Ngọc T trả lại cho bà Lê Thị M phần đất diện tích 1.087,7m2 thuộc thửa 1016-1 (khu A), tờ bản đồ số 04, khu phố 3, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Buộc ông Lê Văn B hoàn lại cho bà Lê Thị M 6.172.020 đồng tiền chi phí đo vẽ, định giá ngay sau khi án có hiệu lực pháp luật.

Ngày 10/02/2015, ông Lê Văn B kháng cáo không đồng ý trả lại đất cho bà Lê Thị M vì cho rằng phần đất ông đang sử dụng là do được Nhà nước giao năm 1983 theo tiêu chuẩn cho người thờ cúng liệt sĩ là 1.000m2. Năm 1983, mẹ ông (bà Nh) gặp khó khăn nên ông để mẹ ông canh tác trên phần đất này.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Phần đất ông đang sử dụng là do được Nhà nước giao cho ông năm 1983 theo tiêu chuẩn người thờ cúng liệt sĩ 1.000m2. Năm 1983, bà Nh (mẹ ông B) gặp khó khăn nên ông B để cho bà Nh canh tác trên phần đất này. Theo bản đồ hiện trạng Công ty TNHH Xây dựng dịch vụ bất động sản HL lập ngày 02/10/2014 thì phần đất tranh chấp do ông B đang sử dụng có diện tích 1.087,7m2 thuộc thửa 1016 (phần chiết thửa 610), tờ bản đồ số 4, thị trấn T, huyện B. Theo tài liệu do Ủy ban nhân dân huyện B cung cấp, trình bày của bà Lê Thị M và bà Nguyễn Thị Nh cho thấy phần đất ông B đang sử dụng thuộc một phần trong diện tích 2.734m2 do bà Nguyễn Thị Nh chuyển nhượng cho bà Lê Thị M theo Hợp đồng chuyển nhượng số 62/CN được Ủy ban nhân dân thị trấn T xác nhận ngày 04 tháng 6 năm 2001. Ngày 01/8/2001, Ủy ban nhân dân huyện B đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất 1422/QSDĐ cho bà Lê Thị M. Diện tích đất tranh chấp có nguồn gốc thuộc một phần trong 15.697m2 do Ủy ban nhân dân huyện B cấp cho hộ bà Nh theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 243/QSDĐ theo Quyết định số 140/QĐ-UB ngày 19/4/1995. Như vậy, ông B không chứng minh được diện tích đất ông đang sử dụng là do được giao theo tiêu chuẩn người cúng liệt sĩ.

Tại thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà Nguyễn Thị Nh có 09 nhân khẩu, trong đó có 05 người trong độ tuổi lao động, gồm: Bà Nguyễn Thị Nh, ông Lê Văn Ch, bà Lê Thị M, ông Lê Văn B và bà Huỳnh Ngọc T. Nếu phân chia theo nhân khẩu lao động thì mỗi người được sử dụng 3.664m2. Như vậy diện tích đất bà Nh chuyển nhượng cho bà M 2.734m2 là trong giới hạn diện tích đất bà Nh và bà M được sử dụng. Mặt khác, khi bà Nh chuyển nhượng cho bà M được Ủy ban nhân dân thị trấn T xác nhận ngày 04 tháng 6 năm 2001. Ngày 01/8/2001, Ủy ban nhân dân huyện B đã cấp giấy chứng nhận cho bà Lê Thị M. Từ khi chuyển nhượng đến khi bà M được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất các thành viên trong hộ đều biết nhưng không có ý kiến phản đối hay khiếu nại. Căn cứ Án lệ số 16/2017/AL ngày 14/12/2017 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân tối cao, không chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn B.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Sửa một phần Bản án dân sự sơ thẩm số 15/2015/DSST ngày 04/02/2015 của Tòa án nhân dân huyện B về án phí.

Buộc ông Lê Văn B, bà Huỳnh Ngọc T phải trả cho bà Lê Thị M diện tích đất 1.087,7m2 thuộc thửa 1016-1 (khu A), tờ bản đồ số 4, khu phố 3, thị trấn T, huyện B, Thành phố Hồ Chí Minh.

08 – 14

3.

Bản án số: 71/2018/DS-PT ngày 14/08/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu

Về: Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Nội dung vụ án:

Vào năm 2015, ông Lê Minh Đ (Lê Văn Đ) có chuyển nhượng cho ông Thái Văn T1 14 công đất nuôi trồng thủy sản với giá 410.000.000 đồng, đất tọa lạc tại ấp G, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu, khi chuyển nhượng có làm giấy tay và có ông Lê Công T2 là Trưởng ấp G, xã V chứng kiến. Ông Đ chuyển nhượng quyền sử dụng đất mà không có sự đồng ý của bà T và chị A, riêng chị A không biết gì về việc chuyển nhượng. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho hộ ông Đ vào năm 1999 và hộ ông Đ chỉ có bà T và chị A. Nay, bà T và chị A yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ và ông T1, bà T đồng ý trả lại cho ông T1 số tiền 200.000.000 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ong Thị Thanh T và chị Lê Thị Ngọc A khởi kiện đối với ông Thái Văn T1 đòi hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Minh Đ và ông Thái Văn T1 với diện tích 16.514m2, đất tọa lạc tại ấp G, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

Ngày 07/6/2018, bà Ong Thị Thanh T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm: Hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Thái Văn T1 và ông Lê Minh Đ, buộc ông T1 và bà Nguyễn Thị Thu H trả lại diện tích đất cho bà T và chị A.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Bà T cho rằng bà và ông Đ chung sống vợ chồng từ năm 1995 đến khi ông Đ chết. Tuy nhiên, tại giấy chứng nhận kết hôn thể hiện bà T và ông Đ kết hôn vào ngày 26/12/2002 tại Ủy ban nhân dân Phường 2, thành phố Bạc Liêu. Trong khi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được cấp vào ngày 15/5/1999. Như vậy, hộ ông Đ được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trước khi ông Đ kết hôn với bà T. Tại Công văn số 18/CATP ngày 09/02/2018 của Công an thành phố Bạc Liêu xác nhận hộ ông Đ vào thời điểm năm 1999, gồm: Lê Văn M, Trịnh Thị T, Lê Văn T2, Lê Thị P, Lê Văn N, Lê Thị M, Lê Kim L, Lê Văn Đ. Thời điểm cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1999 thì hộ ông Đ không có bà T và chị A. Mặt khác, nguyên đơn bà T, chị A và người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn bà Thoại xác định nguồn gốc đất là của cha mẹ ông Đ, quá trình bà T chung sống với ông Đ không tạo lập được tài sản. Đối với bà Lê Thị P, Lê Kim L có ý kiến thống nhất với sự thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Đ và ông T1. Xét thấy, sự thỏa thuận chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên phù hợp với Án lệ số 16/2017/AL ngày 14/12/2017 có hiệu lực ngày 15/01/2018 về công nhận hợp đồng chuyển nhượng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Ngoài ra, bà Ong Thị Thanh T không còn chứng cứ chứng minh diện tích đất nêu trên là tài sản chung của hộ gia đình bà.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Ong Thị Thanh T và chị Lê Thị Ngọc A khởi kiện đối với ông Thái Văn T1 yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Minh Đ và ông Thái Văn T1 với diện tích 16.514m2, đất tọa lạc tại ấp G, xã V, huyện H, tỉnh Bạc Liêu.

15 – 20

4.

Bản án số: 72/2018/DS-PT ngày 15/08/20218 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu

Về: Tranh chấp về thừa kế tài sản

Nội dung vụ án:

Cha mẹ bà là ông Võ Văn L và bà Trần Thị T chung sống có 04 người con chung gồm bà Võ Thị A, ông Võ Văn H, bà Võ Thị T1 và bà Võ Thị T. Ngoài ra, bà Trần Thị T còn có 03 người con riêng gồm ông Nguyễn Văn G (Nguyễn Văn H), ông Nguyễn Văn K (đã chết vào lúc 07 tuổi) và ông Nguyễn Văn P. Ông Võ Văn L chết vào ngày 12/3/1992 (âm lịch) và bà Trần Thị T chết vào ngày 19/8/2011 (âm lịch), đều không để lại di chúc. Di sản cha mẹ bà để lại gồm: Diện tích đất trồng lúa tại thửa số 239, tờ bản đồ số 02 có diện tích 10.670m2 và tại thửa 231, tờ bản đồ số 02 có diện tích 2.880m2; diện tích đất lập vườn và thổ cư tại thửa 235, tờ bản đồ số 02 có diện tích 2.360m2. Đất tọa lạc tại ấp B, xã C, huyện V, tỉnh Bạc Liêu do ông Võ Văn L đứng tên tại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Từ khi ông Võ Văn L và bà Trần Thị T chết đến nay, các tài sản nêu trên vẫn chưa được phân chia. Hiện tại do ông Võ Văn H quản lý, sử dụng phần đất trồng lúa tại thửa 239 và ông Nguyễn Văn T2, bà Nguyễn Thị C quản lý, sử dụng phần đất trồng lúa tại thửa 231; còn phần đất thổ cư và lập vườn tại thửa 235, tờ bản đồ số 02, hiện nay bà T đang quản lý, sử dụng.

Nay bà Võ Thị T yêu cầu chia thừa kế tất cả các tài sản nêu trên của ông Võ Văn L và bà Trần Thị T để lại theo quy định pháp luật nhưng bà T không đồng ý chia diện tích 500m2 đất thổ cư và yêu cầu được nhận phần đất lập vườn do gia đình bà T đã sinh sống ổn định trên phần đất này 20 năm nay.

Đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của ông Nguyễn Văn P (đã chết), bà Võ Thị T giữ nguyên yêu cầu độc lập của ông Trần Văn C và ông Nguyễn Văn P về việc yêu cầu chia thừa kế đối với di sản do ông Võ Văn L và bà Trần Thị T để lại và đồng ý nhận di sản thừa kế theo yêu cầu của ông Nguyễn Văn P đã trình bày khi còn sống.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị T (Út T) đối với ông Võ Văn H về vỉệc thừa kế tài sản của ông Võ Văn L và bà Trần Thị T.

Không chấp nhận yêu cầu phản tố của ông Võ Văn H và bà Châu Phụng K về việc công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị T với ông Võ Văn H và bà Châu Phụng K đối với diện tích 9.024,9m2 đất trồng lúa tại thửa 239, tờ bản đồ số 02 (nay là thửa 586, tờ bản đồ số 03 theo bản đồ giải thửa năm 1997). Đồng thời tuyên hủy giao dịch trên.

Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị C về việc công nhận giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị T với ông Nguyễn Văn T và bà Nguyễn Thị C đối với diện tích 2.800m2 đất trồng lúa (theo đo đạc thực tế) tại thửa 231, tờ bản đồ số 02 (nay là thửa 481, tờ bản đồ số 03 theo bản đồ giải thửa năm 1997). Đồng thời tuyên hủy giao dịch trên.

Chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Nguyễn Thanh P về việc thừa kế tài sản của bà Trần Thị T.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Xét hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Trần Thị T với ông H, bà K và ông T2, bà C không đúng về hình thức và nội dung theo quy định tại Điều 691 Bộ luật Dân sự năm 1995, nhưng các đồng thừa kế của bà Trần Thị T bao gồm: Ông H, bà A, bà T1, bà T, ông Nguyễn Văn H, ông P đều biết việc ông T2, bà C sử dụng phần đất nhận chuyển nhượng từ bà Trần Thị T từ năm 1994 và ông H, bà K sử dụng từ năm 1995 nhưng không ai ngăn cản hay tranh chấp gì nên theo nội dung Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Trong vụ án này, do ông H, ông T2 chưa thực hiện các thủ tục chuyển quyền để được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên toàn bộ hợp đồng chuyển nhượng không được công nhận. Tuy nhiên, theo như nội dung Án lệ nêu trên thì bà Trần Thị T có quyền định đoạt phần tài sản của mình để thực hiện giao dịch chuyển nhượng với ông T2, ông H và vẫn được công nhận.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần kháng cáo của nguyên đơn bà Võ Thị T, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị C, ông Nguyễn Văn T2. Sửa một phần bản án dân sự sơ thẩm.

Đình chỉ một phần kháng cáo của bà Võ Thị T đối với nội dung không đồng ý chia thừa kế cho ông Nguyễn Văn H.

21 – 36

5.

Bản án số: 41/2019/DS-PT ngày 12/06/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận

Về: Tranh chấp về thừa kế tài sản

Nội dung vụ án:

Cha bà tên Lê Tấn Th (chết năm 1969), mẹ tên Trần Thị Đ (chết năm 2008). Cha mẹ bà sinh được 8 người con gồm: Lê Thị H, Lê Thị T, Lê Văn C, Lê Văn Đ, Lê Văn L, Lê Văn Đ1, Lê Văn H và Lê Thị U.

Cha mẹ bà chết có để lại khối di sản gồm: 5.000m2 ở thửa số 176 đất trồng cây lâu năm ở khu phố 3, phưòng Hàm Tiến, thành phố Phan Thiết hiện do ông Lê Văn C đang quản lý. Lúc còn là đất của cha mẹ thì đất này là đất trồng cây, không có nhà, đến khi ông C quản lý thì ông C cho vợ chồng cháu Nh + Tr (con ông C) cất nhà ở. Hiện nay trên phần đất này có căn nhà của vợ chồng ông Lê Văn Nh. Ngoài ra cha mẹ bà còn để lại một số tài sản gồm: Thửa đất số 120 diện tích 200m2 trên đất có 01 căn nhà tự (nhà cấp 4) hiện do bà H và ông H đang ở, thửa đất số 121 diện tích 400m2 và thửa đất số 122 diện tích 600m2 (đã chuyển nhượng cho người khác, bà không tranh chấp).

Khi làm đơn khởi kiện bà chưa kê thửa đất số 119 diện tích 160m2, hiện nay ông Lê Văn Đ đã cất nhà ở và đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do trước đây bà nghĩ thửa đất này nằm trong 02 thửa đất số 120 và số 121, nhưng sau đó bà phát hiện thửa đất 119 nằm riêng biệt nên bà làm đơn khởi kiện bổ sung.

Nay bà khởi kiện yêu cầu chia tài sản của cha mẹ để lại gồm: Thửa diện tích 160m2 do ông Lê Văn Đ đang quản lý sử dụng, thửa đất số 120 diện tích 200m2 trên đất có 01 căn nhà tự do bà Lê Thị H và ông Lê Văn H đang quản lý sử dụng, thửa đất số 121 diện tích 400m2 (03 thửa đất này hiện tọa lạc tại Khu phố 2, phường Hàm Tiến, thành phố Phan Thiết) và 5.000m2 ở thửa số 176 đất trồng cây lâu năm ở Khu phố 3, phường Hàm Tiến, thành phố Phan Thiết hiện nay gia đình ông Lê Văn C đang quản lý, sử dụng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị U về việc tranh chấp thừa kế về tài sản của ông Lê Tấn Th và bà Trần Thị Đ.

Ngày 12/10/2017, ông Lê Văn C và ông Lê Văn Đ kháng cáo yêu cầu sửa bản án sơ thẩm theo hướng công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 08/10/2002 giữa bà Trần Thị Đ với ông Lê Văn Đ. Bác yêu cầu chia thừa kế của bà Lê Thị U đối với diện tích đất 241m2 và 4.075m2.

Ngày 20/10/2017, ông Lê Văn L và bà Lê Thị T kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét toàn bộ bản án sơ thẩm. Chia thừa kế bằng hiện vật là quyền sử dụng đất.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

Căn cứ Án lệ số 16/2017/AL về công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là di sản thừa kế do một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 14/12/2017 và được công bố theo Quyết định số 299/QĐ-CA ngày 28/12/2017 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao: “Di sản thừa kế là bất động sản đã được một trong các đồng thừa kế chuyển nhượng. Các đồng thừa kế khác biết và không phản đối việc chuyển nhượng đó. Số tiền nhận chuyển nhượng đã được dùng để lo cuộc sống của các đồng thừa kế. Bên nhận chuyển nhượng đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Trường hợp này, Tòa án cấp sơ thẩm phải công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp pháp và diện tích đất 241m2 đã chuyển nhượng không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của bên nhận chuyển nhượng là ông Lê Văn Đ.

Trong hợp đồng chuyển nhượng lập và được chứng thực ngày 08/10/2002 giữa cụ Đ và ông Đ đã được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Ủy ban nhân dân thành phố Phan Thiết xác nhận cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Đ đúng thủ tục, như vậy theo Án lệ số 16/2017/AL nêu trên thì việc bà Đ chuyển nhượng quyền sử dụng đất trong khi đó các đồng thừa kế biết nhưng không có ai phản đối, ngay cả ông Long là người không ký trong văn bản đồng ý cho cụ Đ là một trong đồng thừa kế chuyển nhượng đất nhưng ông Long biết việc bán đất của mẹ và ông không có ý kiến phản đối từ khi chuyển nhượng cho đến khi xảy ra tranh chấp thừa kế thì phải áp dụng án lệ để làm căn cứ công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã chuyển nhượng giữa cụ Đ và ông Đ là hợp pháp và diện tích đất 241m2 được cấp quyền sử dụng đất cho hộ ông Đ không còn trong khối di sản để chia thừa kế mà thuộc quyền sử dụng của hộ ông Lê Văn Đ.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị U về việc tranh chấp thừa kế về tài sản của cụ Lê Tấn Th và cụ Trần Thị Đ.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Lê Thị U về việc tranh chấp thừa kế về tài sản của cụ Lê Tấn Th và cụ Trần Thị Đ.

37 – 50

LINK PDF: Tổng hợp 14 Bản án áp dụng án lệ số 16/2017/AL để giải quyết tranh chấp 

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Phước Ninh, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, quận Thuận Hoá, Thành phố Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan