Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 20 bản án lao động có yêu cầu phản tố

Tổng hợp 20 bản án lao động có yêu cầu phản tố

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án lao động có yêu cầu phản tố” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 20 bản án lao động có yêu cầu phản tố

STT

NỌI DUNG

TRANG

Bản án số 04/2022/LĐ-PT ngày 14 tháng 12 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Cần Thơ

Về việc: “Tranh chấp quyết định kỷ luật sa thải”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Ngày 07/8/2020, Công ty K và bà Nguyễn Hồng M đã ký Hợp đồng lao động số 3647335/2020/HĐLĐ, với nội dung sau: Hợp đồng lao động xác định thời hạn; Thời gian: từ ngày 07/8/2020 đến ngày 06/8/2021; Chức danh: Chuyên viên tư vấn bán hàng; Bộ phận: Khối kinh doanh, Kinh doanh ô tô, Kinh doanh ô tô Miền Nam – Phòng kinh doanh V; Công việc phải làm: Theo sự phân công, chỉ đạo của Cán bộ lãnh đạo và theo Nội quy lao động và các quy định, quy chế nội bộ có liên quan của Công ty; Thời giờ làm việc: 48 giờ/tuần; Chế độ nghỉ ngơi: theo quy định của pháp luật về lao động, Nội quy và các quy định chính sách của Công ty; Mức lương chính: 4.729.400đồng; Thưởng ý thức và chất lượng công việc: Tối đa bằng 767.187 đồng/tháng.

Ngày 24/3/2021, bà M được ủy quyền qua Zalo từ Giám đốc chi nhánh C ký thay đơn xin phép mà trước đó 02 ngày nghỉ bà đã viết do nhiều ngày Giám đốc chi nhánh không vào Công ty. Ngày hôm đó, bà M vẫn làm việc từ xa (Đính kèm yêu cầu trao đổi qua zalo với Giám đốc Chi nhánh ông Ngô Hoài T2 và Quyết định ngày 08/7/2021, số 3647335/2021/QĐ-GQKN do Tổng Giám đốc ông Hoàng Chí Trung đại d Công ty K trả lời: “Trong bảng lương tháng 4 đã thanh toán phép năm 2021 chưa sử dụng của bà M” tại mục thứ II nội dung thứ 2 mục iv), nội dung trao đổi qua zalo ông Ngô Hoài T2 đã xác nhận còn phép năm thì duyệt cho bà M nghỉ, ông Hoàng Chí T1 thông báo còn phép năm nên bà ký thay Giám đốc chi nhánh C.

Công ty K đã tiến hành kỷ luật sa thải bà M vì lý do “Người lao động tự ý bỏ việc 5 ngày cộng dồn trong thời hạn 30 ngày tiến hành sa thải và đính kèm đơn xin nghỉ phép lịch làm việc”. Do đó, bà M khởi kiện đề nghị Toà án: Buộc Công ty K nhận người lao động trở lại làm việc theo hợp đồng đã ký 01 năm ; đền bù thiệt hại tài chính số tiền 106.238.000 đồng (Số tiền trên được tính từ ngày 20/10/2021, mỗi ngày tăng lên 995.519 đồng); Bồi thường thiệt hại về sức khỏe, tinh thần, uy tín là 2.010 tỷ đồng (khoản tiền này chuyển tặng U).

Công ty K không đồng ý với yêu cầu của mà M và có yêu cầu phản tố vào ngày 15/4/2022 như sau: Sau khi Công ty H1 thủ tục sa thải bà M và chấm dứt Hợp đồng lao động, bà M có nghĩa vụ hoàn trả các công cụ lao động, trang thiết bị đã được cấp là tài sản của Công ty với nguyên tình trạng tốt như tại thời điểm đã bàn giao theo quy định tại khoản 3 Điều 21 Nội quy lao động. Trong quá trình làm việc, Công ty đã cung cấp cho bà M máy tính xách tay sử dụng cho mục đích công việc, cụ thể: máy tính xách tay HP ProBook 440 G6, số serial 1250011594 trị giá 13.500.000 đồng được bàn giao cho bà M khi bắt đầu làm việc tại Công ty.Tuy nhiên, sau khi chấm dứt hợp đồng lao động, cho đến nay bà M vẫn chưa hoàn trả máy tính này cho Công ty. Nay yêu cầu bà M phải hoàn trả máy tính xách tay cho Công ty. Trường hợp có bất kỳ thiệt hại nào phát sinh đối với tài sản nêu trên, thì yêu cầu bà M bồi thường thiệt hại cho Công ty.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và đình chỉ yêu cầu phản tố của bị đơn.

Ngày 26/8/2022, không đồng ý với bản án sơ thẩm, nguyên đơn có đơn kháng cáo, cho rằng Công ty S là trái pháp luật. Đồng thời yêu cầu cấp phúc thẩm giải quyết: buộc bị đơn bồi thường thiệt hại tài chính số tiền 301.542.000 đồng, mỗi ngày tăng 995.519 đồng và được nhận trở lại làm việc đến hết thời hạn hợp đồng đã ký và rút lại yêu cầu bồi thường 2010 tỷ đồng.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Theo dữ liệu chấm công thể hiện, bà M đã không tuân thủ lịch làm việc của Công ty và tự ý nghỉ việc vào các ngày 28/02/2021, 07/3/2021, 14/3/2021, 21/3/2021, 24/3/2021. Theo lịch trực, ngày làm việc của bà M rơi vào ngày chủ nhật. Tuy nhiên, bà M không chấp hành theo sự phân công mà tự ý đi làm vào ngày thứ bảy, nghỉ vào ngày chủ nhật, trái với sự phân công của lãnh đạo Công ty.

Hơn nữa, bà M không có gì chứng minh mình không vi phạm nội quy, quy chế lao động của Công ty. Bên cạnh đó, bà M có nộp các tài liệu khám chữa bệnh, thể hiện thời gian là vào tháng 5, 6/2021, nhưng tại thời điểm này bà M không còn làm việc tại Công ty, nên các tài liệu trên không phù hợp về mặt chứng cứ theo quy định tại Điều 93, Điều 94 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Giấy khám với Kết quả đo thị lực cung cấp tại phiên tòa phúc thẩm và các giấy tờ trên cũng không chứng minh được sức khỏe của bà M bị ảnh hưởng, suy giảm bởi tính chất công việc tại Công ty.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn. Giữ Y bản án lao động sơ thẩm số 02/2022/LĐST ngày 14 tháng 6 năm 2022, Tòa án nhân dân quận Ninh Kiều.

1

Bản án số 55/2018/LĐ-PT ngày 06 tháng 01 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Bà Phạm Kim Q vào làm thử việc tại Công ty TNHH T (gọi tắt là Công ty) từ ngày 22/6/2015. Đến ngày 01/9/2015 thì hai bên ký Hợp đồng lao động số 25/2015/HĐLĐ, thời hạn 02 năm (01/9/2015-31/8/2017), mức lương theo hợp đồng là 15.000.000 đồng/tháng để làm căn cứ đóng các chế độ bảo hiểm xã hội. Thực tế hàng tháng bà Q nhận lương theo doanh thu khoảng từ 2.400 USD + chi phí taxi 1.000.000 đồng + phí điện thoại 500.000 đồng do Công ty trả bằng tiền mặt hoặc chuyển vào tài khoản của bà Q.

Trong khoảng thời gian từ tháng 3/2016 đến tháng 8/2016, bà Q vẫn thường xuyên giữ liên lạc với sếp C, chị Bạch V và chị D (là Giám đốc Công ty) để thỏa thuận về công việc mới nhưng không có kết quả nên bà Q khởi kiện. Ông K cho biết đã trao đổi với bà Q nhưng bà Q vẫn giữ nguyên yêu cầu, cho rằng Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với bà là trái pháp luật và bà không có nhu cầu quay lại làm việc nên bà Q yêu cầu Công ty phải có trách nhiệm bồi thường 02 tháng tiền lương theo hợp đồng lao động là 15.000.000 đồng x 02 tháng = 30.000.000 đồng, bồi thường 01 tháng tiền lương là 15.000.000 đồng do vi phạm thời hạn báo trước và tiền lương những ngày không được làm việc từ ngày 03/02/2016 đến hết ngày kết thúc HĐLĐ 31/8/2017 là 285.000.000 đồng. Tổng cộng số tiền yêu cầu Công ty phải bồi thường là 330.000.000 đồng (ba trăm ba mươi triệu đồng). Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn bà Q không chấp nhận.

Công ty TNHH T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện trên. Ngoài ra, Công ty TNHH T có yêu cầu phản tố như sau: Bà Q đã tự ý nghỉ việc từ ngày 16/02/2016 là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, yêu cầu bà Q phải bồi thường ½ (nửa) tháng lương theo hợp đồng là 7.500.000 đồng, ½ (nửa) tháng lương do vi phạm thời hạn báo trước là 7.500.000 đồng và hoàn trả lại số tiền là 39.000.000 đồng mà Công ty đã đóng chế độ bảo hiểm xã hội cho bà Q từ tháng 03 đến tháng 10/2016.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Kim Q buộc Công ty TNHH T phải bồi thường 02 (hai) tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; 01 (một) tháng tiền lương do vi phạm thời hạn báo trước; thanh toán tiền lương trong những ngày không được làm việc theo hợp đồng lao động tính từ ngày 03/02/2016 đến ngày kết thúc hợp đồng (ngày 31/8/2017).

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn, xác định bà Phạm Kim Q đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với Công ty TNHH T. Hợp đồng lao động số 25/2015/HĐLĐ ký ngày 01/9/2015 giữa bà Phạm Kim Q và Công ty TNHH T chấm dứt kể từ ngày 10/3/2017.

Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty TNHH T rút các yêu cầu phản tố đòi bà Phạm Kim Q bồi thường ½ (nửa) tháng lương số tiền là 7.500.000 đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; bồi thường ½ (nửa) tháng lương số tiền là 7.500.000 đồng do vi phạm thời hạn báo trước; đòi bà Q trả số tiền Công ty TNHH T đã đóng theo chế độ bảo hiểm xã hội cho bà Q từ tháng 03/2016 đến tháng 10/2016 là 39.000.000 đồng.

Ngày 06 tháng 10 năm 2017, bà Phạm Kim Q nộp đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm số 1995/2017/DS-ST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh, đề nghị Tòa phúc thẩm sửa án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Tại phiên tòa phúc thẩm, nguyên đơn không cung cấp được chứng cứ nào khác nên việc bà Q cho rằng Công ty TNHH T đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với bà Q từ ngày 03/02/2016 là không có căn cứ.

Tòa cấp sơ thẩm xác định bà Q đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật là có căn cứ.

Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Q về việc yêu cầu Công ty TNHH T bồi thường do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Sửa một phần bản án lao động sơ thẩm số 1995/2017/LĐ – ST ngày 22/9/2017 của Tòa án nhân dân Quận M, Thành phố Hồ Chí Minh.

12

Bản án số 479/2022/LĐ-PT ngày 17 tháng 8 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: “ Tranh chấp về đòi tiền lương; Đòi học phí, hỗ trợ tiền học phí còn thiếu theo Hợp đồng lao đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại theo thoả thuận đào tạo”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Ngày 06/10/2017, ông Huỳnh Phú T và Công ty Cổ phần Hàng không V (sau đây gọi tắt là Công ty V) có ký thỏa thuận đào tạo Chương trình huấn luyện phi công. Chi phí đào đạo là 35.000 USD ông T là người chi trả. Chi phí này được ông T trả trước khi bắt đầu chương trình huấn luyện là 17.500 USD, số tiền 17.500USD còn lại ông T sẽ trả dần trong thời hạn 36 tháng kể từ khi ông T ký hợp đồng lao động với Công ty V. Trong thời gian huấn luyện, ông T được Công ty V trả tiền lương mỗi tháng là 4.400.000 đồng. Sau khi kết thúc chương trình huấn luyện thì ông T và Công ty V ký hợp đồng lao động vào này 30/4/2018, thời hạn hợp đồng là 03 năm, vị trí công việc là cơ phó. Tháng 4/2020, lấy lý do dịch bệnh Covid – 19 ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh nên Công ty V ra thông báo giảm lương nhân viên. Ông T không đồng ý với việc giảm lương và đã có ý kiến phản hồi về Công ty V nhưng không được xem xét chấp nhận. Ngày 17/5/2020 ông T đã gửi đơn thông báo về việc xin chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty V và kiến nghị thanh lý hợp đồng. Ngày 20/5/2020 Công ty V ra quyết định số 185 về việc áp dụng chính sách lương mới trong giai đoạn dịch Covid – 19. Ngày 10/6/2020, ông T tiếp tục đề nghị thanh lý hợp đồng lao động. Từ ngày 19/6/2020, ông T chính thức nghỉ việc tại Công ty V cho đến nay. Sau nhiều lần hòa giải với thiện chí ông T mong muốn quay lại làm việc cho Công ty V và đã thực hiện theo các yêu cầu do Công ty V hướng dẫn nhưng giữa hai bên vẫn không đạt được thỏa thuận. Nên tháng 5/2020 ông T có làm đơn xin chấm dứt hợp đồng lao động và từ ngày 19/6/2020 ông T chính thức nghỉ việc tại Công ty V. Việc ông T đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là đúng quy định pháp luật, bảo đảm về thời hạn báo trước. Do đó, ông T khởi kiện Công ty V với những yêu cầu cụ thể như sau: Yêu cầu thanh lý hợp đồng lao động giữa ông T và Công ty V; Yêu cầu Công ty V thanh toán tiền lương còn nợ là 44.613.481 đồng và yêu cầu chốt trả sổ bảo hiểm xã hội và trả bản chính bằng cấp giấy tờ cho ông T.

Công ty cổ phần Hàng không V không đồng ý yêu cầu khởi kiện của ông T. Ngoài ra, Công ty cổ phần Hàng không V có yêu cầu phản tố: Buộc ông T bồi thường cho Công ty V số tiền 75.000USD (tương đương 1.650.000.000 đồng) như đã thỏa thuận trong Thỏa thuận đào tạo mà hai bên đã ký ngày 06/10/2017; Đồng thời Công ty V yêu cầu ông T phải hoàn trả cho Công ty V chi phí đào tạo còn lại và số tiền nợ gốc còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ. Công ty V yêu cầu ông T phải hoàn trả cho Công ty V chi phí đào tạo còn lại là 106.920.000 đồng (10.692.000 đồng x 10 tháng), thanh toán số tiền nợ gốc còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ là 61.160.000 đồng (6.116.000 x 10 tháng). Tổng cộng, ông T phải trả cho Công ty V số tiền là 1.818.080.000 đồng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, ông Huỳnh Phú T:

– Ông Huỳnh Phú T được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty Cổ phần Hàng không V kể từ ngày 19/6/2020.

– Buộc Công ty Cổ phần Hàng không V phải trả cho ông Huỳnh Phú T số tiền lương tháng 4 và tháng 5 năm 2020 còn nợ là 11.800.000 đồng.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty Cổ phần Hàng không V:

– Buộc ông Huỳnh Phú T có nghĩa vụ thanh toán số tiền: Phí đào tạo còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ: 10.692.000 đồng x 10 tháng = 106.920.000 đồng và số tiền nợ gốc học phí còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ: 6.116.000 đồng x 10 tháng = 61.160.000 đồng. Tổng cộng, ông T phải trả số tiền 168.080.000 đồng.

– Do Công ty Cổ phần Hàng không V còn nợ lương tháng 4 và tháng 5 năm 2020 của ông T là 11.800.000 đồng nên được cấn trừ vào nghĩa vụ của ông T thì ông Huỳnh Phú T còn phải trả cho Công ty Cổ phần Hàng không V số tiền là 156.280.000 đồng.

Bác yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần Hàng không V về việc yêu cầu ông Huỳnh Phú T bồi thường thiệt hại số tiền là 1.650.000.000 đồng.

Ngày 18/4/2022, bị đơn Công ty Cổ phần Hàng không V kháng cáo với một phần bản án sơ thẩm, đề nghị không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn tiền lương còn thiếu của tháng 4, 5/2020 và đề nghị chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn về việc buộc nguyên đơn phải bồi thường cho bị đơn số tiền 75.000USD (tương đương 1.650.000.000 đồng).

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Tại bản án sơ thẩm, Cấp sơ thẩm ghi nhận tại phiên tòa đại diện nguyên đơn xác định yêu cầu của nguyên đơn là yêu cầu được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty V và yêu cầu Công ty V thanh toán tiền lương còn nợ tháng 4, 5/2020 với số tiền là 11.800.000 đồng. Cấp sơ thẩm ghi nhận yêu cầu của nguyên đơn tại phiên tòa về việc “Yêu cầu được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty V” là xác định không chính xác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Trong vụ kiện này, ông T đã gửi đơn thông báo về việc xin chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty V và kiến nghị thanh lý hợp đồng ngày 17/5/2020, đến ngày 19/6/2020 ông T chính thức nghỉ việc tại Công ty V, như vậy nguyên đơn đã thực hiện thông báo chấm dứt hợp đồng lao động đúng thời hạn quy định tại điểm b khoản 2 Điều 37 Bộ luật Lao động năm 2012. Cấp sơ thẩm cần xác định người lao động ông Huỳnh Phú T đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động VJC6170/VJ-HĐLĐ ngày 30/4/2018 với Công ty Cổ phần Hàng không V đúng quy định của pháp luật, không phải tuyên xử với nội dung là “Ông Huỳnh Phú T được đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty Cổ phần Hàng không V kể từ ngày 19/6/2020” tại phần Quyết định của Bản án sơ thẩm.

Về yêu cầu phản tố của bị đơn được Cấp sơ thẩm chấp nhận, không bị kháng cáo là yêu cầu ông Huỳnh Phú T chi trả cho Công ty V số tiền tổng chi phí đào tạo còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ là 106.920.000 đồng. Nguyên đơn không đồng ý trả cho bị đơn khoản chi phí đào tạo này. Bản án sơ thẩm tuyên buộc ông Huỳnh Phú T có nghĩa vụ thanh toán số tiền chi phí đào tạo còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ là 106.920.000 đồng. Do nguyên đơn không kháng cáo nên không xem xét. Tuy nhiên cần xác định số tiền “chi phí đào tạo” mà bị đơn yêu cầu này theo đúng ý nghĩa mà nó thể hiện.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn ông T đồng ý thanh toán số tiền nợ gốc còn lại mà ông T chưa hoàn trả đủ, Cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu phản tố này của bị đơn là có cơ sở. Tuy nhiên, theo Điều 3 khoản 3.1 điểm a của Hợp đồng lao động VJC6170/VJ-HĐLĐ ngày 30/4/2018 thì đây là số tiền hỗ trợ học phí còn lại, nhưng phần quyết định của Bản án sơ thẩm tuyên ghi là số tiền nợ gốc học phí còn lại là chưa chính xác, cần ghi nhận đầy đủ tên của số nợ này là số nợ hỗ trợ học phí còn lại.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Công ty Cổ phần Hàng không V.Giữ nguyên Bản án lao động sơ thẩm số 19/2022/LĐ – ST ngày 05/4/2022 của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh

22

Bản án số 553/2022/LĐ-PT ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp về quyền, lợi ích liên quan đến việc làm, tiền lương và đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Ngày 27/7/2015, ông Nguyễn Văn S và Công ty TNHH A (Sau này là Công ty TNHH DH) có ký Hợp đồng lao động số SG0216/LC-Pro (07.10/14.59) loại hợp đồng xác định thời hạn từ ngày 27/7/2014 đến ngày 01/9/2015; Chức vụ, công việc phải làm: Nhân viên cắm hoa; Mức lương 5.055.050 đồng/tháng. Ông S và Công ty TNHH A có ký thêm 1 hợp đồng xác định thời hạn từ ngày 01/9/2015 đến ngày 01/9/2018. Đến ngày 01/9/2018, ông Nguyễn Văn S và Công ty TNHH DH tiếp tục ký Hợp đồng lao động số SG0216/LC-IT (18.70/09.26), loại hợp đồng không xác định thời hạn; Chức vụ: Trưởng nhóm sáng tạo; Mức lương 12.012.000 đồng/tháng; Địa điểm làm việc tại Công ty TNHH DH -109 đường TDT, phường TP, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

Ngày 08/5/2020, Công ty gửi cho ông Thông báo về việc điều chuyển công việc hoặc sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động, theo đó, Công ty yêu cầu ông chấm dứt công việc tại vị trí Trưởng nhóm sáng tạo và nhận công việc lâu dài là cắm hoa tại một cửa hàng hoa từ ngày 14/5/2020. Nếu ông không đồng ý với sự điều chuyển của Công ty thì Công ty sẽ chấm dứt Hợp đồng lao động với ông và chỉ trả cho ông khoản tiền tương đương 45 ngày làm việc. Không đồng ý với thông báo trên nguyên đơn đã tiến hành khiếu nại Chánh thanh tra sở Lao động – Thương binh – Xã hội tỉnh Lâm Đồng đẻ khiếu nại. Sau đó, nguyên đơn đã khởi kiện ra Toà án.

Bị đơn – Công ty TNHH DH không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông S. Ngoài ra, bị đơn còn có yêu cầu phản tố như sau: Hành vi nghỉ việc của ông S từ ngày 14/5/2020 cho đến nay là hành vi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; Yêu cầu ông S bồi thường cho Công ty gồm: + ½ tháng tiền lương theo hợp đồng lao động đã giao kết là 9.470.000 đồng;+ Khoản tiền tương ứng với tiền lương của nguyên đơn trong những ngày không báo trước là 18.940.000 x 45 ngày : 30 ngày = 28.410.000 đồng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S về việc yêu cầu bị đơn Công ty TNHH DH có nghĩa vụ chốt, trả sổ bảo hiểm xã hội cho ông Nguyễn Văn S.

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn: Nhận ông Nguyễn Văn S trở lại làm việc theo Hợp đồng lao động số 18.70/09.26 ngày 01/9/2018; Bồi thường hai tháng tiền lương là 37.880.000 (Ba mươi bảy triệu tám trăm tám mươi ngàn) đồng do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; Bồi thường hai tháng tiền lương trong trường hợp không muốn nhận ông trở lại làm việc theo hợp đồng trên hoặc công việc khác có vị trí, thu nhập tương đương là 37.880.000 (Ba mươi bảy triệu tám trăm tám mươi ngàn) đồng; Trả tiền lương cho ông những ngày không được làm việc tính từ ngày 11/5/2020 đến ngày 11/4/2022 là 435.620.000 (Bốn trăm ba mươi lăm triệu sáu trăm hai mươi ngàn) đồng; Trả tiền thưởng thành tích và hiệu quả kinh doanh KPI năm 2019 là 18.940.000 (Mười tám triệu chín trăm bốn mươi ngàn) đồng;

Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH

Ngày 27/4/2022, nguyên đơn – ông Nguyễn Văn S có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Nguyên đơn rút các yêu cầu khởi kiện: Bồi thường hai tháng tiền lương là 37.880.000 đồng do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; Bồi thường hai tháng tiền lương trong trường hợp không muốn nhận ông trở lại làm việc theo hợp đồng trên hoặc công việc khác có vị trí, thu nhập tương đương là 37.880.000 đồng; Trả tiền lương cho ông những ngày không được làm việc tính từ ngày 11/5/2020 đến ngày 11/4/2022 là 435.620.000 đồng; Trả tiền thưởng thành tích và hiệu quả kinh doanh KPIs năm 2019 là 18.940.000 đồng; Trả tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp kể từ ngày 20/6/2020 tính đến ngày 20/3/2022 là 89.586.200 đồng.

Bị đơn rút các yêu cầu phản tố: Buộc nguyên đơn ông Nguyễn Văn S phải trả nửa tháng tiền lương là 9.470.000 đồng; Nguyên đơn ông Nguyễn Văn S phải trả khoản tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày không báo trước là 28.410.000 đồng. Bị đơn đồng ý với việc nguyên đơn rút một phần các yêu cầu khởi kiện.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Hủy một phần Bản án lao động sơ thẩm số: 08/2022/LĐ-ST ngày 14/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh và đình chỉ giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Văn S về việc yêu cầu bị đơn: Nhận ông Nguyễn Văn S trở lại làm việc theo Hợp đồng lao động số 18.70/09.26 ngày 01/9/2018; Bồi thường hai tháng tiền lương là 37.880.000 (Ba mươi bảy triệu tám trăm tám mươi ngàn) đồng do chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; Bồi thường hai tháng tiền lương trong trường hợp không muốn nhận ông trở lại làm việc theo hợp đồng trên hoặc công việc khác có vị trí, thu nhập tương đương là 37.880.000 (Ba mươi bảy triệu tám trăm tám mươi ngàn) đồng; Trả tiền lương cho ông những ngày không được làm việc tính từ ngày 11/5/2020 đến ngày 11/4/2022 là 435.620.000 (Bốn trăm ba mươi lăm triệu sáu trăm hai mươi ngàn) đồng; Trả tiền thưởng thành tích và hiệu quả kinh doanh KPIs năm 2019 là 18.940.000 (Mười tám triệu chín trăm bốn mươi ngàn) đồng; Trả tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp kể từ ngày 20/6/2020 tính đến ngày 20/3/2022 là 89.586.200 (Tám mươi chín triệu năm trăm tám mươi sáu ngàn hai trăm) đồng.

Hủy một phần Bản án lao động sơ thẩm số: 08/2022/LĐ-ST ngày 14/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh và đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty TNHH DH về việc: Nguyên đơn ông Nguyễn Văn S phải trả nửa tháng tiền lương là 9.470.000 (Chín triệu bốn trăm bảy mươi ngàn) đồng; Nguyên đơn ông Nguyễn Văn S phải trả khoản tiền tương ứng với tiền lương trong những ngày không báo trước là 28.410.000 (Hai mươi tám triệu bốn trăm mười ngàn) đồng.

Sửa Bản án lao động sơ thẩm số: 08/2022/LĐ-ST ngày 14/4/2022 của Tòa án nhân dân Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự .

44

Bản án số 560/2022/LĐ-PT ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Ngày 29/8/2018, ông H và Công ty N (do ông M làm giám đốc đại diện – sau đây gọi tắt là Công ty N ) ký kết Hợp đồng lao động số VN201409-01 không xác định thời hạn; thời gian làm việc bắt đầu tính từ ngày 18/9/2018; vị trí công việc: Trưởng Văn phòng đại diện tại Thành phố Hồ Chí Minh; mức lương thực lãnh là 23.200.000 đồng/tháng (Mức lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp là 25.194.400 đồng/tháng).

Ngày 18/12/2019, Công ty N bất ngờ thông báo và đưa cho ông H bản thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động ghi ngày 16/12/2019 đề nghị ông H ký nhưng ông H không đồng ý nên không nhận mà chỉ chụp lại văn bản này. Nội dung văn bản đề nghị chấm dứt hợp đồng lao động này tiếp tục được thể hiện tại nội dung thư điện tử ngày 31/12/2019 do Công ty Luật L gửi đến ông H .

Ngày 11/6/2020, ông H gửi đơn đến Phòng Lao động, Thương binh và Xã hội Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu hòa giải với mong muốn giải quyết tranh chấp với Công ty N theo đúng quy định pháp luật về lao động nhưng Công ty N vắng mặt.

Đến ngày 13/7/2020, ông H nhận được thư trong đó có “Đơn tố cáo” do Công ty N gửi đến các cơ quan cảnh sát điều tra với nội dung tố cáo ông H vi phạm pháp luật hình sự.

Nhận thấy Công ty N đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông H là trái pháp luật, ngăn cản quyền làm việc của ông H nên để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động, ông H khởi kiện yêu cầu buộc Công ty N phải thực hiện nghĩa vụ theo quy định tại Điều 41, Điều 42 Bộ luật Lao động năm 2012.

Công ty N không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông H. Ngoài ra,Công ty N đã có yêu cầu phản tố đề nghị Toà án giải quyết:

– Tuyên bố ông H đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động số VN201409-01 ngày 29/8/2018 trái pháp luật kể từ ngày 22/9/2020;

– Buộc ông H phải bồi thường các khoản tiền do đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật: gồm ½ tháng tiền lương là 11.600.000 đồng; tiền vi phạm thời hạn báo trước là 23.200.000 đồng/22 ngày x 45 ngày = 47.454.000 đồng;

– Buộc ông H phải bồi thường thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bảo mật theo quy định của Hợp đồng lao động với số tiền là 748.320.000 đồng (tương đương 32.000 USD x tỷ giá 23.385 đồng/USD của Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam ngày 12/6/2019);

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông H : Buộc Công ty N phải nhận ông H trở lại làm việc theo Hợp đồng lao động đã ký ngày 29/8/2018. Khi cần thiết hai bên thương lượng để sửa đổi, bổ sung hợp đồng lao động theo quy định pháp luật; Buộc Công ty N phải thanh toán cho ông H tổng số tiền: 696.151.800 đồng (bao gồm: Tiền lương từ tháng 01/2020 đến ngày 26/4/2022 là 644.323.000 đồng; tiền bồi thường 02 tháng lương là 51.828.800 đồng). Công ty N có nghĩa vụ thanh toán tiền lương kể từ ngày xét xử sơ thẩm cho đến khi ông H được nhận trở lại làm việc; Buộc Công ty N phải đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho ông H kể từ tháng 10/2020 cho đến khi nhận trở lại làm việc; Ghi nhận Công ty N đồng ý trả lại tờ rời xác nhận đóng bảo hiểm xã hội đến tháng 9/2020 cho ông H .

Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu khởi kiện của ông H đòi Công ty N thanh toán số tiền 14.135.000 đồng.

Không chấp nhận phần yêu cầu phản tố của Công ty N yêu cầu tuyên bố ông H đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật kể từ ngày 22/9/2020 và bồi thường số tiền 59.054.000 đồng.

Đình chỉ giải quyết phần yêu cầu phản tố của Công ty N yêu cầu ông H bồi thường thiệt hại số tiền 748.320.000 đồng.

Ngày 04/5/2022, Công ty N kháng cáo bản án sơ thẩm, yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Hội đồng xét xử xét thấy việc các đương sự đã tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án là hoàn toàn tự nguyện, không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội và không ảnh hưởng đến quyền lợi hợp pháp của các đương sự. Hội đồng xét xử căn cứ Điều 300 và Điều 308 của Bộ luật Tố tụng dân sự quyết định sửa bản án sơ thẩm và công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Sửa một phần bản án lao động sơ thẩm số 22/2022/LĐ-ST ngày 26 tháng 4 năm 2022 của Toà án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh.

57

Bản án số 720/2018/LĐ-PT ngày 02 tháng 8 năm 2018 của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp về đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Ngày 03/5/2017, ông L ký thỏa thuận về việc tiếp nhận và sử dụng lao động với Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại và Dịch vụ QM (gọi tắt là Công ty QM) với nội dung: Công ty tiếp nhận ông L vào làm việc từ ngày 03/5/2017, thời hạn: Không xác định thời hạn và theo tiến độ huy động của các dự án thủy điện do Công ty QM làm chủ đầu tư, chức danh: Phó trưởng ban/phòng quản lý dự án các công trình thủy điện, trực thuộc Công ty QM. Thực hiện thỏa thuận, Công ty QM tiếp nhận ông vào làm việc từ ngày 03/5/2017.

Tuy nhiên vào lúc 16 giờ 30 ngày 22/5/2017, người phụ trách nhân sự của Công ty QM đã thông báo cho ông tạm nghỉ việc với lý do Công ty chưa có đủ việc làm. Vì vậy ông đã tạm nghỉ việc từ ngày 23/5/2017. Ngày 25/5/2017, ông nhận được điện thoại từ Công ty yêu cầu ông đến Công ty để làm thủ tục nghỉ việc.

Ông L cho rằng Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật với ông, vi phạm Điều 41 Bộ luật lao động. Ông L yêu cầu Công ty QM bồi thường cho ông hai tháng tiền lương được ghi trong thỏa thuận là 40.000.000 đồng do vi phạm khoản 1 Điều 42 Bộ luật lao động; bồi thường 30.000.000 đồng do bị đơn chấm dứt hợp đồng lao động không báo trước đối với hợp đồng lao động không thời hạn quy định tại khoản 5 Điều 42 Bộ luật lao động, tổng cộng số tiền ông yêu cầu là 70.000.000 đồng. Ông đồng ý trả lại số tiền tạm ứng 15.000.000 đồng nhưng được trừ vào số tiền lương ông đã làm việc từ ngày 03/5/2017 đến ngày 22/5/2017 theo mức lương thỏa thuận trong hợp đồng.

Công ty Cổ phần xây dựng thương mại và dịch vụ QM không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông L. Ngoài ra, Công ty còn có yêu cầu phản tố yêu cầu ông L trả lại cho công ty 15.000.000 đồng mà ông L đã tạm ứng của Công ty. Công ty đồng ý trả tiền lương cho ông L những ngày ông L thực tế làm việc (8 ngày) theo bản chấm công bằng vân tay của Công ty với số tiền là 6.154.000 đồng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc buộc Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại và Dịch vụ QM bồi thường 02 (hai) tháng tiền lương với số tiền 40.000.000 (bốn mươi triệu) đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động và bồi thường 30.000.000 (ba mươi triệu) đồng do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, vi phạm thời hạn báo trước.

Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại và Dịch vụ QM có trách nhiệm thanh toán cho ông Nguyễn Văn L khoản tiền lương của những ngày làm việc là 13.333.500 (mười ba triệu ba trăm ba mươi ba nghìn năm trăm) đồng. Thanh toán một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Chấp nhận yêu cầu phản tố của Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại và Dịch vụ QM đối với ông Nguyễn Văn L: Buộc ông Nguyễn Văn L có trách nhiệm hoàn trả lại số tiền 15.000.000 (mười lăm triệu) đồng tiền tạm ứng cho Công ty Cổ phần Xây dựng Thương mại và Dịch vụ QM. Hoàn trả một lần ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Ngày 03 tháng 5 năm 2018, nguyên đơn – Ông Nguyễn Văn L nộp đơn kháng cáo đối với phần không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn bồi thường 2 tháng tiền lương 40.000.000 đồng do bị đơn đơn phương chấp dứt hợp đồng lao động trái pháp luật và bồi thường 45 ngày lương do vi phạm thời hạn báo trước là 30.000.000 đồng tại bản án sơ thẩm số 11/2018/LĐ – ST ngày 18 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh. Lý do Tòa sơ thẩm xét xử không khách quan, không đúng quy định của pháp luật, không đảm bảo quyền lợi hợp pháp của nguyên đơn. Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm xét xử lại vụ án theo hướng sửa một phần bản án sơ thẩm, chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật.

Ngày 18/6/2018, nguyên đơn có đơn kháng cáo bổ sung nội dung: Ngoài nội dung kháng cáo tại đơn kháng cáo lập ngày 03/5/2018, nguyên đơn kháng cáo bổ sung thêm nội dung buộc bị đơn bồi thường cho nguyên đơn tiền lương những ngày không được làm việc từ ngày 23/5/2017 đến ngày xét xử sơ thẩm 11/4/2018 là 10 tháng 26 ngày với số tiền 287.000.000 đồng.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Tòa cấp sơ thẩm căn cứ vào nội dung email ngày 18/7/2017 trả lời thư số 06/TM-QM ngày 21/6/2017 nguyên đơn gửi cho ông D – người đại diện hợp pháp của bị đơn và cho rằng nguyên đơn đã tự nguyện đồng ý chấm dứt hợp đồng lao động theo đề nghị của người sử dụng lao động quy định tại khoản 3 Điều 36 của Bộ luật lao động năm 2012 là không chính xác. Tòa cấp phúc thẩm không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn cho rằng bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng trái pháp luật và yêu cầu bị đơn bồi thường hai tháng tiền lương là 40.000.000 đồng, bồi thường 45 ngày lương do vi phạm thời hạn báo trước là 30.000.000 đồng.

Đối với yêu cầu kháng cáo bổ sung của nguyên đơn, yêu cầu bị đơn bồi thường cho nguyên đơn tiền lương những ngày không được làm việc 287.000.000 đồng. Phần yêu cầu bổ sung này chưa được Tòa cấp sơ thẩm giải quyết. Việc kháng cáo bổ sung của nguyên đơn đã vượt quá thời hạn kháng cáo quy định tại Điều 284 Bộ luật tố tụng dân sự và nội dung bổ sung vượt quá phạm vi kháng cáo ban đầu nên Tòa cấp phúc thẩm không thể xem xét. Mặt khác, do không có cơ sở xác định bị đơn đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động nên cũng không phát sinh nghĩa vụ bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 42 của Bộ luật lao động năm 2012.

Tuy nhiên, sau khi có bản án sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn đều không kháng cáo phần tiền lương nên Tòa cấp phúc thẩm xét thấy không cần thiết hủy một phần quyết định về yêu cầu thanh toán tiền lương của nguyên đơn vì nếu hủy phần này sẽ làm mất thời gian giải quyết lại của các cơ quan tiến hành tố tụng cũng như thời gian của các đương sự tham gia tố tụng trong vụ án, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án mà nội dung cũng không thay đổi. Tòa cấp sơ thẩm cần rút kinh nghiệm.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn – ông Nguyễn Văn L. Giữ nguyên bản án lao động sơ thẩm số 11/2018/LĐST ngày 18 tháng 4 năm 2018 của Tòa án nhân dân quận BT, Thành phố Hồ Chí Minh.

66

Bản án số 1026/2017/LĐ-PT ngày 17 tháng 11 năm 2017 của Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: “Tranh chấp đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động, tiền lương, trợ cấp thai sản”

Tóm tắt nội dung vụ việc:

Ngày 12/10/2011 bà Lan A có ký hợp đồng lao động với Công ty PT (gọi tắt là Công ty hay Công ty PT) số 10/2011/PT với thời hạn 01 năm. Sau đó đến ngày 31/12/2012 giữa hai bên ký lại hợp đồng không xác định thời hạn với mức lương là 5.000.000 đồng, chức vụ là kế toán trưởng. Ngày 01/7/2013 Công ty ra quyết định điều chỉnh lương cho bà 7.520.000 đồng, tuy nhiên trên thực tế lương thực nhận là 7.500.000 đồng/tháng.

Trong thời gian làm việc tại công ty, Công ty thường xuyên chậm thanh toán và nợ lương của bà nên tháng 11/2013 nhân lúc Công ty ít việc và bà đang mang thai nên bà Lan A có xin Công ty nghỉ việc. (bằng miệng, không làm đơn). Ngày 19/11/2013, bà Anh và đại diện Công ty là ông Lê Trung H lập bảng chi tiết lương nhân viên Nguyễn Thị Lan A từ ngày 01/01/2013 đến ngày 30/11/2013 thể hiện quá trình thanh toán lương của Công ty với bà Anh, xác nhận số tiền lương Công ty còn nợ bà Lan A tính đến 30/11/2013 là 49.930.788 đồng (trong đó có 01 tháng lương trợ cấp thôi việc là 7.500.000 đồng). Sau đó Công ty đã chuyển trả cho bà số tiền lương còn thiếu và tiền trợ cấp thôi việc nêu trên nhưng vẫn còn thiếu lại tiền lương của bà Lan A là 5.430.000 đồng.

Do Công ty không muốn tuyển thêm nhân viên kế toán nên Công ty đã đề nghị bà Lan A tiếp tục công việc như hợp đồng không xác định thời hạn đã ký và đồng ý cho bà mang hồ sơ sổ sách kế toán về nhà làm, bà vẫn làm mọi việc của Công ty liên quan đến kế toán và khi cần bà vẫn đến Công ty.

Hết thời gian nghỉ thai sản tháng 08, 09/2014 bà liên lạc với Công ty để đi làm lại nhưng Công ty không sắp xếp công việc cho bà. Tháng 8, tháng 9 /2014 bà có đến Công ty nhiều lần để hỏi về công việc nhưng không gặp ai và cũng không ai phân việc cho bà do đó bà chưa đi làm được. Khi liên hệ được ban giám đốc thì nói là công việc của bà đã giao cho người khác làm. Do đó bà khưởi kiện đề nghị Toà án yêu cầu Công ty thanh toán các khoản tiền mà Công ty đã đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật.

Công ty không đồng ý toàn bộ yêu cầu đơn khởi kiện của bà Lan A. Ngoài ra, nguyên đơn có yêu cầu phản tố đề nghị Tòa án buộc bà Lan A phải trả cho các Công ty các khoản tiền như sau: – Tiền lương 45 ngày không báo trước số tiền là 7.500.000 đồng;- Bồi thường ½ tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật, số tiền là 2.500.000 đồng; – Theo bảng lương chi tiết của nhân viên ngày 19/11/2013 thì Công ty còn nợ bà Lan A sau khi trừ đi các khoản tạm ứng là: 49.930.788 đồng – 7.500.000 đồng (tiền 01 tháng trợ cấp thôi việc, do bà Lan A nghỉ việc không báo trước theo quy định của pháp luật nên không được hưởng trợ cấp thôi việc) – 27.500.000 đồng (chênh lệch tiền lương 2.5000.000 đồng/tháng x11 tháng)) = 14.930.788 đồng. Do Công ty đã chuyển trả nhầm cho bà Lan A số tiền là 44.500.000 đồng và bà Lan A đã nhận đủ số tiền này. Do đó bà Lan A phải trả lại cho Công ty số tiền là 44.500.000 đồng – 14.930.788 đồng = 29.569.212 đồng; Trả 20% tiền bảo hiểm xã hội cho bà Lan A tự kê tiền lương khai báo đóng bảo hiểm xã hội không đúng với hợp đồng lao động, tự khai đóng bảo hiểm xã hội trong thời gian bà Lan A đã nghỉ việc, khiến cho Công ty phải đóng bảo hiểm cao hơn so với tiền phải đóng theo quy định của pháp luật. Theo văn bản xác nhận quá trình tham gia bảo hiểm xã hội của bà Lan A của Bảo hiểm xã hội quận T, tổng cộng 44.533.212 đồng; Trả lại cho Công ty các tài sản đã được công ty bàn giao để làm việc.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lan A. Buộc Công ty PT có trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Lan A số tiền 66.865.961 đồng (sáu mươi sáu triệu tám trăm sáu mươi lăm nghìn chín trăm sáu mươi mốt đồng)

Bà Nguyễn Thị Lan A giao lại sổ Bảo hiểm xã hội cho Công ty PT và Công ty PT có trách nhiệm liên hệ với Bảo hiểm xã hội quận T hoàn tất việc trích nộp các khoản tiền để chốt sổ bảo hiểm cho bà Lan A đến tháng 11/2013.

Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Nguyễn Thị Lan A về các yêu cầu như: Trợ cấp thôi việc (từ tháng 10/2011 đến tháng 06/2017) tiền lương những ngày không được làm việc (từ ngày 15/8/2014 đến tháng 06/2017), bồi thường 2 tháng tiền lương do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật; bồi thường 45 ngày tiền lương do vi phạm thời gian báo trước, tiền phép năm (từ tháng 10/2011 đến tháng 06/2017), tiền BHXH, BHYT và chốt sổ BHXH tính đến ngày xét xử.

Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty PT: Buộc bà Nguyễn Thị Lan A có trách nhiệm giao lại toàn bộ tài liệu, thiết bị cho Công ty PT.

Không chấp nhận yêu cầu đòi số tiền 44.533.212 đồng của Công ty PT đối với bà Nguyễn Thị Lan A.

Ngày 21 tháng 6 năm 2017, nguyên đơn – bà Nguyễn Thị Lan A nộp đơn kháng cáo một phần mục 1, toàn bộ mục 2, toàn bộ mục 3 của bản án lao động sơ thẩm số 21/2017/LĐ – ST ngày 08 tháng 6 năm 2017 của Tòa án nhân dân quận T, cho rằng Tòa án nhân dân quận T không xem xét và đánh giá không đúng và đầy đủ các chứng cứ nguyên đơn đưa ra. Nguyên đơn yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Tòa cấp sơ thẩm căn cứ phiếu chi số 55 ngày 30/12/2013 (lý do chi: tạm ứng thanh toán tiền lương) để cho rằng Công ty PT đã trả lương tháng 12/2013 cho bà Lan A là 5.000.000 đồng và xác định số tiền 5.00.000 đồng là tiền lương làm thêm của bà Lan A là không chính xác. Do đó Tòa cấp phúc thẩm sửa phần này của án sơ thẩm, chấp nhận kháng cáo của bà Lan A đối với tranh chấp về tiền lương làm thêm từ tháng 12/2013 đến tháng 3/2014, xác định lương bà Lan A được hưởng lương làm kế toán tại nhà là 7.500.000 đồng/tháng và buộc Công ty PT phải trả cho bà Lan A tiền lương tháng 12/2013 và tháng 1, 2, 3/2014 là 30.000.000 đồng.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị Lan A, sửa một phần bản án lao động sơ thẩm số 21/2017/LĐ – ST ngày 08/6/2017 của Tòa án nhân dân quận T.

Xem bản đầy đủ tại file pdf đính kèm!

76

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 20 bản án lao động có yêu cầu phản tố

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan