NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Nguyên đơn bà Trương Thị Ngọc D yêu cầu bị đơn bà Hồ Thị Mai T (tên gọi khác là T) trả số tiền còn nợ là 200.000.000 đồng, chứng cứ nguyên đơn cung cấp là 02 giấy nợ (BL số 7,8). Bị đơn không đồng ý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với lý do bị đơn không có vay tiền của nguyên đơn, giữa nguyên đơn và bị đơn không có hợp đồng vay tiền hay biên nhận nợ nào, các biên nhận mà nguyên đơn cung cấp cho Toà án không thể hiện nội dung nào bị đơn có vay của nguyên đơn số tiền 200.000.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm căn cứ vào Biên bản xác minh ngày 08/3/2021 của TAND huyện Chợ Lách và Biên bản làm việc ngày 14/6/2021 có nội dung bị đơn thừa nhận còn nợ nguyên đơn số tiền 217.000.000 đồng để chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Do không đồng ý với quyết định của bản án sơ thẩm nên bị đơn có đơn kháng cáo.
[2] Xét thấy, mặc dù các giấy nợ do bà D cung cấp không thể hiện rõ nội dung bà T còn nợ bà D số tiền 200.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại Biên bản xác minh ngày 08/3/2021 của TAND huyện Chợ Lách có nội dung: “Bà Hồ Thị Mai T thừa nhận có vay của bà D nhiều lần, đến ngày 05/7/2019 âm lịch hai bên chốt nợ, bà T còn nợ bà D 322.800.000 đồng và thoả thuận mỗi ngày trả 2.000.000 đồng cho đến khi hết nợ. bà T góp được 529 ngày, tổng số tiền 105.800.000 đồng tính đến ngày 14/01/2021 âm lịch. Sau đó ngày 23/01/2021 âm lịch bà T có đến nhà bà D trả 2.000.000 đồng, tương đương 10 ngày từ 14/01/2021 đến 23/01/2021 nhưng bà D cho rằng đã khởi kiện ra toà nên không nhận. Nay bà Hồ Thị Mai T xác nhận còn nợ số tiền 217.000.000 đồng, bà T đồng ý tiếp tục trả theo thoả thuận mỗi ngày 200.000 đồng cho đến khi hết số nợ 217.000.000 đồng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn…”. Kết thúc biên bản có đọc lại cho tất cả cùng nghe, bà T đồng ý ký tên và có chữ ký của người làm chứng là ông Võ Hoàng K là Trưởng Khu phố. Tại Biên bản làm việc ngày 14/6/2021 đối với ông Võ Hoàng K xác nhận: Tại buổi làm việc với cán bộ Toà án, bà T còn mang sổ theo dõi của bà ra để kiểm tra, sau khi kiểm tra bà T xác nhận còn nợ bà D 217.000.000 đồng. Sau khi lập biên bản xong cán bộ Toà án có đọc lại nội dung biên bản cho bà T nghe, bà T nghe xong thống nhất với nội dung ghi trong biên bản và ký tên trong biên bản với sự chứng kiến của cán bộ Toà án. Do đó, mặc dù các giấy nợ do bà D cung cấp chưa đủ căn cứ chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của bà D, tuy nhiên căn cứ vào Biên bản xác minh ngày 08/3/2021 và Biên bản làm việc ngày 14/6/2021 của TAND huyện Chợ Lách thì bà T đã thừa nhận còn nợ của bà D số tiền 217.000.000 đồng. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà D trình bày, do bà T khó khăn nên bà chỉ yêu cầu trả 200.000.000 đồng, bà không yêu cầu tính lãi.
[3] Tại phiên toà phúc thẩm, người đại diện theo uỷ quyền của bà T cho rằng, các giấy nợ do bà D tự ghi có tên người mượn tiền là “T” nhưng không ghi tên là “Hồ Thị Mai T” nên không xác định bà “T” chính là “Hồ Thị Mai T”, tuy nhiên căn cứ Đơn xin xác nhận của bà D đối với bà Hồ Thị Mai T (BL 18) thì Công an thị trấn C xác nhận “đương sự Hồ Thị Mai T (tên gọi khác là T) đang sinh sống và làm việc tại khu phố H, trị trấn Chợ Lách, huyện C, tỉnh Bến Tre”; đồng thời trong quá trình giải quyết vụ án, Toà án cấp sơ thẩm có tống đạt các văn bản tố tụng cho bà Hồ Thị Mai T thì bà T (T) cũng đồng ý nhận và ký tên. Bị đơn còn cho rằng, biên bản xác minh ngày 08/3/2021 của TAND huyện Chợ Lách không khách quan, vì lúc đó đang rất ồn, bà T là người dân tộc Hoa, không hiểu biết Tiếng Việt nên mới ký tên mà không hiểu rõ nội dung, biên bản lập không có mặt Thẩm phán và ghi trùng thời gian bắt đầu và kết thúc nên không có cơ sở xem là chứng cứ. Tuy nhiên tại phiên toà, người đại diện của bà T thừa nhận, bà T từ nhỏ đến lớn sinh sống ở Bến Tre và làm nghề “đại lý vé số”, và mặc dù biên bản ghi trùng thời gian và không có mặt Thẩm phán, nhưng có đọc lại cho tất cả cùng nghe, bà T đồng ý rồi mới ký tên, nên không làm thay đổi bản chất của sự việc, do đó lời trình bày của bị đơn là không có cơ sở xem xét.
[4] Từ những phân tích nêu trên, xét kháng cáo của bị đơn là không có cơ sở nên không được chấp nhận.
[5] Quan điểm của Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh Bến Tre phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.
[6] Án phí dân sự phúc thẩm: Bà Hồ Thị Mai T phải chịu án phí là 300.000 đồng.
[Nguồn: Bản án số: 30/2022/DS-PT ngày 21/2/2022 của TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH BẾN TRE]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 30/2022/DS-PT
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn