Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TỔNG HỢP 08 BẢN ÁN XÉT XỬ HÀNH VI SAI PHẠM TRONG ĐẤU THẦU THUỐC, THIẾT BỊ Y TẾ

TỔNG HỢP 08 BẢN ÁN XÉT XỬ HÀNH VI SAI PHẠM TRONG ĐẤU THẦU THUỐC, THIẾT BỊ Y TẾ

FDVN giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 08 BẢN ÁN XÉT XỬ HÀNH VI SAI PHẠM TRONG ĐẤU THẦU THUỐC, THIẾT BỊ Y TẾ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

STT

BẢN ÁN

TRANG

1 Bản án số: 81/2022/HS-ST Ngày 20-9-2022, Tòa án nhân dân tỉnh Lạng Sơn

Nội dung vụ án:

Ngày 05/3/2018 Ủy ban nhân dân tỉnh Lạng Sơn ban hành Quyết định số 423/QĐ-UBND về việc phân bổ và giao bổ sung dự toán chi ngân sách Nhà nước năm 2018 cho Sở A tỉnh Lạng Sơn, kinh phí sự nghiệp y tế khác để mua sắm tập trung trang thiết bị y tế cho các đơn vị sự nghiệp y tế công lập trên địa bàn tỉnh, với tổng số kinh phí là 25.000.000.000 đồng.

Ngày 28/3/2018, Bùi Thị T1 là Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Thiết bị và Công nghệ H tại thành phố Hà Nội đến gặp Nguyễn Thế T là Giám đốc Sở A tỉnh Lạng Sơn để hỏi thông tin về Gói thầu mua sắm trang thiết bị y tế đợt 2 năm 2018 (gọi tắt là Gói thầu đợt 2 năm 2018), đồng thời đề nghị tạo điều kiện giúp Công ty H trúng gói thầu này. Nguyễn Thế T cho Bùi Thị T1 biết số lượng, danh mục thiết bị y tế dự kiến mua sắm, tổng mức đầu tư của gói thầu là 25.000.000.000 đồng và bảo Bùi Thị T1 đến gặp Trần Hoàng L là Trưởng phòng K Sở A tỉnh Lạng Sơn để trao đổi thông tin chi tiết về gói thầu. Sau đó Bùi Thị T1 đã chỉ đạo Trần Khải T là nhân viên Công ty H liên hệ với đại diện các hãng, nhà phân phối trang thiết bị y tế tại Việt Nam để thu thập thông tin về cấu hình, thông số kỹ thuật, giá bán thực tế các mặt hàng và đàm phán cho Công ty H được độc quyền sử dụng các mặt hàng này để chào thầu đối với gói thầu trên trước khi Sở A tỉnh Lạng Sơn ra thông báo mời thầu.

Sau khi có kết quả đàm phán với các nhà cung cấp nói trên, Bùi Thị T1 tạm tính số tiền mua các thiết bị y tế trên khoảng 10.500.000.000 đồng và giao cho Trần Khải T, Nguyễn Văn Đ là nhân viên Công ty H xây dựng 03 bản báo giá, gồm 01 bản báo giá của Công ty H là 24.881.000.000 đồng, 01 bản báo giá 5 của Công ty Cổ phần Thương mại S là 26.378.200.000 đồng, 01 bản báo giá của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Thiết bị y tế T1 là 27.809.000.000 đồng, đồng thời chỉ đạo Trần Khải T, Nguyễn Văn Đ xây dựng cấu hình, thông số kỹ thuật chi tiết của các thiết bị trên gửi qua xe khách cho Trần Hoàng L làm cơ sở xây dựng cấu hình, thông số kỹ thuật các thiết bị trong hồ sơ mời thầu và làm căn cứ thẩm định giá đối với gói thầu này.

Để đủ điều kiện tham gia dự thầu, Công ty H đã liên danh với Công ty T có trụ sở tại đường T, phường T, quận C, thành phố Hà Nội do Nguyễn Hoàng G làm Giám đốc để tham gia dự thầu (gọi là Liên danh H – T2), trong đó Công ty H là thành viên đứng đầu liên danh. Bùi Thị T1 đã chỉ đạo xây dựng giá dự thầu là 23.995.000.000 đồng, sát với giá kế hoạch được phê duyệt, đồng thời để chắc chắn trúng thầu và không có ai cạnh tranh, Bùi Thị T1 đã sử dụng Công ty T2, địa chỉ tại Xóm 1, thôn Đào Xá, xã Đào Dương, huyện Ân Thi, tỉnh Hưng Yên do Mạch Thị T làm Giám đốc (Công ty này do Thu mượn Giấy chứng minh nhân dân của Trường để thành lập và điều hành) để dự thầu (quân xanh) nhằm tạo điều kiện cho Liên danh H – T2 trúng thầu. Ngoài ra, Công ty Cổ phần Y, địa chỉ số quận C, thành phố Hà Nội, do ông Nguyễn Tiến H là Giám đốc cũng tham gia dự thầu. Tuy nhiên, việc Công ty tham gia dự thầu, Nguyễn Tiến H ủy quyền cho Cộng tác viên tại tỉnh Lạng Sơn tham gia dự thầu thông qua phòng Dự án của Công ty, không nhớ nhân viên nào là người xây dựng hồ sơ dự thầu. Do đó không có cơ sở xác định Công ty Cổ phần Y thông thầu với Liên danh H – T2 để nâng giá dự thầu.

Ngày 09/11/2018, Sở A tỉnh Lạng Sơn ban hành Quyết định số 2896/QĐSYT phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu Liên danh H – T2. Ngày 14/11/2018, Sở A tỉnh Lạng Sơn đã ký kết hợp đồng với Liên danh H – T2 về việc cung cấp trang thiết bị y tế cho các bệnh viện tuyến huyện năm 2018.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

– Với tư cách là Trưởng phòng K của Sở A tỉnh Lạng Sơn, bị cáo Trần Hoàng L được giao nhiệm vụ thực hiện công việc thẩm định, đấu thầu theo quy định, là thành viên bên mời thầu Gói thầu mua sắm tập trung thiết bị y tế đợt 2 năm 2018, do Sở A Lạng Sơn làm chủ đầu tư, nhưng bị cáo Trần Hoàng L đã tạo điều kiện cung cấp cho Bùi Thị T1 – Giám đốc Công ty Cổ phần thiết bị và Công nghệ H, đại diện đơn vị dự thầu có thông tin về số lượng danh mục, thiết bị y tế, tổng mức đầu tư dự án, thông số kỹ thuật cấu hình các thiết bị; tạo điều kiện cho Bùi Thị T1 tham gia thực hiện nhiệm vụ, công việc của bên mời thầu như lập 03 bản báo giá của 03 đơn vị cung cấp thiết bị y tế gửi cho Trần Hoàng L để làm cơ sở trình Sở Tài chính tỉnh Lạng Sơn thẩm định giá, xây dựng cấu hình thiết bị trong hồ sơ mời thầu thông qua việc cung cấp cấu hình và thông số kỹ thuật theo hãng mà nhà thầu đã chọn, xây dựng hồ sơ mời thầu. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lạng Sơn đã 12 truy tố bị cáo Trần Hoàng L là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận bị cáo Trần Hoàng L phạm tội Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 3 Điều 222 Bộ luật Hình sự năm 2015.

– Công ty H là đơn vị trúng thầu và được Sở A tỉnh Lạng Sơn thanh toán số tiền theo hóa đơn là 23.995.000.000 đồng; trong đó bao gồm cả số tiền đã thất thoát là 8.903.338.600 đồng. Như vậy, Công ty H đã hưởng lợi bất chính số tiền 8.903.338.600 đồng. Do vậy, cần phải buộc Công ty H phải hoàn trả cho Sở A tỉnh Lạng Sơn số tiền 8.903.338.600 đồng. Bị cáo Trần Hoàng L đã tự nguyện bồi thường giúp Công ty H một phần hậu quả số tiền 4.000.000.000 đồng; xét thấy ý kiến của bị cáo là tự nguyện và không vi phạm điều cấm pháp luật và không trái đạo đức xã hội nên ghi nhận sự tự nguyện của bị cáo. Buộc Công ty H phải hoàn trả số tiền còn lại cho Sở A là 4.903.338.600 đồng.

– Đối với Trần Khải T, Nguyễn Văn Đ – Nhân viên Công ty H: Việc cung cấp cho ông Vũ Văn Đ các tài liệu, thông tin về thông số, cấu hình thiết bị y tế là theo chỉ đạo của Bùi Thị T1; ngoài ra Trần Khải T còn liên hệ và cung cấp các thông tin, tài liệu liên quan đến gói thầu, các văn bản của Sở A tỉnh Lạng Sơn, thông số kỹ thuật cấu hình các thiết bị để Viện Công nghệ và Công trình sức khỏe thực hiện công việc tư vấn lập hồ sơ mời thầu, nhưng Trần Khải T, Nguyễn Văn Đ không biết mục đích công việc mình làm để Công ty H tham gia đấu thầu, cũng không được hưởng lợi từ việc Công ty H trúng gói thầu trên, chỉ được nhận lương theo hợp đồng, do vậy không có căn cứ để xử lý hình sự đối với Trần Khải T, Nguyễn Văn Đ về hành vi vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Tuyên bố bị cáo Trần Hoàng L phạm tội Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng.

– Buộc Công ty Cổ phần Thiết bị và Công nghệ H phải hoàn trả cho Sở A tỉnh Lạng Sơn số tiền thiệt hại 8.903.338.600 đồng (tám tỷ chín trăm lẻ ba triệu ba trăm ba mươi tám nghìn sáu trăm đồng) để nộp ngân sách Nhà nước. Xác nhận bị cáo Trần Hoàng L đã tự nguyện nộp thay Công ty Cổ phần Thiết bị và Công nghệ H số tiền 4.000.000.000 (bốn tỷ) đồng theo Biên lai thu tiền số AA/2021/0000404 ngày 19/7/2022, hiện đang được gửi tại tài khoản số 3949.0.1054441.00000 của Cục T tỉnh Lạng Sơn tại Kho bạc Nhà nước tỉnh Lạng Sơn. Nay công ty Cổ phần Thiết bị và Công nghệ H còn phải hoàn trả cho Sở A tỉnh Lạng Sơn số tiền 4.903.338.600 đồng

01-18
2 Bản án số 07/2024/HS-ST ngày 31/01/2024 Tòa án nhân dân tỉnh Yên Bái

Nội dung vụ án:

Trong thời gian từ năm 2020 đến tháng 8/2021, C2 được Ủy ban nhân dân tỉnh Y giao làm chủ đầu tư để thực hiện việc mua vật tư, hóa chất, sinh phẩm, y tế phục vụ công tác xét nghiệm SARS-CoV-2 trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Bị cáo Nguyễn Văn H với vai trò là Giám đốc C2, Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh Y phụ trách C2 đã chỉ đạo bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 liên hệ ứng 22.352 test xét nghiệm COVID-19 và 6.612 Kit xét nghiệm COVID-19 của Công ty C2, sau đó chỉ đạo bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 phối hợp với phòng Tài chính kế toán của C2 hợp thức hồ sơ thanh toán trả tiền cho Công ty C2 theo hình thức chỉ định thầu rút gọn tại 04 hồ sơ thầu với tổng số tiền đã thanh toán là 4.202.016.000đồng. Việc ứng K1, test xét nghiệm COVID-19 để sử dụng trước, sau đó hoàn thiện hồ sơ thanh toán theo hình thức chỉ định thầu rút gọn không đúng quy định cụ thể tại 04 hợp đồng, đó là Hợp đồng số 010321/2021/HĐ, ngày 15/3/2021; Hợp đồng số 010721/HĐO.VAS-TIB, ngày 26/7/2021; Hợp đồng 010621/CVA.VAS-TIB, ngày 21/5/2021 và Hợp đồng 011021/HĐO.VAS-TIB, ngày 08/10/2021 như: C2 đã nhận hàng hóa trước khi ký hợp đồng, như vậy tính cấp bách không còn nữa, trong trường hợp này không được áp dụng hình thức chỉ định thầu rút gọn mà phải thực hiện đấu thầu rộng rãi, việc nêu nhãn mác, xuất xứ hàng hóa V3 trong phiếu yêu cầu là vi phạm điểm i, h khoản 6 Điều 89 Luật Đấu thầu năm 2013 là hành vi bị cấm trong đấu thầu. Việc áp dụng sai hình thức đấu thầu của bị cáo Nguyễn Văn H đã vi phạm những điều cấm trong đấu thầu, quy định tại điểm h khoản 6 Điều 89 Luật Đấu thầu năm 2013. Quá trình hợp thức hồ sơ thanh toán đã không thực hiện đúng, không đầy đủ quy định của pháp luật về đấu thầu.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

– Trong thời gian từ năm 2020 đến tháng 8/2021, C2 được Ủy ban nhân dân tỉnh Y giao làm chủ đầu tư để thực hiện việc mua vật tư, hóa chất, sinh phẩm, y tế phục vụ công tác xét nghiệm SARS-CoV-2 trên địa bàn tỉnh Yên Bái. Bị cáoNguyễn Văn H với vai trò là Giám đốc C2, Phó Giám đốc Sở Y tế tỉnh Y phụ trách C2 đã chỉ đạo bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 liên hệ ứng 22.352 test xét nghiệm COVID-19 và 6.612 Kit xét nghiệm COVID-19 của Công ty C2, sau đó chỉ đạo bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 phối hợp với phòng Tài chính kế toán của C2 hợp thức hồsơ thanh toán trả tiền cho Công ty C2 theo hình thức chỉ định thầu rút gọn tại 04 hồsơ thầu với tổng số tiền đã thanh toán là 4.202.016.000đồng. Việc ứng K1, test xét nghiệm COVID-19 để sử dụng trước, sau đó hoàn thiện hồ sơ thanh toán theo hình
thức chỉ định thầu rút gọn không đúng quy định cụ thể tại 04 hợp đồng, đó là Hợp đồng số 010321/2021/HĐ, ngày 15/3/2021; Hợp đồng số 010721/HĐO.VAS-TIB,ngày 26/7/2021; Hợp đồng 010621/CVA.VAS-TIB, ngày 21/5/2021 và Hợp đồng 011021/HĐO.VAS-TIB, ngày 08/10/2021 như: C2 đã nhận hàng hóa trước khi kýhợp đồng, như vậy tính cấp bách không còn nữa, trong trường hợp này không đượcáp dụng hình thức chỉ định thầu rút gọn mà phải thực hiện đấu thầu rộng rãi, việcnêu nhãn mác, xuất xứ hàng hóa V3 trong phiếu yêu cầu là vi phạm điểm i, h khoản 6 Điều 89 Luật Đấu thầu năm 2013 là hành vi bị cấm trong đấu thầu. Việc áp dụng sai hình thức đấu thầu của bị cáo Nguyễn Văn H đã vi phạm những điều cấm trong đấu thầu, quy định tại điểm h khoản 6 Điều 89 Luật Đấu thầu năm 2013. Quá trình hợp thức hồ sơ thanh toán đã không thực hiện đúng, không đầy đủ quy định của pháp luật về đấu thầu.

– Bị cáo Nguyễn Văn H phân công giao nhiệm vụ cho bị cáo Đoàn Thị HồngH2 vừa là Tổ trưởng Tổ chuyên gia thuộc C2 có nhiệm vụ lựa chọn nhà thầu vừa là người đề xuất mua sắm vật tư tiêu hao, hóa chất, sinh phẩm phục vụ công tác xét nghiệm COVID-19 tại CDC Y. Để bị cáo H2 tham gia lập, đồng thời tham gia thẩm định hồ sơ trong cùng một gói thầu. Cụ thể là bị cáo H2 đã ký 03 Tờ trình
ngày 28/8/2020, ngày 09/3/2021, ngày 23/7/2021 đề xuất Giám đốc C2 chỉ định thầu là Công ty C2, đối với 03 gói thầu (gói thầu trị giá 1.050.000.000 đồng, gói thầu trị giá 1.018.080.000 đồng và gói thầu trị giá 2.036.160.000 đồng). Đồng thời với vai trò là Trưởng khoa Xét nghiệm – Chẩn đoán hình ảnh – Thăm dò chức năng, bị cáo H2 đã ký 05 Phiếu yêu cầu (ngày 24/7/2020, ngày 03/02/2021, ngày
03/5/2021, ngày 17/5/2021 và ngày 20/5/2021) đề xuất Giám đốc C2 mua vật tư, hóa chất, sinh phẩm y tế xét nghiệm SARS-CoV-2, trong đó có danh mục hàng hóa ghi hãng sản xuất là Việt Á/Việt N3. Hành vi trên là không đảm bảo đảm công bằng minh bạch (tham gia lập, đồng thời tham gia thẩm định hồ sơ trong cùng một 15 gói thầu), vi phạm những điều cấm trong hoạt động đấu thầu, quy định điểm b khoản 6, Điều 89 Luật Đấu thầu năm 2013.

– Hành vi của bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 là không đảm bảo
công bằng minh bạch (tham gia lập, đồng thời tham gia thẩm định hồ sơ trong cùng một gói thầu) là vi phạm những điều cấm trong hoạt động đấu thầu, quy định điểm b khoản 6, Điều 89 Luật Đấu thầu năm 2013, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước số tiền 2.807.022.640 đồng; thiệt hại cho C2 500.386.368 đồng). 16 Mặc dù không có sự thỏa thuận, hứa hẹn từ trước nhưng bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 là người đã nhận tiền là quà biếu với tổng số tiền 794.304.000 đồng của Công ty C2 cho C2. Sau khi nhận tiền bị cáo H2 không nộp về thủ quỹ của C2. Bị cáo khai dựa cho bà Nguyễn Thúy Q hai lần bằng 600.000.000 đồng nhưng bà Nguyễn Thúy Q không thừa nhận và không có tài liệu, chứng cứ để chứng minh việc dưa tiền nên bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với toàn bộ số tiền đã nhận.

– Các bị cáo Nguyễn Văn II, Đoàn Thị Hồng II2 là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, là người có chức vụ, quyền hạn của C2. Các bị cáo đều nhận thức được các hành vi của mình là không đúng pháp luật, nhưng các bị cáo vẫn thực hiện, mặc dù do tính chất cấp bách của công tác phòng chống dịch COVID-19 tại địa phương theo yêu cầu của cấp trên, nhưng hành vi của các bị cáo đã tạo điều kiện để đơn vị trúng thầu là Công ty C2 được hưởng lợi không đúng
quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước và C2 với tổng số tiền 3.307.409.000 đồng. Do đó hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn II và Đoàn Thị Hồng H2 đã đủ yếu tố cấu thành tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại khoản 3 Điều 222 Bộ luật Hình sự. Cáo trạng của Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh Yên Bái đã truy tố các bị cáo theo tội danh và điều luật như trên là có căn cứ, dùng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn H (Tên gọi khác: không) 02 năm cải tạo
không giam giữ. Thời gian chấp hành hình phạt tính từ ngày Cơ quan nơi bị cáo làm việc (Sở Y tế tỉnh Y) nhận dược Quyết định thi hành án và bản sao bản án;

– Xử phạt bị cáo Đoàn Thị Hồng H2 (Tên gọi khác: không) 03 năm cải tạo không giam giữ được khấu trừ thời gian đã bị tạm giữ, tạm giam ngày 15/6/2022 đến ngày 05/4/2023 là 295 ngày được tính bằng 885 ngày cải tạo không giam giữ, thời gian còn lại phải chấp hành là 210 ngày tương ứng 07 tháng.

19-42
3 Bản án số: 719/2023/HS-PT Ngày 25 tháng 9 năm 2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung vụ án:

Sở Y tế TP Cần Thơ do Bùi Thị Lệ P làm GĐ từ năm 2011 đến ngày 01/12/2019 và CaoMinh C làm GĐ từ ngày 01/01/2020. Quyết định số 2460/QĐ-SYT ngày 04/10/2018 củaGD Sở Y tế Cần Thơ thành lập Ban QLDA, do Cao Minh C – PGĐ Sở Y tế phụ trách. Hộiđồng thẩm định hồ sơ mời thầu, kết quả đấu thầu mua sắm trang thiết bị thuộc Sở Y tế CầnThơ do Bùi Thị Lệ P – GĐ Sở Y tế Cần Thơ thành lập; Cao Minh C là CTHĐ. Công ty NSJ

Group do Hoàng Thị Thúy N làm CTHĐ , Kim Trọng Đ làm TGĐ, Lê Huy B làm PhóTGĐ. Từ tháng 12/2015 đến tháng 9/2019, NSJ Group thành lập các công ty, gồm: Công tyTNHH NSJ; Công ty TNHH ĐT và TM MQF; Công ty Bình An; Công ty CP công nghệ mớiThái Dương; Công ty TNHH đồ chơi Poliese; CTCP ĐTTM SUN SEA LAND.Từ năm 2017 đến năm 2019, Sở Y tế Cần Thơ làm chủ đầu tư 04 gói thầu cung cấp trangthiết bị y tế. Các bị cáo: Bùi Thị Lệ P, Cao Minh C đã thông đồng với Hoàng Thị Thúy N,

Vũ Quang N1, Đặng Xuân M, Nguyễn Quốc V-Công ty BTC VALUE đã can thiệp trái phápluật vào hoạt động đấu thầu gây thiệt hại cho Nhà nước 32.674.251.138 đồng. Cụ thể :

– Đối với Gói thầu số 01/2017 cung cấp Hệ thống DSA hai bình diện thuộc dự án Bệnh viện Tim mạch Tp Cần Thơ:

Ngày 06/6/2017, ông Võ Thành T1 – CT UBND Tp Cần Thơ cùng Bùi Thị Lệ P và Lãnh đạo Sở KH-ĐT có buổi làm việc với BV Tim để nghe báo cáo về nhu cầu trang thiết bị y tế. Nắm thông tin, Hoàng Thị Thúy N đến nhờ ông T1 giúp đỡ, giới thiệu để Công ty NSJ tham gia các gói thầu và được ông T1 đồng ý thì Hoàng Thị Thúy N đến gặp Bùi Thị Lệ P và Cao Minh C để chào hàng Hệ thống DSA hai bình diện với giá 38 tỷ đồng. Theo chỉ đạo của N, nhằm hạn chế sự tham gia của các nhà thầu khác Phùng Thị D – Trưởng phòng Dự án NSJ và Đoàn Thị N2 – Phó Trưởng phòng Dự án NSJ đã cung cấp các thông số kỹ thuật cho Nguyễn Viết H và Lê Thành H1 , để các đối tượng này chuyển tiếp cho Lương Tấn T2 sử dụng lập hồ sơ, báo cáo, đề xuất. Ngày 11/9/2017, Bùi Thị Lệ P ký hợp đồng số 119/HĐTV với Công ty Kiến Thiết về việc tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Hệ thống DSA hai bình diện với tổng dự toán là 39.778.978.000 đồng, trong đó chi phí thiết bị là 38 tỷ đồng, dựa trên các báo cáo giá do Lương Tấn T2 yêu cầu Lê Thành H1 cung cấp. Chủ tịch UBND TPCần Thơ, ký Quyết định số 2845/QĐ-UBND ngày 30/10/2017 phê duyệt Báo cáo nghiên cứu khả thi dự án Hệ thống DSA hai bình diện, tổng mức đầu tư là 39.778.978.000 đồng.

– Hành vi gian lận trong đấu thầu, thông đồng lập chứng thư thẩm định giá khống:

Ngày 03/11/2017, các thẩm định viên: Đặng Xuân M, Nguyễn Quốc V cùng Lê Anh T3 ký phát hành Chứng thư thẩm định giá định giá Hệ thống DSA hai bình diện là37.995.000.000 đồng. Toàn bộ hồ sơ chỉ định thầu gói thầu cung cấp dịch vụ thẩm định giáđều được Lương Tấn T2 soạn thảo, đưa cho các thành viên Hội đồng thẩm định Sở Y tế CầnThơ ký hợp thức.

– Hành vi không đảm bảo công bằng, minh bạch; Tiết lộ thông tin đấu thầu khi thực hiệnHợp đồng tư vấn lập hồ sơ mời thầu và đánh giá hồ sơ dự thầu:

Hoàng Thị Thúy N vớiNguyễn Thị Dung và Vũ Quang N1 – Công ty Mediconsult có quen biết nhau từ trước. Theo chỉ đạo của N, Lê Thành H1 đã giới thiệu Công ty Mediconsult với Lương Tấn T2 , để T 2đề xuất với Cao Minh C, Bùi Thị Lệ P chọn Công ty Mediconsult làm đơn vị tư vấn đấuthầu. Để Công ty Mediconsult lập Hồ sơ mời thầu theo các tiêu chí có lợi cho Công ty NSJ, N đã trao đổi nhờ N1 giúp đỡ và tạo điều kiện để cấp dưới của N cùng tham gia

– Hành vi thông thầu của các bị cáo Công ty NSJ: Theo chỉ đạo của Hoàng Thị Thúy N, Phòng Dự án chuẩn bị 03 hồ sơ dự thầu cho Công ty NSJ và 02 “quân xanh” là Công ty Công ty Y tế Danhvà Công ty Hà Việt. Ngày 13/6/2018, Tổ chuyên gia đấu thầu Công ty Mediconsult gồm ông Đoàn Ngọc A1 , Tạ Thường X, Nguyễn H3 , Nguyễn Thị Đ1 và Nguyễn Thị D1 – Tổng Giám đốc ký Báo cáo đánh giá hồ sơ đề xuất kỹ thuật Gói thầu cung cấp, lắp đặt Hệ thống DSA hai bình diện, kết quả: Công ty NSJ là nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật. Ngày 18/6/2018, Bùi Thị Lệ P phê duyệt Danh sách nhà thầu đáp ứng yêu cầu về kỹ thuật là Công ty NSJ. Ngày 22/6/2018, Sở Y tế Cần Thơ lập Biên bản mở hồ sơ đềxuất tài chính, Công ty NSJ tham gia dự và trúng thầu với mức giá 37.988.000.000 đồng. Căn cứ Kết luận định giá tài sản số 11/KL-HĐĐGTS ngày 04/01/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Bộ Y tế, kết luận: Hệ thống DSA hai bình diện mới 100% do Đức sản xuất năm 2018 là 28.539.748.431 đồng. Xác định thiệt hại do hành vi vi phạm quy định đấu thầu gây ra là 8.409.326.569 đồng.

– Hành vi vi phạm quy định về đấu thầu trong quá trình tổ chức 03 gói thầu tại Bệnh viện Nhi đồng thành phố Cần Thơ:

Dự án mua sắm trang thiết bị Bệnh viện Nhi được duyệt tổng mức đầu tư 288.770.500.000 đồng, trong đó trang thiết bị y tế là 267.976.800.000 đồng.

– Hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu, gian lận, không đảm bảo công bằng, minh bạch của các bị cáo ở Sở Y tế và nhà thầu NSJ: Biết được chủ trương đầu tư, Hoàng Thị Thúy N đã thỏa thuận với Bùi Thị Lệ P và Cao Minh C để Công ty của N được tham gia và trúng 03 gói thầu, gồm: Gói thầu số 05/2018 cung cấp Hệ thống CT 128 lát cắt; Gói thầu số 10/2018 cung cấp trang thiết bị xét nghiệm; Gói thầu số 05/2019 cung cấp trang thiết bị cho Bệnh viện Nhi thuộc Đề án Bệnh viện vệ tinh của TP Cần Thơ. Cao Minh C cho

Hồ Phương Q – nhân viên Ban QLDA kết hợp với Lê Thành T5 – nhân viên Công ty NSJ chuẩn bị thủ tục để NSJ thực hiện 02 gói thầu tại Bệnh viện Nhi. Do năm 2018 Công ty NSJ đã trúng Gói thầu DSA và Gói thầu CT 128 lát cắt, nên Hoàng Thị Thúy N để Công ty Bình An tham gia dự thầu. Toàn bộ thủ tục, hồ sơ dự thầu của Công ty Bình An đều do các nhân viên của Công ty NSJ trực tiếp thực hiện.

– Hành vi gian lận trong đấu thầu, lập chứng thư thẩm định giá khống: Tương tự như gói thầu DSA hai bình diện, các báo giá trong hồ sơ thẩm định giá đều do Công ty NSJ chuẩn bị để Công ty BTC VALUE lập Chứng thư thẩm định giá và Báo cáo kết quả thẩm định giá theo giá áp đặt, thỏa thuận trước với Công ty NSJ. Các báo giá do Đoàn Thị N2 và nhân viên Phòng Dự án Công ty NSJ soạn thảo rồi nhờ các pháp nhân ký hợp thức, phục vụ hoạt động thẩm định giá, lập các báo giá cao hơn mức giá UBND đề ra nhằm để NSJ trúng thầu.

Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự Bộ Y tế có Kết luận số 1887 ngày 25/11/2021 và Kết luận số 745 ngày 06/6/2022, xác định giá trị Hệ thống CT 128 lát cắt là 13.306.777.882 đồng; Tổng giá trị tài sản 15 danh mục thiết bị, hệ thống trang thiết bị xét nghiệm và phụ kiện thuộc Gói thầu số 10/2019 là 5.100.517.606 đồng; Tổng giá trị 04 danh mục thiết bị, hệ thống trang thiết bị y tế và phụ kiện thuộc Gói thầu số 05/2019 là 4.418.557.825 đồng.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Xử phạt bị cáo Hoàng Thị Thúy N 08 (Tám) năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2021. Cấm bị cáo làm công việc liên quan đến đấu thầu trong thời hạn 03 (ba) năm kể từ ngày bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

– Xử phạt bị cáo Hồ Phương Q 04 (Bốn) năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

– Xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc Hồng P 03 (Ba) năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án

– Xử phạt bị cáo Phùng Thị D 02 (Hai) năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án.

– Xử phạt bị cáo Hoàng Hà A 02 (Hai) năm tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Cấm làm công việc liên quan đến đấu thầu trong thời hạn 01 (Một) năm đối với bị cáo kể từ ngày bị cáo chấp hành xong hình phạt tù

– Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc V 02 (Hai) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo chấp hành án. Cấm làm công việc liên quan đến đấu thầu trong thời hạn 01 (Một) năm đối với bị cáo kể từ ngày bị cáo chấp hành xong hình phạt tù.

Tòa án cấp phúc thẩm nhận định:

– Lời khai nhận của các bị cáo phù hợp với nhau, phù hợp với các kết luận định giá, các hợp đồng, các hồ sơ mời thầu, các hồ sơ dự thầu cùng các tài liệu, chứng cứ khác trong hồ sơ vụ án, có đủ cơ sở để xác định trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến năm 2019, các bị cáo nguyên là lãnh đạo Sở Y tế Cần Thơ – chủ đầu tư 04 gói thầu cung cấp trang thiết bị y tế cho Bệnh viện Tim và Bệnh viện Nhi Cần Thơ, cùng với các chuyên viên Ban Quản lý dự án đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn được giao, thỏa thuận với bị cáo Hoàng Thị Thúy N – Chủ công ty NSJ và công ty Bình An để thực hiện các hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động đấu thầu, không đảm bảo công bằng minh bạch trong hoạt động đấu thầu, gian lận, thông đồng lập chứng thư định giá khống, tiết lộ 29 thông tin đấu thầu, thông thầu, để các công ty của Hoàng Thị Thúy N trúng thầu, gây thiệt hại cho Nhà nước với tổng số tiền 32.674.251.138 đồng. Bản án sơ thẩm đã tuyên bố các bị cáo: Hoàng Thị Thúy N, Hồ Phương Q, Hoàng Ngọc Hồng P, Phùng Thị D và Hoàng Hà A phạm tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại khoản 3 Điều 222 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là đúng người, đúng tội.

– Bị cáo Hoàng Thị Thúy N là Chủ tịch Hội đồng sáng lập NSJ Group, với vai trò là chủ mưu, cầm đầu, tổ chức thực hiện tội phạm, bị cáo đã chủ động gặp gỡ, trao đổi, bàn bạc với Bùi Thị Lệ P và Cao Minh C tạo điều kiện cho Công ty Bình An và Công ty NSJ tham gia và trúng 04 gói thầu theo giá mà N đưa ra; đã chỉ đạo cấp dưới tiếp cận thông tin, các yêu cầu về gói thầu, cung cấp thông số kỹ thuật thiết bị, giá thiết bị, các báo giá được lập khống cho Sở Y tế Cần Thơ lập dự toán, mời thầu; trao đổi, cung cấp các báo giá do Công ty NSJ lập khống cho Công ty BTC VALUE ban hành Chứng thư thẩm định giá theo giá chỉ định; trao đổi, thống nhất, điều chỉnh nội dung hồ sơ mời thầu với Công ty Mediconsult theo hướng có lợi cho các công ty của N; lập hồ sơ dự thầu cho các công ty “quân xanh”; ký các hợp đồng mua hàng giữa các công ty của N nhằm mục đích che giấu việc nâng giá hàng hóa, đã vi phạm các khoản: 2, 3, 4, 6, 7 Điều 89 Luật Đấu thầu, gây thiệt hại cho Nhà nước tổng số tiền 32.674.251.138 đồng.

– Bị cáo Hồ Phương Q là chuyên viên Ban quản lý Dự án, được giao nhiệm vụ phụ trách 03 gói thầu tại Bệnh viện Nhi, theo chỉ đạo của Giám đốc và Phó Giám đốc Sở Y tế, bị cáo đã trao đổi với Lê Thành H1 – nhân viên Phòng Kinh doanh Công ty NSJ thống nhất nhận danh mục hàng hóa, thông số kỹ thuật để Sở Y tế Cần Thơ và Công ty BTC VALUE lập hồ sơ gói thầu và thẩm định giá, giúp Công ty NSJ và Công ty Bình An trúng 03 gói thầu tại Bệnh viện Nhi, đã vi phạm các khoản: 3, 4, 6 Điều 89 Luật Đấu thầu, góp phần gây thiệt hại cho Nhà nước 24.264.924.569 đồng.

– Bị cáo Hoàng Ngọc Hồng P là là Trưởng phòng Dự án Công ty NSJ, là người tiếp nhận chỉ đạo từ bị cáo Hoàng Thị Thúy N, Lê Huy B và Kim Trọng Đ. Bị cáo là lãnh đạo chủ chốt của Công ty, biết Công ty NSJ thông thầu với Sở Y tế Cần Thơ, bị cáo đã cùng với Nguyễn Viết H và Lê Thành H1 phối hợp với Phòng Dự án cung cấp báo giá, thông số kỹ thuật cho Sở Y tế, Công ty BTC VALUE, Công ty Mediconsult để làm căn cứ xin đầu tư dự án, đề xuất mức vốn, thẩm định giá tại gói thầu DSA và gói thầu 128 lát cắt. Hành vi của bị cáo đã vi phạm các khoản: 3, 4, 6, 7 Điều 89 Luật Đấu thầu, góp phần gây thiệt hại cho Nhà nước 20.510.326.569 đồng.

– Bị cáo Phùng Thị D là Trưởng phòng Dự án Công ty NSJ (từ năm 2017 đến tháng 5/2019), đã chỉ đạo cho các bị án: Đoàn Thị N2 , Nông Thị Bích S, Nguyễn Bảo T4 và các nhân viên làm hồ sơ dự thầu cho Công ty NSJ, Công ty Danh, Công ty Hà Việt liên quan gói thầu Hệ thống DSA hai bình diện trái với quy định tại các khoản 3, 4, 6, 7 Điều 89 Luật Đấu thầu, góp phần gây thiệt hại cho Nhà nước 8.409.326.569 đồng.

– Bị cáo Hoàng Hà A là Tổng Giám đốc Công ty Bình An, đã ký các thủ tục, hồ sơ do Phòng Dự án Công ty NSJ soạn thảo về việc Công ty Bình An tham gia và thực hiện gói thầu. Mặc dù chưa có kết quả đấu thầu, nhưng bị cáo đã ký 20 hợp đồng mua bán thiết bị y tế với các đơn vị cung cấp thiết bị y tế cho hai gói thầu; trong đó 19/20 hợp đồng ký trước ngày có thông báo Công ty Bình An trúng thầu (có 02 hợp đồng ký với Công ty MQF là đơn vị thuộc NSJ Group), 01 hợp đồng ghi rõ địa chỉ giao hàng tại Cần Thơ, nhằm tạo độc quyền về hàng hóa, gây cản trở cho các đơn vị dự thầu khác. Hành vi của bị cáo đã vi phạm khoản 3, khoản 6 Điều 89 Luật Đấu thầu, góp phần gây thiệt hại cho Nhà nước 12.163.924.568 đồng.

Tòa án cấp phúc thẩm tuyên:

– Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quốc V. Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2023/HS-ST ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã có hiệu lực pháp luật đối với bị cáo Nguyễn Quốc V.

– Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo: Hoàng Thị Thúy N, Hồ Phương Q, Hoàng Ngọc Hồng P, Phùng Thị D và Hoàng Hà A; Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 41/2023/HS-ST ngày 17/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh;

43-76

Link PDF: TỔNG HỢP 08 BẢN ÁN XÉT XỬ HÀNH VI SAI PHẠM TRONG ĐẤU THẦU THUỐC, THIẾT BỊ Y TẾ

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan