Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hôn nhân và GĐ / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho tài sản vô hiệu và Chia tài sản nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Bản án yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho tài sản vô hiệu và Chia tài sản nam, nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ các yêu cầu của ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 yêu cầu Tòa án giải quyết, Tòa án xác định quan hệ pháp luật tranh chấp là “yêu cầu tuyên bố hợp đồng tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vô hiệu; yêu cầu chia tài sản của nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn”, được quy định tại khoản 7 Điều 28 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Yên Bái.

Tại phiên tòa, Nguyên đơn, bị đơn đồng thời là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt nhưng có người đại diện theo ủy quyền và người bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp có mặt; Người đại diện Văn phòng công chứng Nguyễn N vắng mặt. Căn cứ Điều 227; Điều 228 Bộ luật TTDS 2015, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

 [2] Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942; ý kiến trình bày của bị đơn ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 – Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Nguyễn Thị B, sinh năm 1952 (đã chết ngày 07/3/2022) đồng thời là người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan và những người tham gia tố tụng khác, căn cứ các tài liệu, chứng cứ do các đương sự cung cấp và Tòa án đã thu thập, thấy rằng: Ông Nguyễn Văn H sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị B (đã chết ngày 07/3/2022) chung sống với nhau như vợ chồng từ năm 1995 nhưng không có đăng ký kết hôn. Quá trình chung sống, bà B và ông H không có con chung, con riêng, con nuôi. Bố bà B là cụ Nguyễn Văn T6, sinh năm 1914, mẹ bà B là cụ Nguyễn Thị N3, sinh năm 1921 đều đã chết. Bà B chỉ còn người em ruột duy nhất là ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955.

Theo kết quả xem xét, thẩm định tại chỗ thì tài sản tranh chấp ông Nguyễn Văn H (sinh năm 1942) yêu cầu chia là quyền sử dụng đất diện tích 81,2m2 , tài sản gắn liền với đất là 01 căn nhà cấp 04, hai tầng, công trình vệ sinh khép kín. Tổng giá trị tài sản theo kết quả của Hội đồng định giá tài sản xác định là 1.630.544.600đồng (Một tỷ, sáu trăm ba mươi triệu, năm trăm bốn mươi bốn nghìn, sáu trăm đồng). Trong đó giá trị quyền sử dụng đất là: 1.461.600.000đồng; giá tài sản gắn liền với đất là 168.944.600đồng.

Xét nguồn gốc tài sản tranh chấp:

Theo quyết định số 50/TC.XN ngày 10/10/1992 của Xí nghiệp dược phẩm thuộc Sở y tế tỉnh Yên Bái thể hiện, bà Nguyễn Thị B được Xí nghiệp bán thanh lý cho một lô đất có diện tích 45m2 , có chiều rộng 2,5m; chiều dài 18, thuộc gian số 5, tài sản gắn liền với đất có 01 ngôi nhà, không thể hiện kết cấu ngôi nhà là nhà xây hay nhà gỗ (theo nguyên đơn trình bày là nhà gỗ và đã được phá bỏ hoàn toàn để xây nhà mới vào năm 2003). Đến thời điểm phát sinh tranh chấp, tài sản nguyên đơn – ông H, sinh năm 1942 yêu cầu Tòa án chia là quyền sử dụng đất diện tích 81,2m2 , tài sản gắn liền với đất là 01 ngôi nhà cấp 04, hai tầng. Như vậy, tài sản tại thời điểm bà B chưa chung sống với ông H, sinh năm 1942 như vợ chồng và tài sản tại thời điểm nguyên đơn (ông H, sinh năm 1942) có yêu cầu chia đã có sự thay đổi về diện tích đất và kết cấu tài sản gắn liền với đất.

* Về nguồn gốc đất:

Diện tích đất hiện nay ông H, sinh năm 1942 đang quản lý, sử dụng là 81,2m2 ; có chiều rộng phía trước theo mặt đường Y là 4m, chiều rộng phía sau giáp trường mầm non Bông Sen là 4,1m; chiều dài cạnh giáp nhà ông Như Đình A là 20,3m; chiều dài cạnh giáp nhà ông Nguyễn Hồng Q là 19,3m. Diện tích đất nguyên đơn đang quản lý, sử dụng nhiều hơn so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là 9,2m2 (81,2m2 – 72m2 = 9,2m2 ).

Có căn cứ xác định, khoảng đầu năm 1996 ông Nguyễn Văn H có mua của bà Phạm Thị N1 01 lô đất với diện tích 45m2 (chiều rộng là 2,5m, chiều dài là 18m), vị trí lô đất ông H mua thêm liền kề với thửa đất của bà B đã mua thanh lý trước đó, do bà N1 cũng được Xí nghiệp dược phẩm bán thanh lý cùng thời điểm với bà B, trên đất có 01 ngôi nhà gỗ. Tổng diện tích đất do ông H, bà B quản lý, sử dụng là 90m2 . Chiều rộng là 05m, chiều dài 18m. Cuối năm 1996, hộ bà Nguyễn Thị B làm thủ tục xin được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (viết tắt GCNQSDĐ). Theo sơ đồ kỹ thuật thửa đất được thực hiện tháng 12 năm 1996 thì lô đất bà B xin cấp GCNQSDĐ có diện tích 72m2 ; chiều rộng 4m, chiều dài 18m, nhưng trên sơ đồ thể hiện còn dư phần đất diện tích 18m (rộng 1m, dài 18m). Đến ngày 03/7/2000 hộ bà Nguyễn Thị B được cấp GCNQSDĐ diện tích 72m2 , phần đất dôi dư 18m2 , thể hiện trong sơ đồ thửa đất tháng 12/1996, ông bà H B vẫn quản lý, sử dụng nhưng không nằm trong GCNQSDĐ đứng tên hộ bà Nguyễn Thị B.

Đến năm 1997, ông H mua tiếp một lô đất diện tích 45m2 (trong đó chiều rộng là 2,5m, chiều dài là 18m) của anh Nguyễn Trường T4, liền kề với lô đất ông H mua được của bà N1 đầu năm 1996. Nguồn gốc lô đất này là của bà Trịnh Thị T7, được mua thanh lý cùng với thời điểm bà B, bà N1 vào năm 1992, đã được chuyển quyền sở hữu qua nhiều chủ, đến lúc ông H mua lại của anh Nguyễn Trường T4 với số tiền là 12.000.000đồng chẵn. Diện tích đất 18m2 (chưa được cấp GCNQSDĐ) cộng với 45m2 đất ông H mua thêm của anh Tuân là 63m2 .

Như vậy, sau khi ông H, sinh năm 1942 về chung sống với bà B như vợ chồng, ông đã bỏ tiền riêng của mình ra mua thêm phần đất có diện tích 90m2 , cộng với phần đất bà B được mua thanh lý năm 1992 là 45m2 , thì tổng diện tích thửa đất là 135m2 . Đến năm 1999, ông H đã bán đi 63m2 (chiều rộng 3,5m, chiều dài 18m). Do đó, diện tích đất còn lại là 72m2 . Số tiền có được do bán đất, ông H giao cho bà B quản lý, sử dụng. Xét thấy, lời khai của chị H1 – đại diện theo ủy quyền của Nguyên đơn về nguồn gốc diện tích đất tranh chấp hoàn toàn phù hợp với diện tích đất trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái cấp cho bà Nguyễn Thị B năm 2000 và sơ đồ kỹ thuật thửa đất lập tháng 12/1996 (không xác định được ngày lập), phù hợp với lời khai của những người làm chứng là Tạ Thị M, Nguyễn Trường T4, Như Đình A và Nguyễn Thị Thanh T5. Do đó, có cơ sở xác định phần diện tích đất nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia là tài sản chung của ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị B.

* Về nguồn gốc tài sản gắn liền với đất: Năm 1992, bà Nguyễn Thị B được Xí nghiệp dược phẩm bán thanh lý cho 01 ngôi nhà gỗ trên diện tích đất 45m2 . Đến năm 2003, ông H và bà B đã dỡ bỏ hoàn toàn ngôi nhà gỗ và xây dựng nên căn nhà cấp 04, hai tầng hiện tại. Có căn cứ xác định, quá trình xây nhà, thuê thiết kế, mua sắm vật liệu xây dựng, thuê thợ, trả công thợ…đều do ông Nguyễn Văn H đứng ra thanh toán bằng nguồn tiền riêng của ông H. Qua các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ thể hiện, trước khi chuyển về chung sống với bà B (năm 1995) như vợ chồng, ông H có nguồn tài chính từ việc bán hai lô đất thuộc sở hữu của ông cho bà Bùi Thị L3 (bán năm 1991) và ông Nguyễn Quang T2 (bán năm 1992), số tiền bán hai thửa đất là 68.000.000đồng. Đến năm 1995, ông H chuyển về chung sống như vợ chồng với bà B đã sử dụng nguồn tiền này để mua thêm 02 lô đất liền kề diện tích 90m2 của bà N1 và bà T7 bên cạnh, sau đó ông H, bà B thống nhất bán bớt phần đất 63m2 , số tiền bán đất ông H, sinh năm 1942 giao cho bà B quản lý, sử dụng. Quá trình chung sống, hai ông bà có nghề bán thuốc bắc, ông xay thuốc bán cho khách còn bà B là người thu tiền, cả hai ông bà cùng nhau đóng góp công sức tạo lập nên khối tài sản chung. Lời khai của ông H, sinh năm 1942 hoàn toàn phù hợp với lời khai của những người làm chứng là các ông Trần Mạnh H4, Nguyễn Anh H5, Phạm Thành C và Vũ Văn K do những người này đã trực tiếp giao dịch, thực hiện các công việc theo yêu cầu của ông H và nhận tiền thanh toán của ông H, sinh năm 1942. Lời khai của những người làm chứng nêu trên đã được ghi nhận bằng văn bản do Văn phòng Thừa phát lại Mỹ H thực hiện nên được sử dụng trong việc giải quyết vụ án dân sự và là tài liệu, chứng cứ không cần phải chứng minh.

Từ những phân tích nêu trên, có căn cứ xác định quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất đứng tên hộ bà Nguyễn Thị B tại tổ 03, phường M, thành phố Y là tài sản chung của ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị B, xác định tỷ lệ công sức mỗi bên đóng góp trong khối tài sản chung là 50%. Mặc dù, ông H và bà B không đăng ký kết hôn, nhưng tài sản thuộc quyền sở hữu chung khi định đoạt phải được sự đồng ý của các đồng sở hữu. Việc bà B tự ý lập hợp đồng tặng cho tài sản là nhà và đất thuộc quyền sở hữu của bà và ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 cho em trai của bà là Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 mà không được sự đồng ý của ông H, sinh năm 1942 là xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, vi phạm điều cấm của luật.

Quá trình tiếp nhận hồ sơ, yêu cầu công chứng hợp đồng tặng cho tài sản giữa bà Nguyễn Thị B và ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 Văn phòng công chứng Nguyễn N đã không thẩm tra, xác minh rõ về nguồn gốc của tài sản, mặc nhiên cho rằng tài sản tặng cho là tài sản riêng của bà B nên đã thực hiện việc công chứng Hợp đồng tặng cho tài sản giữa bà Nguyễn Thị B và ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 là chưa tuân thủ đúng quy định của pháp luật công chứng. Xâm phạm nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên đơn.

Xét Hợp đồng tặng cho Quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số 267, quyển số 01/2022TP/CC-SCC/HĐGD do Văn phòng Công chứng Nguyễn N công chứng ngày 27/01/2022 chưa thỏa mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật về quyền tặng cho tài sản là quyền sử dụng đất nên không có cơ sở để áp dụng Án lệ số 52/2021/AL được Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 25/11/2021 và được công bố theo quyết định số 594/QĐ-CA ngày 31 tháng 12 năm 2021 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc tuyên bố Hợp đồng tặng cho tài sản số 267 ký ngày 27/01/2022 giữa bên tặng cho là bà Nguyễn Thị B và bên được tặng cho là ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 vô hiệu. Tuy nhiên, Tòa án không xử lý hậu quả của hợp đồng vô hiệu, do đối tượng của hợp đồng tặng cho tài sản là nhà đất nguyên đơn đang quản lý, sử dụng và là đối tượng nguyên đơn yêu cầu Tòa án chia trong vụ án này.

Xét thấy, tài sản là nhà đất đứng tên bà Nguyễn Thị B là tài sản chung hợp nhất, xét công sức mỗi bên đóng góp trong việc tạo lập khối tài sản chung là 50%. Do đó, mỗi bên được hưởng 50% giá trị của tài sản. Bà B đã chết ngày 07/3/2022, ông H, sinh năm 1942 là người đang trực tiếp quản lý đối với tài sản và đây cũng là nơi ở duy nhất của ông, ông H là người cao tuổi (82 tuổi), đã già yếu ngoài chỗ ở này ra, không còn nơi ở nào khác. Do đó, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn về việc chia tài sản chung giữa ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 và bà Nguyễn Thị B theo hướng giao nhà đất cho ông H quản lý, sử dụng. Ông H, sinh năm 1942 có nghĩa vụ thanh toán cho bà Nguyễn Thị B chênh lệch giá trị tài sản trị giá bằng tiền là 815.272.300đồng. Do bà B đã chết, chỉ còn người thân duy nhất là ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 (là em trai ruột) thuộc diện thừa kế của bà B, nên phần tài sản bà B được chia, cần giao cho ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 quản lý.

* Về phần diện tích đất tăng thêm là 9,2m2 , chưa được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hiện tại ông H (sinh năm 1942), đang quản lý, sử dụng. Qúa trình xác minh tại Ủy ban nhân dân phường M, thành phố Y đã xác định là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất và quy hoạch chi tiết phân khu phường, đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Phần đất này ông H sử dụng nhiều năm, đã xây công trình vệ sinh trên đất, không có tranh chấp với ai nên cần tiếp tục giao cho ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942 tiếp tục quản lý, sử dụng.

[3] Về án phí: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1942, bị đơn: ông Nguyễn Văn H3, sinh năm 1955 – Người kế thừa quyền, nghĩa vụ của bà Nguyễn Thị B là người cao tuổi và đều có đơn xin được miễn án phí, căn cứ điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016, nên được miễn nộp.

[4] Về chi phí tố tụng khác: Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án tiến hành xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản đã chi phí hết số tiền là 13.340.000đồng. Mỗi bên đương sự phải chịu số tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ và định giá tài sản tương ứng với giá trị tài sản được chia là: 13.340.000đồng/2 = 6.670.000đồng. Xác nhận các đương sự đã nộp đủ tiền.

[5] Xét đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật nên được HĐXX chấp nhận.

[6] Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật

[Nguồn: Bản án GĐT số 25/2023/HNGĐ-ST ngày 26/7/2023 của TÒA ÁN NHÂN THÀNH PHỐ YÊN BÁN – TỈNH THÁI NGUYÊN]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 25/2023/HNGĐ-ST 

———–

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan