Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 06 bản án về trường hợp tính lại thời hiệu khởi kiện

Tổng hợp 06 bản án về trường hợp tính lại thời hiệu khởi kiện

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 06 bản án về trường hợp tính lại thời hiệu khởi kiện” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 06 bản án về trường hợp tính lại thời hiệu khởi kiện

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

1

Bản án số 70/2018/KDTM-PT ngày 29 tháng 5 năm 2018 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội. V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hoá.

Nội dung:

Công ty TNHH P V (sau đây viết tắt là Nguyên đơn) và Công ty cổ phần tập đoàn TN (sau đây viết tắt là Bị đơn) ký với nhau nhiều hợp đồng mua bán hàng hóa trong thời gian từ năm 2010 đến năm 2013. Nguyên đơn là nhà cung cấp thép không gỉ cho Bị đơn. Ngày 27/11/2013, đại diện cho Nguyên đơn là ông Trương Quang H và đại diện Bị đơn là bà Đỗ Thị Thanh H (kế toán trưởng kiêm Phó tổng giám đốc công ty) đã ký Biên bản đối chiếu công nợ, theo đó hai bên thống nhất tổng số tiền Bị đơn còn phải trả hàng thực tế đã giao là 58.066.571.730 đồng. Ngày 11/12/2013, Bị đơn có Công văn số 940/KTTC-TN do ông Nguyễn Hùng C- Chủ tịch Hội đồng quản trị và cũng là người đại diện theo pháp luật của Bị đơn gửi cho Nguyên đơn xác nhận là Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn số tiền hàng tính đến thời điểm hai bên xác nhận công nợ ngày 28/11/2013 là 58.066.571.730 đồng. Ngày 11/2/2014, Bị đơn có Công văn số 0014/KTTC-TN gửi Nguyên đơn với nội dung: Chậm trễ trong việc thanh toán và xin gia hạn thanh toán trong thời gian quý 1/2014. Ngày 04/11/2016, Nguyên đơn lại khởi kiện Bị đơn lần thứ ba ra Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm.Ngày 05/01/2018, Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm mở phiên tòa và đã quyết định đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn khởi kiện cho nguyên đơn với lý do hết thời hiệu khởi kiện.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Đình chỉ giải quyết vụ án kinh doanh thương mại thụ lý số 49/2016/TLSTKDTM ngày 01/12/2016 về việc “Tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng mua bán hàng hóa” giữa Công ty TNHH P V với Công ty cổ phần tập đoàn TN.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Căn cứ theo Điều 157 Bộ luật dân sự, thì thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự bắt đầu lại trong trường hợp Bên có nghĩa vụ đã thừa nhận một phần hoặc toàn bộ nghĩa vụ của mình đối với người khởi kiện. Do đó, thời điểm Bị đơn ban hành Công văn số 151 gửi cho Nguyên đơn được xác định là thời điểm bắt đầu lại thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự. Tính đến ngày Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện (lần thứ ba) tại Tòa án sơ thẩm vào ngày 07/11/2016 là vẫn trong thời hiệu khởi kiện 02 năm theo quy định của pháp luật. Tòa án sơ thẩm đã quyết định đình chỉ xét xử vụ án do hết thời hiệu khởi kiện là không đúng quy định của pháp luật.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 193 Bộ luật tố tụng dân sự, thì thời gian thực hiện việc sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện không tính vào thời hiệu khởi kiện thì khoảng thời gian sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện của hai lần khởi kiện trước đó không tính vào thời hiệu khởi kiện, nên khi Nguyên đơn khởi kiện lần thứ ba tại Tòa án với cùng nội dung khởi kiện thì khoảng thời gian 462 ngày nêu trên không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Do lỗi của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm chậm chễ trong việc xử lý đơn khởi kiện làm ảnh hưởng đến việc Nguyên đơn thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự nên khoảng thời gian chậm trễ nêu trên được xác định là trở ngại khách quan đối với việc khởi kiện của Nguyên đơn. Căn cứ theo khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sự thời gian này không tính vào thời hiệu khởi kiện vụ án dân sự.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 02/2018/KDTM-ST ngày 05/01/2018 của Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội.

Chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Nam Từ Liêm, thành phố Hà Nội giải quyết lại theo thủ tục chung.

1

2

Bản án số 778/2018/KDTM-PT ngày 23 tháng 8 năm 2018 Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. V/v: Tranh chấp hợp đồng tín dụng.

Nội dung:

Ngày 30/6/2011, ông Phan Thanh Q và Ngân hàng TMCP QĐ (sau đây gọi tắt là Ngân hàng) đã ký hợp đồng tín dụng số: 128.11.202.803908.TD.CN số tiền 2.500.000.000 đồng, góp vốn vào Công ty Cổ phần Đầu tư BĐS KG, thời gian vay 12 tháng. Ngày 30/6/2011, bà Dương Lê M và Ngân hàng TMCP QĐ đã ký hợp đồng tín dụng số: 129.11.202.910867.TD.CN số tiền vay 2.500.000.000 đồng, góp vốn vào Công ty Cổ phần Đầu tư BĐS KG, thời gian vay 12 tháng. Ngày 30/6/2011, ông Đỗ Văn Qu và Ngân hàng TMCP QĐ đã ký hợp đồng tín dụng số: 130.11.202.910863.TP.CN vay số tiền 1.320.000.000 đồng;
góp vốn vào kinh doanh của Công ty Cổ phần Đầu tư BĐS KG, thời gian vay 09 tháng. Để đảm bảo cho ba hợp đồng tín dụng trên thì vợ chồng ông Q và bà M đã ký hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất số: 88.11.202.803.908.BĐ.CN ngày 30/6/2011. Tài sản thế chấp là căn nhà số: 270 CVA, Phường HS, quận BTh, Tp. Hồ Chí Minh, thuộc giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số: 1425/2008/GCN do UBND quận BTh cấp ngày 18/04/2008 do ông Phan Thanh Q và bà Dương Lệ M đứng tên. Tài sản thế chấp định giá là 7.908.400.000 đồng. Tổng 3 hợp đồng đối với số nợ gốc là 6.320.000.000 đồng. Kể từ ngày ký hợp đồng tín dụng ông Q không nhận được bất kì thông báo nào của Ngân hàng về việc trả nợ gốc, lãi mặt dù ông đã nhiều lần liên hệ. Tuy nhiên, ngày 29/5/2014 Ngân hàng đã chuyển tài sản thế chấp của vợ chồng ông cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tài sản thuộc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh để Thông báo bán đấu giá tài sản thế chấp của vợ chồng ông theo Thông báo số: 1371/TTĐG nên ông khởi kiện Ngân hàng để yêu cầu Tòa án buộc Ngân hàng phải ra thông báo cho ông biết số nợ là bao nhiêu và không được phát mãi tài sản thế chấp của vợ chồng ông.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Đình chỉ giải quyết yêu cầu của ông Phan Thanh Q. Đình chỉ yêu cầu tính lãi của Ngân hàng TMCP QĐ.

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Ngân hàng TMCP QĐ kháng cáo một phần bản án sơ thẩm về việc đình chỉ giải quyết yêu cầu ông Q, bà M và ông Qu có trách nhiệm trả tiền lãi cho Ngân hàng. Ngân hàng nêu lý do kháng cáo là vì thời hiệu khởi kiện vẫn còn trên cơ sở sau khi phát sinh nợ quá hạn từ thời điểm tháng 5/2012 thì Ngân hàng đã có thông báo mời các bên lên làm việc vào ngày 06/11/2012 và biên bản làm việc ngày 23/4/2013 có chữ ký của ông Phan Thanh Q (chủ tài sản đảm bảo đồng thời cũng là bên vay), ngày 10/10/2014 Ngân hàng đã nộp đơn phản tố. Đây là căn cứ để Ngân hàng tính lại thời hiệu khởi kiện theo quy định tại Điểm c Khoản 5 Điều 23 Nghị quyết 03/2012/NQ-HĐTP ngày 03/12/2012 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Do đó, ngày 25/11/2014, Ngân hàng có đơn yêu cầu phản tố để đòi vốn và lãi tính đến ngày 27/12/2016 trong các hợp đồng tín dụng nêu trên, cấp sơ thẩm chỉ chấp nhận yêu cầu của ngân hàng đối với tiền vốn, riêng tiền lãi thì cấp sơ thẩm đình chỉ yêu cầu giải quyết với lý do đã hết thời hiệu khởi kiện và trong quyết định của bản án sơ thẩm có nêu “Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm ông Phan Thanh Q, bà Dương Lệ M, ông Đỗ Văn Qu còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong các hợp đồng tín dụng đã ký cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này” ngày xét xử sơ thẩm là ngày 27/12/2016 như vậy án sơ thẩm chỉ chấp nhận tính lãi từ ngày 28/12/2016 trở về sau cho đến khi trả dứt nợ gốc là không đúng, vì các khoản tiền lãi kể từ khi ngân hàng có đơn yêu cầu là ngày 25/11/2014 trở về trước hai năm là ngày 25/11/2012 (do nghĩa vụ phát sinh từng tháng) vẫn còn trong thời hiệu khởi kiện của ngân hàng và tiền lãi từ ngày 25/11/2014 cho đến trở về sau vẫn phải được xem xét giải quyết, do đó cấp sơ thẩm đã đình chỉ toàn bộ yêu cầu tính lãi của ngân hàng đến ngày 27/12/2016 là không có căn cứ.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn là Ngân hàng TMCP QĐ. Hủy phần đình chỉ yêu cầu tính lãi của Ngân hàng TMCP QĐ đối với ông Phan Thanh Q, bà Dương Lệ M, ông Đỗ Văn Qu và chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

13

3

Bản án số 24/2018/KDTM-ST ngày 23 tháng 22 năm 2018 Toà án nhân dân thành phố Đà Nẵng. V/v tranh chấp “Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền và bồi thường thiệt hại”.

Nội dung:

Mối quan hệ giữa Công ty TNHH MTV A (gọi tắt là Công ty A) và Công ty TNHH B (gọi tắt là Công ty B) được thiết lập trên cơ sở hợp đồng thuê mặt bằng và trang thiết bị số 01/2014/HĐTMBTB ngày 26/9/2014 (gọi tắt là Hợp đồng). Trong đó, bên cho thuê là Công ty A, bên thuê là Công ty B; thời hạn thuê là 06 tháng tính từ ngày 01/10/2014 đến hết ngày 31/3/2015 (khoản 1 Điều 2 Hợp đồng); giá thuê là 25.000.000đ /tháng (khoản 1 Điều 3 Hợp đồng) và được thanh toán 03 tháng một lần sau khi bên cho thuê xuất hóa đơn tài chính cho bên thuê (khoản 2 Điều 3 Hợp đồng). Khi gần hết hạn Hợp đồng, vào ngày 27/3/2015, Công ty A gửi Thông báo số 11/TB-BVPN đến Công ty B thông báo về thời hạn kết thúc của Hợp đồng là ngày 31/3/2015. Sau đó, Công ty B bàn giao mặt bằng và các trang thiết bị cho Công ty A. Công ty A yêu cầu Tòa án buộc Công ty B phải thực hiện việc trả lãi suất chậm trả cho Công ty A như sau: 82.500.000 đồng x (10% năm) x 30 tháng = 24.700.000 đồng (Lãi tính từ ngày 31/3/2015 đến 30/9/2018). Tổng số tiền Công ty B phải trả là: Tiền nợ 82.500.000 đồng + tiền lãi 24.700.000 đồng = 107.200.000đ.

Nhận định của Toà án:

Ngày 25/8/2016, Công ty A đã có đơn khởi kiện đến Tòa án. Trong suốt quá trình giải quyết vụ án cho đến ngày 30/9/2018, Công ty A mới có đơn khởi kiện bổ sung về việc tính lãi suất chậm trả đối với số tiền nợ thuê mặt bằng 82.500.000đ. Ngày 31/3/2015 là ngày hết hạn thuê mặt bằng và trang thiết bị, Công ty B đã bàn giao mặt bằng và trang thiết bị, nhưng đối với tiền nợ thuê mặt bằng lại không thanh toán, vì vậy Công ty A xác định ngày 31/3/2015 là ngày quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm và yêu cầu tính lãi suất chậm trả kể từ ngày 31/3/2015. Tuy nhiên đến ngày 30/9/2018 ( 03 năm 06 tháng sau) Công ty A mới có yêu cầu tính tiền lãi. Tại phần tranh luận, đại diện theo ủy quyền của Công ty B có yêu cầu áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với tiền lãi, nên HĐXX áp dụng qui định về thời hiệu theo yêu cầu của đại diện theo ủy quyền của Công ty B là có căn cứ và phù hợp với Điều 184 Bộ luật tố tụng dân sự. Viện kiểm sát căn cứ theo công văn số 01/05.16/CV ngày 23/5/2016 để tính lại thời hiệu khởi kiện từ ngày 01/11/2016 là không có căn cứ. Vì lẽ, ngày 15/5/2016 Công ty B đã có giấy xác nhân công nợ phải trả cho Bệnh viện Phụ nữ là 82.500.000đ ( bút lục số 17). Công văn số 01/05.16/CV ngày 23/5/2016 của Công ty B có nội dung nhắc lại một lần nữa công nợ phải trả cho Công ty A là 82.500.000đ, đề nghị của đại diện Viện kiểm sát yêu cầu tính lại thời hiệu khởi kiện từ ngày 01/11/2016 là không có cơ sở theo qui định tại Điều 157 Bộ luật dân sự, nên HĐXX không chấp nhận.

Toà án tuyên xử:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện về việc “ Yêu cầu thực hiện nghĩa vụ trả tiền” với số tiền thuê mặt bằng 82.500.000đ của Công ty TNHH MTV A đối với Công ty TNHH B. Không chấp nhận yêu cầu phản tố về việc “ Yêu cầu bồi thường thiệt hại” với số tiền 192.608.355đ của Công ty TNHH B đối với Công ty TNHH MTV A.

Đình chỉ yêu cầu khởi kiện về việc “Yêu cầu trả lãi suất chậm trả” với số tiền 24.700.000đ của Công ty TNHH MTV A đối với Công ty TNHH B.

28

4

Bản án số: 155/2020/KDTM-PT ngày 29 tháng 8 năm 2020 Toà án nhân dân thành phố Hà Nội.  V/v: tranh chấp hợp đồng thi công xây dựng.

Nội dung:

Nguyên đơn- Công ty CP đầu tư, xây dựng và nạo vét đ (viết tắt CIWACO- bên B) và Bị đơn- Tổng công ty xây dựng T – CTCP( viết tắt VINAWACO – bên A), hai bên có giao kết các hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực xây dựng từ năm 2009 đến
đầu năm 2015 (Bản án sơ thẩm đã thống kê chi tiết và đầy đủ) và trong quá trình thực hiện từng hợp đồng thì bị đơn đã tạm ứng và thanh toán một phần nghĩa vụ của từng hợp đồng. Đến ngày 31/12/2015 thì hai bên đã đối chiếu công nợ do hai người đại diện theo pháp luật của hai bên thực hiện trên cơ sở rà soát, đối chiếu số liệu của các bộ phận nghiệp vụ của từng bên. Biên bản đối chiếu công nợ ngày 31/12/2015 đã ghi rõ: Tổng công ty tức Vinawaco còn nợ Công ty tức Ciwaco số tiền là 53.492.884.242 đồng, trong đó: Nợ của các hợp đồng ký kết từ 2013 trở về trước là 52.948.962.946 đồng. Nợ của các hợp đồng ký kết từ 2014 là 543.921.296 đồng. Sau khi ký đối chiếu công nợ ngày 31/12/2015 thì trong năm 2018 bị đơn đã trả nguyên đơn 03 lần vào các ngày 31/1/2018, ngày 05/2/2018 và ngày 17/4/2018 qua chuyển khoản với số tiền là 22.892.668.800 đồng theo phiếu báo có của ngân hàng thể hiện nội dung: Tổng công ty xây dựng T – CTCP thanh toán tiền thi công các dự án cho Công ty CP Đầu tư, Xây dựng và Nạo vét Đ .

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư, xây dựng và nạo vét d – CTCP(CIWACO) đối với Tổng công ty xây dựng T(VINAWACO)

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Xem xét yêu cầu tính lại thời hiệu khởi kiện của bị đơn trong vụ án này thì thấy rằng hai bên có giao kết các hợp đồng kinh tế trong lĩnh vực xây dựng từ năm 2009 đến đầu năm 2015 (Bản án sơ thẩm đã thống kê chi tiết và đầy đủ) và trong quá trình thực hiện từng hợp đồng thì bị đơn đã tạm ứng và thanh toán một phần nghĩa vụ của từng hợp đồng. Đến ngày 31/12/2015 thì hai bên đã đối chiếu công nợ do hai người đại diện theo pháp luật của hai bên thực hiện trên cơ sở rà soát, đối chiếu số liệu của các bộ phận nghiệp vụ của từng bên. Biên bản đối chiếu công nợ ngày 31/12/2015 đã ghi rõ: Tổng công ty tức Vinawaco còn nợ Công ty tức Ciwaco số tiền là 53.492.884.242 đồng, trong đó:

Nợ của các hợp đồng ký kết từ 2013 trở về trước là 52.948.962.946 đồng. Nợ của các hợp đồng ký kết từ 2014 là 543.921.296 đồng. Sau khi ký đối chiếu công nợ ngày 31/12/2015 thì trong năm 2018 bị đơn đã trả nguyên đơn 03 lần vào các ngày 31/1/2018, ngày 05/2/2018 và ngày 17/4/2018 qua chuyển khoản với số tiền là 22.892.668.800 đồng theo phiếu báo có của ngân hàng thể hiện nội dung: Tổng công ty xây dựng T – CTCP thanh toán tiền thi công các dự án cho Công ty CP Đầu tư, Xây dựng và Nạo vét Đ . Ngày 22/1/2019, Tòa án sơ thẩm thụ lý vụ án, như vậy theo điểm b khoản 1 Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005 cũng như điểm b khoản 1 Điều 157 Bộ luật dân sự năm 2015 thì các yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đều còn trong thời hiệu khởi kiện (đó là chưa nói đến việc các hợp đồng ký từ năm 2014 thì đến 24/1/2017 phía bị đơn đã thanh toán cho nguyên đơn 1.996.385.476 đồng).

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần đầu tư, xây dựng và nạo vét d – CTCP(CIWACO) đối với Tổng công ty xây dựng T(VINAWACO)

2. Buộc Tổng công ty xây dựng T- CTCP(VINAWACO) phải thanh toán cho Công ty cổ phần đầu tư, xây dựng và nạo vét d (CIWACO)số tiền gốc và lãi tính đến ngày 05/6/2020 (sau khi đã đối trừ số tiền chi phí bù cát 583.765.998 đồng), như sau: Tiền gốc: 31.968.063.968 đồng. Tiền lãi: 25.963.506.497 đồng. Tổng cộng: 57.931.570.465 đồng (năm mươi bảy tỷ, chín trăm ba mươi mốt triệu, năm trăn bẩy mươi nghìn, bốn trăm sáu mươi lăm đồng).

3. Số tiền 583.765.998 đồng (chi phí bù cát) đã được đối trừ cho Tổng công ty xây dựng T- CTCP, Tổng công ty xây dựng T- CTCP có trách nhiệm xuất Hóa đơn giá trị gia tăng cho Công ty cổ phần đầu tư, xây dựng và nạo vét d .

44

5

Bản án số 212/2021/DS-ST ngày 05 tháng 7 năm 2021 Toà án nhân dân huyện Krông Pắc, tỉnh Đắk Lắk.  V/v: Tranh chấp hợp đồng giao khoán.

Nội dung:

Nguyên đơn ông Đào Anh Đ đồng thời là người đại diện theo ủy quyền của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Nguyễn Thị T, ông Đào Anh Đ trình bày: Vào ngày 25/8/2011, bà Nguyễn Thị T có đơn xin hợp đồng khoán gọn vườn cây cà phê cho hộ nông trường viên gửi Công ty TNHH MTV cà phê T (Nay là Công ty Cổ phần cà phê T) để nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối trồng năm 1990 của Công ty có diện tích 10.500m2. Trên cơ sở đơn của bà Nguyễn Thị T thì vào ngày 27/8/2011 giữa bà Nguyễn Thị T với Công ty TNHH MTV cà phê T đã ký Hợp đồng số 553/2011/HĐ-GK với nhau. Theo hợp đồng số 553/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 thì: bà Nguyễn Thị T đã nhận khoán chăm sóc vườn cây cà phê Vối của Công ty có diện tích 10.500m2 (tương ứng với 1,050ha), diện tích bờ lô 1.525m2. Địa điểm đất giao khoán thuộc đội 17/3, thửa đất số 04b, tờ bản đồ số 12, địa chỉ thửa đất: thuộc xã H, huyện K, tỉnh Đắk Lắk. Nguyên giá vườn cây khi nhận khoán có giá là: 51.834.381đồng; Giá trị vườn cây còn lại: 30.913.581đồng. Phần giá trị vườn cây trên đất Công ty góp 51%, chủ hộ góp 49%. Thời hạn giao khoán là 06 năm, tính từ ngày ký kết hợp đồng. Mức giao khoán hằng năm bà T phải nộp về Công ty theo thoả thuận trong Hợp đồng giao khoán. Kể từ khi nhận khoán vườn cây cho đến niên vụ cà phê 2012-2013, bà T đã thực hiện nghĩa vụ chăm sóc vườn cây theo đúng quy định của Công ty và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ giao nộp sản phẩm theo Hợp đồng giao khoán vườn cây đã ký với Công ty. Bà T khởi kiện yêu cầu công ty T thanh toán 1.020.000đồng (Một triệu, không trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền thủy lợi phí tiền khấu hao kênh mương. Và bà T đề nghị Tòa án căn cứ Điều 162 của Bộ luật dân sự 2005 để xem xét tính lại thời hiệu khởi kiện và không áp dụng Điều 427 của Bộ luật dân sự 2005 trong trường hợp của bà. Đối với ông Đ thì Công ty thu từ năm 2014-2017, bình quân mỗi năm là 267.750đồng/năm/1,05ha theo danh sách của Công ty.

Nhận định của Toà án:

Ngày 12/02/2019 Công ty TNHH MTV cà phê T có Tờ trình số 22/TTr-CTTNHH gửi UBND tỉnh Đắk Lắk nên ngày 11 tháng 4 năm 2019 UBND tỉnh Đắk Lắk đã có Công văn số 2832/UBND-KT về việc thanh toán lại khoản tiền khấu hao kênh mương, hồ đập của Công ty TNHH MTV cà phê T; Thông báo số 72/TB-Cty ngày 24/4/2019 của Công ty TNHH MTV cà phê T; Phiếu chi đề ngày 06/5/2019 của Công ty TNHH MTV cà phê T. Trong danh sách Công ty thu tiền khấu hao kênh mương phần 51% của Công ty, Công ty có thu của bà và thời gian thu từ năm 2011 đến năm 2013, bình quân mỗi năm là 267.750đồng/năm/1,05ha nên tổng thu là 803.250đồng. Bà T chỉ khởi kiện cho diện tích 01ha nên số tiền là 765.000đồng và bà đề nghị Tòa án căn cứ Điều 162 của Bộ luật dân sự 2005 để tính lại thời hiệu khởi kiện của bà. Như vậy, mặc dù thời hiệu khởi kiện của Hợp đồng số 553/2011/HĐ-GK ngày 27/8/2011 giữa bà T với Công ty không còn nhưng căn cứ vào Tờ trình số 22/TTr-CTTNHH ngày 12/02/2019 của Công ty TNHH MTV cà phê T; Công văn số 2832/UBND-KT ngày 11 tháng 4 năm 2019 của UBND tỉnh Đắk Lắk về việc thanh toán lại khoản tiền khấu hao kênh mương, hồ đập của Công ty TNHH MTV cà phê T; Thông báo số 72/TB-Cty ngày 24/4/2019 của Công ty TNHH MTV cà phê T; Phiếu chi đề ngày 06/5/2019 của Công ty TNHH MTV cà phê T nên Hội đồng xét xử cần căn cứ vào Điều 162 của Bộ luật dân sự năm 2005 để áp dụng tính lại thời hiệu khởi kiện của bà T đối với Công ty để chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T. Và không chấp nhận lời trình bày của bị đơn về việc đề nghị Tòa án áp dụng Điều 424, 427 của Bộ luật dân sự 2005 để đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T do hết thời hiệu khởi kiện.

Toà án tuyên xử:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đào Anh Đ về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê T phải trả lại cho ông số tiền thủy lợi phí tiền khấu hao kênh mương cho diện tích 01ha (từ năm 2014-2017) với số tiền là 1.020.000đồng (Một triệu, không trăm hai mươi nghìn đồng); Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của ông Đào Anh Đ đối với tổng số tiền là 115.338.753,2đồng (Một trăm mười lăm triệu, ba trăm ba mươi tám nghìn, bảy trăm năm mươi ba phẩy hai đồng). Ông Đào Anh Đ được quyền khởi kiện lại đối với số tiền trên theo quy định của pháp luật.

63

6

Bản án số 155/2021/DS-PT ngày 26 tháng 9 năm 2021 Toà án nhân dân tỉnh Đắk Lắk. V/v: “Tranh chấp hợp đồng thuê khoán”

Nội dung:

Vào ngày 27 tháng 8 năm 2011, giữa Công ty TNHH MTV cà phê L (Nay là Công ty Cổ phần cà phê L – sau đây viết tắt là Công ty) với bà Nguyễn Thị Vĩnh T có ký kết hợp đồng khoán gọn số 312/2011/HĐ-GK. Ngày 18/12/2015, UBND tỉnh Đăk Lăk ban hành Công văn về việc thanh lý diện tích cà phê già cỗi. Ngày 25/12/2015, Công ty đã ban hành Thông báo số 01/TB-CT “V/v thanh lý vườn cây cà phê già cỗi và bị sâu bệnh, kém phát triển năm 2016”. Như vậy, Hợp đồng khoán gọn giữa bà T và Công ty đã chấm dứt từ ngày 25/12/2015. Tuy nhiên, vào ngày 11/4/2019, UBND tỉnh Đắk Lắk có Công văn số 2832/UBND-KT về việc đồng ý chủ trương cho Công ty TNHH MTV cà phê L thanh toán lại khoản tiền khấu hao kênh mương, hồ đập đã thu của các hộ nhận khoán. Ngày
24/4/2019, Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV cà phê L có Thông báo số 72/TBCty về việc Công ty thanh toán khoản tiền khấu hao kênh mương đã thu của các hộ nhận khoán gọn vườn cây (phần 51%) từ năm 2011 đến 2017. Bảng kê chi tiết từng hộ có bà Nguyễn Thị Vĩnh T. Bà T khởi kiện yêu cầu công ty T thanh toán 1.020.000đồng (Một triệu, không trăm hai mươi nghìn đồng) là tiền thủy lợi phí tiền khấu hao kênh mương. Và bà T đề nghị Tòa án căn cứ Điều 162 của Bộ luật dân sự 2005 để xem xét tính lại thời hiệu khởi k iện và không áp dụng Điều 427 của Bộ luật dân sự 2005 trong trường hợp của bà. Đối với ông Đ thì Công ty thu từ năm 2014-2017, bình quân mỗi năm là 267.750đồng/năm/1,05ha theo danh sách của Công ty.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên xử:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Vĩnh T về việc: Buộc Công ty Cổ phần cà phê L phải trả lại cho bà số tiền thủy lợi phí tiền khấu hao kênh mương cho diện tích 0,959ha (từ năm 2011-2015) là 1.222.725đồng (Một triệu, hai trăm hai mươi hai nghìn, bảy trăm hai mươi lăm đồng).

2. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Vĩnh T đối với tổng số tiền 115.136.028,2đồng (Một trăm mười lăm triệu, một trăm ba mươi sáu nghìn, không trăm hai mươi tám phẩy hai đồng).

Nhận định của Toà án cấp phúc thẩm:

Vào ngày 11/4/2019, UBND tỉnh Đắk Lắk có Công văn số
2832/UBND-KT về việc đồng ý chủ trương cho Công ty TNHH MTV cà phê L thanh toán lại khoản tiền khấu hao kênh mương, hồ đập đã thu của các hộ nhận khoán. Ngày 24/4/2019, Tổng Giám đốc Công ty TNHH MTV cà phê L có Thông báo số 72/TBCty về việc Công ty thanh toán khoản tiền khấu hao kênh mương đã thu của các hộ nhận khoán gọn vườn cây (phần 51%) từ năm 2011 đến 2017. Bảng kê chi tiết từng hộ có bà Nguyễn Thị Vĩnh T. Như vậy, khi Công ty ban hành thông báo thanh toán lại khoản tiền khấu hao kênh mương đã thu của các hộ nhận khoán là thừa nhận nghĩa vụ đối với bà T. Đến ngày 31/7/2021, bà T nộp đơn khởi kiện là còn thời hiệu quy định tại Điều 157 và Điều 249 BLDS 2015. Do đó, bị đơn kháng cáo cho rằng thời hiệu khởi kiện vụ án không còn là không có căn cứ chấp nhận.

Toà án cấp phúc thẩm tuyên xử:

Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần cà phê L. Giữ nguyên Bản án Dân sự sơ thẩm 194/2021/DS-ST ngày 29/6/2021 của Tòa án nhân dân huyện Krông Pắc;

78

LINK PDF: Tổng hợp 06 bản án về trường hợp tính lại thời hiệu khởi kiện

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

 

Bài viết liên quan