NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết, việc giao nộp tài liệu chứng cứ của đương sự: Các đương sự có ký kết HĐLĐ, nguyên đơn cho rằng bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật đã xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình nên khởi kiện. Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 32 Bộ luật Tố tụng 16 dân sự, xác định quan hệ pháp luật là “Tranh chấp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”. Đây là tranh chấp giữa cá nhân NLĐ với NSDLĐ thuộc trường hợp không phải thông qua hòa giải của hòa giải viên lao động. Bị đơn có trụ sở tại thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên.
[2] Việc giao nộp, thu thập, tiếp cận các tài liệu, chứng cứ: Sau khi Tòa án mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, các đương sự tiếp tục nộp các tài liệu chứng cứ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho mình đồng thời yêu cầu Tòa án thu thập bổ sung tài liệu chứng cứ, trước khi mở phiên tòa các đương sự đều đã được tiếp cận các tài liệu, chứng cứ mới do các bên giao nộp và Tòa án thu thập. Sau khi kết thúc phần tranh tụng tại phiên tòa, quá trình nghị án Hội đồng xét xử xét thấy cần thu thập thêm tài liệu để đánh giá chứng cứ, đảm bảo cho vụ việc được giải quyết một cách toàn diện, khách quan hơn nhưng không cần thiết phải tạm ngừng phiên tòa làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án phù hợp nguyên tắc giải quyết kịp thời, công bằng, công khai quy định tại Điều 15 Bộ luật Tố tụng dân sự. Hội đồng xét xử đã quay lại phần hỏi, đồng thời công bố tài liệu mới thu thập là Danh sách đăng ký bảo hiểm xã hội tại phiên tòa để các đương sự được biết và có ý kiến, đảm bảo mọi chứng cứ được công bố đúng quy định tại khoản 1 Điều 109 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[3] Về quan hệ lao động xác lập, thực hiện giữa các bên: Căn cứ HĐLĐ ký ngày 22/9/2019 giữa Công ty và bà Trương Cẩm M xác định đây là HĐLĐ xác định thời hạn 02 năm kể từ ngày 22/9/2019 đến ngày 21/9/2021, vị trí việc làm là Giám đốc sản xuất (Production Director) với mức lương gộp trong thời gian làm việc là 258.060.000 đồng/tháng. Ngày 01/02/2020 mức lương của bà M được điều chỉnh theo Phụ lục HĐLĐ là 265.801.800 đồng/tháng tính từ ngày 01/02/2020. Ngoài mức lương này bà M còn được hưởng phụ cấp nhà ở, bảo hiểm sức khỏe và các chế độ khác theo pháp luật lao động. Ngày 26/5/2020, Công ty ban hành Thông báo chấm dứt HĐLĐ và Quyết định chấm dứt HĐLĐ với bà M, việc chấm dứt HĐLĐ có hiệu lực từ ngày 30/6/2020 với nguyên nhân “Do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19, Công ty buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc và cắt giảm nhân sự” với căn cứ pháp lý là Điều 44 BLLĐ. Kèm theo Quyết định chấm dứt HĐLĐ là Phụ lục khoản thanh toán cuối cùng số tiền 315.737.088 đồng bao gồm tiền lương tính từ ngày 26/5/2020 đến ngày 30/6/2020, tiền lương trên số ngày phép năm còn lại, tiền hỗ trợ. Ngoài ra Công ty đã đóng bảo hiểm xã hội cho bà M đến ngày 30/6/2020, thanh toán tiền nhà ở, chi phí bảo hiểm sức khỏe cho bà M tính đến ngày 30/6/2020. Ngày 27/5/2020, Công ty giao cho bà M Thông báo và Quyết định chấm dứt HĐLĐ và yêu cầu bà M phải bàn giao lại các công cụ làm việc, bà M đã viết vào biên bản bàn giao nội dung “Tôi hoàn toàn không đồng ý với quyết định chấm dứt”. Công ty yêu cầu bà M ra khỏi Công ty và không được làm việc kể từ ngày 27/5/2020. Bà M không đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động, như vậy Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà M và quyền, lợi ích hợp pháp của bà M bị xâm phạm kể từ ngày 27/5/2020.
[4] Xét về trình tự, thủ tục chấm dứt hợp đồng lao động: Căn cứ Danh sách người lao động phải chấm dứt HĐLĐ kèm theo PASDLĐ; Công văn số 29 về việc thông báo thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động và giải quyết chế độ mất việc làm cho NLĐ, PASDLĐ cùng ngày 18/5/2020 của Công ty gửi BQLKCN xác định việc Công ty cho thôi việc bà M là thuộc trường hợp cho thôi việc đối với nhiều người lao động. Căn cứ quy định tại khoản 3 Điều 44 BLLĐ năm 2012 thì chỉ cho thôi việc NLĐ sau khi đã trao đổi với đại diện tập thể lao động cơ sở và thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh. Căn cứ nội dung Biên bản làm việc ngày 29/4/2020 tại Công ty do bị đơn cung cấp xác định có việc Công ty đã trao đổi PASDLĐ với Đại diện Ban chấp hành Công đoàn cơ sở gồm ông Lê Hữu Dũng – Chủ tịch Công đoàn, ông Lê Hoài Sơn – Phó Chủ tịch Công đoàn và bà Đặng Thị Diễm My – Thành viên Ban Chấp hành Công đoàn. Theo ghi nhận tại biên bản làm việc thì đại diện Công đoàn đồng ý với PASDLĐ và nội dung biên bản. Theo Quyết định số 19/QĐ-CĐ.VSIP ngày 17/01/2020 của Công đoàn Khu công nghiệp Việt Nam – Singapore thì ông Lê Hữu Dũng giữ chức Chủ tịch Công đoàn cơ sở, ông Lê Hoài Sơn giữ chức Phó Chủ tịch Công đoàn cơ sở của Công ty nhiệm kỳ 2015-2020. Căn cứ nội dung Công văn số 640/BQL-VP ngày 04/5/2020 và Công văn số 723/BQL-VP ngày 20/5/2020 của BQLKCN xác định ngày 29/4/2020 Công ty có Công văn số 29 về việc thay đổi cơ cấu tổ chức, tổ chức lại lao động và giải quyết chế độ mất việc làm cho NLĐ và xác định nội dung PASDLĐ của Công ty phù hợp quy định của pháp luật. Theo Công văn số 1149/UBND-VX ngày 24/3/2021 của UBND tỉnh Bình Dương xác định ngày 31/3/2015 UBND tỉnh Bình Dương có ủy quyền cho BQLKCN thực hiện một số nhiệm vụ quản lý nhà nước về lao động trong các khu công nghiệp trong đó có nội dung ủy quyền thực hiện nhận thông báo về việc cho thôi việc nhiều NLĐ của các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Như vậy có căn cứ xác định Công ty chấm dứt HĐLĐ với bà M là đúng trình tự, thủ tục quy định tại khoản 3 Điều 44 của BLLĐ năm 2012, phù hợp với hướng dẫn tại Điều 13 Nghị định 05/2015/NĐ-CP ngày 12/01/2015 của Chính phủ hướng dẫn thi hành một số điều của BLLĐ năm 2012.
[5] Xét về lý do Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà M:
[5.1] Tại Quyết định chấm dứt HĐLĐ ngày 26/5/2020, Công ty xác định “do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19, Công ty buộc phải thu hẹp sản xuất, giảm chỗ làm việc và cắt giảm nhân sự” từ đó chấm dứt HĐLĐ với bà M và 28 NLĐ khác với căn cứ pháp lý Điều 44 của BLLĐ. Theo các tài liệu chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, tại Vi bằng số 114/2021/VB-TPL ngày 19/3/2021 nội dung thể hiện việc nội bộ Công ty có trao đổi, thảo luận về khó khăn do dịch bệnh Covid-19 và kế hoạch cắt giảm lao động giữa Jenny le (Bà Lê Thị Kim V – Trưởng phòng nhân sự), Mlton Brice (Phụ trách tài chính của tập đoàn), Hanh Vu (bà Vũ Thị H – Giám đốc tài chính Công ty) vào ngày 01/4/2020 và 25/3/2020; tại Vi bằng số 115/2021/VB-TPL ngày 19/3/2021 thể hiện nội dung trao đổi mail của Công ty và một số khách hàng về việc hủy một số đơn hàng thời điểm tháng 3/2020; tại Bản tình hình đơn hàng từ tháng 01 đến tháng 7/2020 và Bảng tóm tắt doanh thu bán hàng từ tháng 01 đến tháng 7/2020 thể hiện số liệu đơn hàng cũng như doanh thu có sự sụt giảm. Do đó, có cơ sở xác định tình hình dịch bệnh Covid-19 có ảnh hưởng nhất định đến tài chính của Công ty. Theo các tờ khai thuế giá trị gia tăng từ tháng 01 đến tháng 7/2020 do bị đơn cung cấp thể hiện tổng giá trị hàng hóa bán ra, mua vào hàng tháng có tăng giảm nhưng vẫn là những con số rất lớn giao động ở mức 17.000.000.000 đồng đến 29.000.000.000 đồng. Tại Bảng cân đối kế toán năm 2019, năm 2020 của Công ty do Cục thuế tỉnh Bình Dương cung cấp thể hiện tổng giá trị tài sản của Công ty cũng rất lớn, tính đến cuối năm 2019 là trên 483.000.000.000 đồng, chi phí trả cho NLĐ 7.281.286.595 đồng và năm 2020 là trên 463.000.000.000 đồng, chi phí trả cho NLĐ 9.805.212.010 đồng (So với năm 2019 chi lương tăng 2.523.925415 đồng); theo Danh sách NLĐ bị cắt giảm theo PASDLĐ thể hiện tổng tiền lương của 29 người lao động bao gồm cả bà M là 480.004.200 đồng/tháng, như vậy sau khi thực hiện PASDLĐ (nếu có) thì hàng tháng Công ty giảm chi lương cho người lao động khoản tiền là 480.004.200 đồng. Tính từ tháng 7 đến tháng 12/2020 là 6 tháng tương ứng số tiền 2.880.025.200 đồng (480.004.200 đồng x 6). Nếu đúng như trình bày của bị đơn, do tình hình dịch bệnh trong 4 tháng đầu năm 2020 Công ty không thể tuyển thêm người lao động và cũng không tăng lương cho người lao động thì sau khi thực hiện PASDLĐ cắt giảm 29 người lao động, khoản chi lương cuối năm 2020 phải giảm đi ít nhất 2.880.025.200 đồng, chỉ còn 4.401.261.395 đồng, tuy nhiên con số chi lương năm 2020 lại tăng lên 2.523.925.415 đồng (Tăng 34% so với năm 2019) như vậy có sự chênh lệch số tiền chi lương giữa năm 2019 và 2020 là 5.403.950.615 đồng (9.805.212.010 đồng – 4.401.261.395 đồng), bị đơn cho rằng sau khi thực hiện PASDLĐ đã giảm chi phí đáng kể là không có căn cứ. Về số tiền chênh lệch này Công ty đã chi trả cho những người lao động mà Công ty bổ sung trong 6 tháng cuối năm 2020. Giả sử lấy mức lương trung bình là 7.000.000 đồng (trong khi mức lương công nhân chưa đến 7.000.000 đồng) thì ít nhất Công ty phải tuyển mới 128 người lao động trong tháng 7 năm 2020 (Tức 5.403.950.615 đồng/6 tháng/7.000.000 đồng). Mặt khác, so sánh, đối chiếu những con số cụ thể nêu trên, bị đơn cho rằng tài chính Công ty bị ảnh hưởng nghiêm trọng do dịch bệnh Covid-19 là không thuyết phục. Mặt khác tại Vi bằng số 1497/2020/VB[1]TPLHBC ngày 19/6/2020 do nguyên đơn cung cấp thể hiện tại thời điểm ngày 27/5/2020 Công ty đăng tin tuyển dụng vị trí việc làm Production Manager trên trang careebuilder.com (Của Công ty Cổ phần C), thời điểm 17/6/2020 Công ty đăng tin tuyển dụng vị trí việc làm Production Manager trên trang vietnamworks.com (Của Công ty Cổ phần N). Trả lời xác minh của Tòa án, tại Công văn số 1204/2021/CV-NGVJSC ngày 12/4/2021 của Công ty Cổ phần N xác định: Ngày 17/6/2020 Công ty có đăng tuyển vị trí Production Manager trên trang vietnamworks.com và tại văn bản ngày 12/4/2021 Công ty Cổ phần C xác định: Ngày 27/5/2020 Công ty có đăng tin tuyển dụng vị trí Production Manager trên trang careebuilder.vn. Bị đơn cho rằng do ảnh hưởng nghiêm trọng của dịch bệnh Covid-19 nên phải cơ cấu lại lao động, cắt giảm nhân sự nhưng trong khi mới lên PASDLĐ, khi quyết định chấm dứt HĐLĐ với NLĐ còn chưa có hiệu lực đã liên tục đăng tin tuyển dụng trên nhiều trang tìm kiếm việc làm. Lý giải việc này, người đại diện hợp pháp của bị đơn bà Lê Thị Kim V giải thích là do khi nhận được đơn xin nghỉ việc ngày 24/4/2020 của ông Đặng Gia K (Lúc đó là Trưởng phòng sản xuất – Production Manager) nên bộ phận tuyển dụng đã tự động đăng tin tuyển dụng không thông qua lãnh đạo Công ty cũng như Phòng nhân sự nhưng khi được hỏi về mô tả công việc đăng tin tuyển dụng cho vị trí Production Manager thì bà V lại xác định trước khi đăng tin tuyển dụng thì bản mô tả công việc do phòng nhân sự soạn và thông qua. Bà V còn khẳng định khi lập PASDLĐ phải lấy ý kiến của các phòng ban, việc đưa ai vào danh sách cắt giảm là do trưởng các bộ phận quyết định, như vậy bà V với tư cách là Trưởng phòng nhân sự biết rất rõ việc Công ty đang lập PASDLĐ (nếu có) thì không thể thông qua và cho cấp dưới đăng tin tuyển dụng tùy tiện như vậy. Lời trình bày của bà V trước sau mâu thuẫn, cho thấy việc đăng tin tuyển dụng là có thật, là xuất phát từ nhu cầu của Công ty và việc cắt giảm nhân sự không thực sự xuất phát từ việc cơ cấu lại lao động. Cũng theo Danh sách lao động cắt giảm đính kèm PASDLĐ thể hiện tại thời điểm lập PASDLĐ Công ty khuyết các chức danh như Trưởng phòng quản lý chất lượng, Trưởng bộ phận chăm sóc khách hàng, Trưởng phòng thu mua. Theo Vi bằng lập ngày 25/8/2020 do nguyên đơn cung cấp thể hiện Công ty đăng tin tuyển dụng các vị trí Customer Service Manage (Quản lý dịch vụ khách hàng), Puschasing Manage (Quản lý mua hàng) và một số vị trí việc làm khác tại trang jobtreet.vn và careerbuild.vn. Tại phiên tòa bà M khẳng định vị trí mà Công ty đăng tuyển Production Manager là Giám đốc sản xuất do mô tả công việc phù hợp với vị trí làm việc của bà tại Công ty chứ không phù hợp với vị trí Trưởng phòng sản xuất như đại diện bị đơn trình bày và Manager hay Director đều có nghĩa là giám đốc. Bị đơn cho rằng vị trí Production Manager là Trưởng phòng sản xuất chứ không phải là Giám đốc sản xuất như nguyên đơn trình bày. Theo từ điển Anh – Việt thì manager có nghĩa là người quản lý, điều hành, do đó cách hiểu của các đương sự đều không sai. Giả sử là vị trí Trưởng phòng sản xuất như bị đơn trình bày thì tại thời điểm lập PASDLĐ vị trí này Công ty là đang khuyết, theo quy định tại khoản 1 Điều 44 của BLLD năm 2012 “Trường hợp có chỗ làm mới phải ưu tiên đào tạo lại người lao động để tiếp tục sử dụng”. Với vị trí việc làm của bà M hoàn toàn phù hợp để có thể chuyển qua một trong các vị trí việc làm mới nêu trên mà không phải mất nhiều thời gian đào tạo. Tuy nhiên Công ty đã bỏ qua bước này, cho bà M nghỉ việc và đăng tin tuyển mới là điều bất hợp lý. Mặt khác tại thời điểm lên PASDLĐ thì tại bộ phận sản xuất có 3 nhân sự ở vị trí quản lý là bà Trương Cẩm M (Chức vụ Giám đốc sản xuất – Production Director), ông Đặng Gia K (Trưởng phòng sản xuất – Production Manager), ông Dương Xuân T (Phó phòng sản xuất – Vice Production Manager), bà Trương Cẩm M và ông Dương Xuân T có tên trong danh sách cắt giảm, tại phiên tòa bị đơn xác định ngày 24/4/2020 ông Đặng Gia K đã nộp đơn xin nghỉ việc nên không đưa vào danh sách cắt giảm. Như vậy sau khi cắt giảm thì bộ phận sản xuất sẽ không còn người quản lý, điều hành. Điều này là hoàn toàn không phù hợp khi chức năng sản xuất hàng hóa là chức năng hoạt động chính của Công ty, khi tuyển dụng bà M thì lãnh đạo Công ty xác định bà M là cách tay phải đắc lực hỗ trợ cho Tổng giám đốc tại Việt Nam trong điều hành và vận hành khâu sản xuất của Công ty (bà V xác nhận điều này tại phiên tòa). Bị đơn cho rằng đơn hàng có giảm chứ không phải hoàn toàn không có nên Công ty vẫn phải sản xuất hàng hóa, do đó nhất thiết phải có người có kiến thức, kinh nghiệm, năng lực để điều hành khâu sản xuất nên không thể cùng lúc cắt giảm hết bộ phận quản lý, về logic cơ cấu lao động như vậy chẳng khác nào càng làm xấu hơn tình trạng của Công ty. Lý giải việc này, bị đơn cho rằng khi lập PASDLĐ đã có kế hoạch thay thế bằng ông Phạm Công T (Trưởng phòng kho), đối chiếu với bản mô tả công việc đăng trên các trang tuyển dụng thể hiện tại Vi bằng lập ngày 19/6/2020 nhận thấy với vai trò quản lý sản xuất thì ông T không đủ điều kiện để ngay lập tức thay thế, muốn thay thế phải có thời gian đào tạo nhất định. Do đó, có cơ sở vững chắc xác định Công ty chấm dứt hợp đồng lao động với bà M là vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 44 của BLLĐ năm 2012.
[5.2] Xét về vị trí việc làm, năng lực của bà M: Theo Thư mời nhận việc ngày 22/7/2019 do bị đơn cung cấp thể hiện việc Công ty hỗ trợ vé thương gia, phí vận chuyển đồ dùng cá nhân cho bà M từ Mỹ về Việt Nam nhận việc. Tại phiên tòa bà M xác định trước khi nhận việc, bà M đang sống tại Mỹ cùng gia đình, khi đó bà được một công ty môi giới lao động tại Mỹ giới thiệu một vị trí việc làm tại Việt Nam, sau đó được hẹn phỏng vấn và các bên đã đạt được thỏa thuận bước đầu. Bà M nhận thấy vị trí công việc phù hợp với năng lực của mình, bà quyết định cùng gia đình trở về Việt Nam. Lý giải vì sao nhận mức lương rất cao kèm theo các chế độ đãi ngộ hấp dẫn như thỏa thuận tại Hợp đồng lao động, bà M cho biết đã có 14 năm kinh nghiệm về ngành giày, từng làm cho một vài nhãn hàng nổi tiếng trong đó có Nike và có hồ sơ trên trang Linkedin là một trang tìm kiếm nhân sự uy tín hàng đầu trong cộng đồng doanh nghiệp. Về công việc tại Công ty, bà chịu trách nhiệm điều hành khâu sản xuất từ xử lý đơn hàng cho đến thành phẩm, khối lượng công việc là rất lớn. Tại phiên tòa, bà Lê Thị Kim Vui cũng khẳng định việc tuyển dụng bà M là do các lãnh đạo cấp cao của tập đoàn quyết định, khi tuyển dụng, bà M được kỳ vọng là cánh tay phải đắc lực cho Tổng giám đốc tại Việt Nam, hỗ trợ Tổng giám đốc quản lý vận hành khâu sản xuất. Quá trình làm việc bà M được tăng lương, được hưởng chế độ nhà ở cao cấp hơn sau thời gian ngắn làm việc cho Công ty, điều đó cho thấy Công ty đã thừa nhận năng lực và cống hiến của bà M. Bị đơn cho rằng hàng hóa trong thời gian bà M đảm nhiệm vị trí Giám đốc sản xuất có nhiều sản phẩm bị lỗi, đồng thời tại phiên tòa bà Lê Thị Kim V cho rằng quá trình bà M làm việc nhưng kết quả không như kỳ vọng, năng suất lao động không cao, ngoài ra còn không có sự phối hợp tốt giữa các bộ phận trong Công ty nhưng không đưa ra được chứng cứ chứng minh cho nhận định này. Phủ nhận điều này, bà M khẳng định tự nhận thấy Công ty ưu ái mình với mức lương cao, nhiều chế độ đãi ngộ hấp dẫn nên để không phụ lòng mong muốn của lãnh đạo Công ty, bà luôn nỗ ực và cố gắng hoàn thành tốt mọi công việc được giao, ngoài vị trí Giám đốc sản xuất, trước khi bị cho nghỉ việc bà còn phải kiêm nhiệm nhiều vị trí như Trưởng phòng quản lý chất lượng, Trưởng phòng sản xuất và Trưởng bộ phận chăm sóc khách hàng, thời gian dịch Covid-19 bà còn làm thay công việc của 3 chuyên gia người Trung Quốc chưa qua được Việt Nam do tình hình dịch bệnh Covid-19. Quá trình làm việc, bà luôn phối hợp tốt các bộ phận trong Công ty, có thể chính sự nhiệt tình của bà đã không làm hài lòng Tổng giám đốc M nên đã bị tìm cách cho bà nghỉ việc. Theo mô tả công việc cho vị trí Poroduction Manager mà Công ty đăng tin tuyển dụng thì tiêu chuẩn cho vị trí ứng tuyển là rất cao cả về kinh nghiệm, kỹ năng, kiến thức chuyên môn. Theo Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư do BQLCKCN cấp thì lĩnh vực hoạt động chủ yếu của Công ty là hoạt động sản xuất nguyên phụ liệu cung cấp cho ngành giày da, túi xách nhựa PU, Mếng đệm lót các loại, đồ lưu niệm và các sản phẩm khác làm từ mút xốp polyurethane và ethylene vinyl acetate copolymer; sản xuất sản phẩm mút xốp làm từ polyurethane và ethylene vinyl acetate copolymer. Hoạt động chính của Công ty là sản xuất hàng hóa nên Giám đốc sản xuất là vị trí phải được ưu tiên hàng đầu cần giữ lại nếu thực sự có việc thay đổi cơ cấu, trường hợp thay đổi cơ cấu tổ chức mà đánh giá vị trí này không cần thiết để cho thôi việc là việc làm hoàn toàn không phù hợp với thực tế tại Công ty. Bị đơn cho rằng mức lương của bà M rất cao cũng là yếu tố để xem xét đưa vào danh sách lao động cắt giảm, tuy nhiên đối chiếu tại Danh sách đăng ký bảo hiểm xã hội thì có nhiều người lao động có mức lương đóng bảo hiểm xã hội rất cao nhưng không đưa vào danh sách cắt giảm. Công ty cho rằng khi xây dựng PASDLĐ có xem xét đến năng lực, khả năng đóng góp, tư cách đạo đức… của người lao động để cắt giảm một cách phù hợp và khách quan nhất. Tuy nhiên, với trường hợp của bà M như phân tích, nhận định nêu trên, việc Công ty chấm dứt lao động với bà M là hoàn toàn không khách quan, không phù hợp.
[5.3] Về tình hình dịch bệnh Covid-19: Trên thực tế dịch bệnh Covid-19 xuất hiện tại Việt Nam từ tháng 01/2020. Để phòng tránh dịch bệnh lây lan trong cộng đồng, Chính phủ và lãnh đạo địa phương đã đưa ra nhiều chỉ đạo, biện pháp phòng, chống dịch. Từ đó ảnh hưởng nhất định đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp từ khâu thu mua nguyên vật liệu đến việc sản xuất, xuất khẩu hàng hóa. Tuy nhiên để hỗ trợ doanh nghiệp vượt qua những ảnh hưởng của dịch Covid-19, Chính phủ cũng như chính quyền các địa phương đã đưa ra hàng loạt các chính sách hỗ trợ, cụ thể: Nghị quyết số 42/NQ-CP ngày 9/4/2020; Nghị quyết số 84/NQ-CP ngày 29/4/2020; gia hạn miễn, giảm thuế, phí, lệ phí, gia hạn thời hạn nộp thuế và tiền thuê đất hỗ trợ các doanh nghiệp, cá nhân chịu thiệt hại bởi dịch Covid-19; gói hỗ trợ tiền tệ – tín dụng… Việc triển khai thực hiện trên nguyên tắc Nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng xã hội cùng chia sẻ trách nhiệm trong việc bảo đảm cuộc sống cho NLĐ. Thiết nghĩ, đối tượng bị tổn thương nhiều nhất bởi dịch bệnh vẫn là người lao động làm công ăn lương, trường hợp vì dịch bệnh dẫn đến khó khăn thì doanh nghiệp vẫn còn rất nhiều biện pháp khác để hỗ trợ họ mà không nhất thiết phải cho người lao động thôi việc, nhất là trong tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, việc cho NLĐ thôi việc lúc này là việc làm không có trách nhiệm, vô cảm, chẳng khác nào đẩy họ và gia đình lâm vào cảnh khó khăn hơn. Công ty cố tình lợi dụng tình hình dịch bệnh, lấy lý do ảnh hưởng dịch bệnh Covid-19 phải tái cơ cấu, cắt giảm lao động để đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái ý chí của người lao động, trái với tinh thần chỉ đạo của Chính phủ, Chính quyền địa phương trong việc hỗ trợ, khắc phục khó khăn cho người lao động bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh Covid-19
[6] Tại mục 1.3 Điều 1 của Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động ghi “Căn cứ pháp lý: Điều 44 Bộ luật lao động” tức không xác định thuộc khoản nào của Điều 44, tuy nhiên quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa bị đơn xác định căn cứ pháp lý là khoản 1 Điều 44 của BLLĐ năm 2012. Điều 44 của Bộ luật Lao động năm 2012 quy định:
“1. Trường hợp thay đổi cơ cấu, công nghệ mà ảnh hưởng đến việc làm của nhiều người lao động, thì người sử dụng lao động có trách nhiệm xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này; trường hợp có chỗ làm việc mới thì ưu tiên đào tạo lại người lao động để tiếp tục sử dụng. Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc làm mới mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.
2. Trong trường hợp vì lý do kinh tế mà nhiều người lao động có nguy cơ mất việc làm, phải thôi việc, thì người sử dụng lao động phải xây dựng và thực hiện phương án sử dụng lao động theo quy định tại Điều 46 của Bộ luật này. Trong trường hợp người sử dụng lao động không thể giải quyết được việc làm mà phải cho người lao động thôi việc thì phải trả trợ cấp mất việc làm cho người lao động theo quy định tại Điều 49 của Bộ luật này.
3. Việc cho thôi việc đối với nhiều người lao động theo quy định tại Điều này chỉ được tiến hành sau khi đã trao đổi với tổ chức đại diện tập thể lao động tại cơ sở và thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh.”
Như vậy để chấm dứt HĐLĐ theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 44 nêu trên thì phải đảm bảo 2 điều kiện cần và đủ. Điều kiện cần (lý do): Thứ nhất phải thực sự có việc thay đổi cơ cấu làm ảnh hưởng đến việc làm của nhiều NLĐ, thứ hai phải không có chỗ làm việc mới nào để đào tạo và chuyển NLĐ qua nhằm tiếp tục sử dụng. Điều kiện đủ (thủ tục): Phải lập PASDLĐ đúng quy định tại Điều 46 của BLLĐ, phải trao đổi với đại diện Ban chấp hành công đoàn cơ sở và thông báo trước 30 ngày cho cơ quan quản lý nhà nước về lao động cấp tỉnh. Trong trường hợp này, Công ty chấm dứt HĐLĐ với bà M mới đảm bảo điều kiện về thủ tục mà không đảm bảo điều kiện lý do như phân tích, đánh giá, quy định pháp luật nêu trên. Do đó, khẳng định Công ty đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bà M là không có căn cứ, vi phạm quy định khoản 1 Điều 38, khoản 1, khoản 2 Điều 44 BLLĐ năm 2012, nguyên đơn khởi kiện cho rằng bị đơn 23 chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là có căn cứ, do đó các yêu cầu cụ thể được xem xét cụ thể như sau:
[6.1] Công ty đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật nên Quyết định chấm dứt HĐLĐ và Thông báo chấm dứt HĐLĐ do Công ty ban hành cùng ngày 26/5/2020 đối với bà M không có giá trị.
[6.2] Tại phiên tòa người đại diện hợp pháp của bị đơn xác định việc chấm dứt HĐLĐ với bà M là đúng quy định của pháp luật, không chấp nhận yêu cầu nào của bà M, trường hợp Tòa án xác định Công ty chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, người đại diện cũng không có quyền quyết định nhận bà M trở lại làm việc. Như vậy, đồng nghĩa với việc Công ty không có thiện chí nhận bà M trở lại làm việc. Do vậy, nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn phải bồi thường 02 tháng tiền lương do không được nhận trở lại làm việc, là phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 42 của BLLĐ năm 2012.
[6.3] Nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải thanh toán tiền lương những ngày không được làm việc từ ngày 01/7/2020 đến ngày xét xử là 10 tháng 8 ngày, tương ứng số tiền 2.739.803.169 đồng là phù hợp với mức lương được nhận theo HĐLĐ đã ký kết và còn hiệu lực, phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 42 của BLLĐ năm 2012.
[6.4] Nguyên đơn yêu cầu buộc bị đơn phải đóng bảo hiểm xã hội từ ngày 01/7/2020 đến ngày xét xử là 10 tháng là phù hợp quy định tại khoản 1 Điều 42 của BLLĐ năm 2012. Căn cứ Sổ bảo hiểm xã hội của bà M, căn cứ Công văn số 74/CV-BHXH ngày 26/4/2021 của Bảo hiểm xã hội thị xã Tân Uyên xác định chốt sổ bảo hiểm xã hội của bà M tới 30/6/2020 căn cứ đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp là mức 29.800.000 đồng, căn cứ đóng bảo hiểm thất nghiệp là mức 88.400.000 đồng và từ ngày 01/7/2021 đến nay không có đơn vị nào đóng bảo hiểm xã hội cho bà M. Theo quy định của Luật bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thì tổng tỷ lệ đóng là 32%, người sử dụng lao động đóng 21,5%, người lao động đóng 10,5%. Nguyên đơn cũng phải có nghĩa vụ trích từ tiền lương để đóng bảo hiểm xã hội theo đúng quy định của pháp luật.
[6.5] Tại Điều 3 HĐLĐ ngày 22/9/2019 có ghi “Bảo hiểm sức khỏe: theo chính sách của người sử dụng lao động”, tại Bản tóm tắt Hợp đồng bảo hiểm số S-HGE-00008224-00-19 Công ty có mua bảo hiểm cho bà M và ông Kem Jerome Chalmers (Người phụ thuộc) thời hạn bảo hiểm từ ngày 07/11/2019 đến ngày 06/11/2020 có thanh toán toàn bộ chi phí điều trị ngoại trú. Công ty không nhận bà M trở lại làm việc nên quan hệ lao động giữa bà M và Công ty không còn, do đó việc khôi phục gói bảo hiểm sức khỏe mà Công ty đã mua từ Công ty bảo hiểm Liberty là không cần thiết, tuy nhiên khi chấm dứt HĐLĐ với bà M Công ty cũng chấm dứt hợp đồng bảo hiểm nên bà M không thể nhận chi trả từ Công ty bảo hiểm cho những chi phí khám chữa bệnh ngoại trú mà bà M và ông Kemp Jerome Chalmers đã bỏ ra. Đối chiếu các hóa đơn, chứng từ do nguyên đơn cung cấp với Bản tóm tắt Hợp đồng bảo hiểm là những khoản thuộc phạm vi bảo hiểm chi trả và trong thời gian còn hiệu lực của Hợp đồng bảo hiểm. Bị đơn cũng không có ý kiến gì phản đối đối với các hóa đơn, chứng từ về chi phí khám chữa bệnh do nguyên đơn đưa ra. Do đó, Công ty phải có nghĩa vụ thanh tóa cho bà M số tiền theo các hóa đơn, chứng từ mới đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp cho bà M.
[6.6] Như mục [6.5], không còn căn cứ buộc Công ty tiếp tục cung cấp chỗ ở cho bà M, tuy nhiên tại Điều 1 của HĐLĐ ngày 22/9/2019 Công ty có trách nhiệm chi trả khoản phụ cấp nhà ở cho bà M. Tại thời điểm cho bà M nghỉ việc Hợp đồng thuê nhà của Công ty cho bà M đang có hiệu lực, khi cho bà M nghỉ việc Công ty chấm dứt hợp đồng thuê nhà làm ảnh hưởng đến quyền lợi của bà M theo thỏa thuận tại HĐLĐ đã ký kết. Như vậy, đảm bảo quyền lợi cho bà M, Công ty phải thanh toán khoản tiền theo giá thuê tương ứng thời gian bà M không được làm việc do bị chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là phù hợp.
[6.7] Công ty đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật nên bà M yêu cầu Công ty bồi thường 02 tháng tiền lương là phù hợp quy định khoản 1 Điều 42 của BLLĐ năm 2012.
[6.8] Về yêu cầu buộc bị đơn phải đăng tin xin lỗi và cải chính công khai trong nội bộ Công ty về hành vi đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, xét thấy nghĩa vụ này không thuộc trường hợp quy định tại Điều 42 của BLLĐ năm 2012 cũng như các văn bản pháp luật khác nên không có cơ sở buộc bị đơn phải thực hiện.
[6.9] Tại phiên tòa nguyên đơn bổ sung yêu cầu, buộc bị đơn phải thanh toán lương tháng 13, đây là quyền lợi mà nguyên đơn cho rằng bị xâm phạm khi bị chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, do đó không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Tuy nhiên đối chiếu quy định tại Điều 3 của HĐLĐ ngày 22/9/2019 và Phụ lục Hợp đồng ngày 01/02/2020 không có điều khoản nào ghi nhận sự thỏa thuận việc người lao động được hưởng lương tháng 13, tại Điều 42 của BLLĐ năm 2012 cũng không có quy định vấn đề này, do đó không có cơ sở chấp nhận.
[7] Ý kiến trình bày, lý lẽ, lập luận của bị đơn trong quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa là không có căn cứ, nhiều mâu thuẫn. Ý kiến đề nghị của Kiểm sát viên tại phiên tòa là không phù hợp.
[8] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí lao động sơ thẩm trên số tiền phải thanh toán cho nguyên đơn; nguyên đơn thuộc trường hợp được Mễn nộp tiền án phí nên không phải chịu án phí đối với phần yêu cầu không được chấp nhận.
[Nguồn: Bản án số 02/2021/LĐ-ST Ngày 17/5/2021 của TÒA ÁN NHÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN HUYỆN BÌNH DƯƠNG]
Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 02/2021/LĐ-ST
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn