FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 16 QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 16 QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG VỤ ÁN |
TRANG |
1 |
Quyết định giám đốc thẩm số: 03/2022/KDTM-GĐT ngày 22/03/2022 của Tòa án nhân dân Tối cao.
Về việc “Tranh chấp Hợp đồng xây dựng” Nội dung vụ án: Ngày 02/5/2007, công ty cổ phần R (viết tắt là REE) và công ty B (viết tắt BUCG) ký kết Hợp đồng thầu phụ số HVTS020REE.01 dựa trên chỉ định ngày 13/02/2007 của chủ đầu tư công ty TNHH H (viết tắt HVTS) và quản lý dự án là công ty TNHH A (viết tắt AIC). REE đã thực hiện gói thầu 3B dịch vụ cơ điện (ACMV/Thuỷ lực) theo đúng thiết kế, số lượng, chất lượng và tiêu chuẩn cho các hạng mục công trình tại công trình Golden Westlake như quy định trong hợp đồng thầu phụ. Theo đó, AIC đã cấp Giấy chứng nhận nghiệm thu toàn bộ công trình để đưa vào sử dụng từ ngày 16/06/2012. Nhưng BUCG đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Do đó, ngày ngày 17/02/2012, REE khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội giải quyết buộc BUCG phải thanh toán toàn bộ số tiền còn nợ theo hợp đồng là nợ gốc là 11.549.549.340 đồng và số tiền lãi phát sinh tạm tính đến ngày 15/02/2012 là 6.232.606.000 đồng. Sau đó, ngày 28/7/2017, REE có đơn bổ sung yêu cầu khởi kiện: thêm bị đơn HVTS và đề nghị Tòa án giải quyết buộc BUCG và HVTS liên đới chịu trách nhiệm thanh toán một lần số tiền nợ gốc là 8.811.831.000 đồng và tiền lãi chậm thanh toán tạm tính đến ngày 30/7/2017 là 12.566.268.841. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm lần 1 quyết định: – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần R về việc yêu cầu Công ty B thanh toán số tiền còn nợ 17.837.659.252 đồng (Mười bảy tỷ tám trăm ba mươi bảy triệu sáu trăm năm mươi chín nghìn hai trăm năm mươi hai đồng) của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ký giữa hai bên ngày 02/5/2007. – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần R về việc yêu cầu Công ty TNHH H phải thanh toán số tiền 17.837.659.252 đồng (Mười bảy tỷ tám trăm ba mươi bảy triệu sáu trăm năm mươi chín nghìn hai trăm năm mươi hai đồng) trong trường hợp Công ty B không thanh toán. – Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Ngày 11/10/2012, Công ty Cổ phần R có đơn kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm lần 2 quyết định: – Giữ nguyên Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 142/2012/KDTMST ngày 24, 25/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. – Ghi nhận sự thỏa thuận: Công ty B (Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng quốc tế B) thanh toán số tiền phí bảo hành 133.367,07 USD cho Công ty Cổ phần R.. Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty Cổ phần R có đơn đề nghị xem xét lại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm. Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lần 1 quyết định: Chấp nhận Kháng nghị số 15/2016/KDTM-KN ngày 13/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 62/2013/KDTM-PT ngày 16/4/2013 của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 142/2012/KDTM-ST ngày 25/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm lần 2 quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần R về việc yêu cầu Công ty B và Công ty TNHH H liên đới thanh toán số tiền còn nợ của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ký giữa hai bên ngày 02/5/2007. Buộc Công ty B và Công ty TNHH H liên đới hoàn trả cho Công ty Cổ phần R số tiền cụ thể: Tiền gốc là 317.988,47 USD tương đương 7.436.160.000 đồng (Bảy tỷ bốn trăm ba mươi sáu triệu một trăm sáu mươi nghìn đồng). Số tiền lãi là 8.391.734.000 đồng (Tám tỷ ba trăm chín mươi mốt triệu bảy trăm ba mươi tư nghìn đồng). Toàn bộ số tiền nêu trên do Công ty TNHH H phải thanh toán cho Công ty Cổ phần R. Ngày 15/11/2018, công ty TNHH H có đơn kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm lần 2 quyết định: – Đình chỉ xét xử phúc thẩm vụ án kinh doanh, thương mại thụ lý số 23/2019/TLPT-KDTM ngày 14/6/2019 về “Tranh chấp hợp đồng xây dựng”. – Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội có hiệu lực pháp luật kể từ ngày ra quyết định này. Ngày 03/02/2021, Công ty TNHH H có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lần 2 nhận định: Việc REE căn cứ vào Điều 16.7 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 – phần II Điều kiện cụ thể của Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 để yêu cầu Tòa án buộc HVTS phải liên đới thanh toán và trực tiếp thanh toán trả REE số tiền công nợ theo hợp đồng bao gồm cả gốc và lãi là không có cơ sở. Theo quy định tại Điều 3 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 giữa BUCG và REE thì BUCG phải có nghĩa vụ trả cho REE các khoản tiền của thỏa thuận hợp đồng thầu phụ mà hai bên đã ký kết; HVTS không phải là một bên ký kết hợp đồng thầu phụ nên không bị ràng buộc nghĩa vụ của BUCG với REE theo Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007. HVTS đã thanh toán toàn bộ dự án nêu trên cho nhà thầu chính BUCG và BUCG cũng đã xác nhận thanh toán đầy đủ cho các nhà thầu phụ, trong đó có REE, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại căn cứ vào “Lẽ công bằng” để buộc HVTS thanh toán số tiền 15.827.894.000 đồng cho REE là không đúng với Điều 3 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ngày 02/5/2007 giữa BUCG và REE, không đúng với Điều 3 Bộ luật dân sự năm 2015; Điều 45 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015. Về tố tụng: Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không đúng, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Bản án sơ thẩm này có hiệu lực thông qua Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm. Do đó, mặc dù Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm là không sai, nhưng cần phải kháng nghị hủy cả Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm nêu trên và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội để giải quyết lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lần 2 quyết định: 1. Chấp nhận một phần Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 14/QĐKNGĐT-VKS-KDTM ngày 05/10/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao. 2. Hủy Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 05/2020/QĐ-PT ngày 23/10/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội; hủy Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 49/2018/KDTM-ST ngày 05/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về vụ án “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” giữa nguyên đơn là Công ty Cổ phần R với bị đơn là Công ty B, Công ty Trách nhiệm hữu hạn H; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Công ty Trách nhiệm hữu hạn A. 3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật. |
1 – 11 |
2 |
Quyết định giám đốc thẩm số: 15/2016/KDTM-GĐT ngày 07/09/2016 của Tòa án nhân dân Tối cao.
Về việc “Tranh chấp Hợp đồng xây dựng” Nội dung vụ án: Ngày17/02/2012, công ty cổ phần dịch vụ kỹ thuật A (công ty A) khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc công ty B phải thanh toán tiền theo nghĩa vụ hợp đồng thầu phụ số H0207 A01 (thực hiện gói thầu 3B “Dịch vụ cơ điện” cho Dự án G tại số 151 phố T, quận T, thành phố Hà Nội) dựa trên ý định thư ngày 13/02/2007 của Chủ đầu tư là Công ty TNHH H (Công ty H) và Quản lý dự án là công ty TNHH K (Công ty K) với tổng số tiền phải thanh toán là 17.782.340 đồng (trong đó tiền lãi tạm tính đến ngày 15/02/2012 6.232.6.6.000 đồng). Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần dịch vụ và kỹ thuật A về việc yêu cầu Công ty thanh toán số tiền còn nợ 17.837.659.252 của Thỏa thuận Hợp đồng thầu phụ ký giữa hai bên ngày 02/5/2007. 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần dịch vụ và kỹ thuật A về việc yêu cầu Công ty H phải thanh toán số tiền 17.837.659.252 đồng trong trường hợp Công ty B không thanh toán. – Bác các yêu cầu khác của các đương sự. Ngày 11/10/2012, Công ty Cổ phần A kháng cáo bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Tại Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 62/2013/KDTM-PT ngày 16/4/2013, Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội quyết định giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau khi xét xử phúc thẩm, Công ty Cổ A có đơn đề nghị xem xét lại Bản án phúc thẩm theo thủ tục giám đốc thẩm. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao nhận định: Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Bảng quyết toán ngày 20/5/2011 và ngày 28/9/2011 do Công ty A lập có nội dung về khoản phạt 5% để cho rằng Công ty A chấp nhận khoản phạt này và đối trừ vào số tiền Công ty B đã thanh toán mà không xem xét, đánh giá và làm rõ Công ty B đã thực hiện đúng trình tự, thủ tục để được trừ hoặc giảm số tiền theo quy định viện dẫn ở trên hay chưa. Hồ sơ cũng không thể hiện có Chứng chỉ thanh toán xác nhận số tiền Công ty A bị giảm trừ và Công ty B đã thanh toán số tiền còn nợ lại Công ty A. Trong khi đó, theo 02 Bảng quyết toán này thì Công ty A chỉ đồng ý chấp nhận giảm trừ tiền phạt chậm tiến độ 5% là 125.000 USD/ 257,348.47 USD, tức là hai bên chưa thống nhất được số tiền giảm trừ do bị phạt. Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm chưa xem xét, đánh giá làm rõ tính đến thời điểm ngày 31/8/2009 (ngày Chủ đầu tư và Quản lý dự án yêu cầu Công ty A phải hoàn thành công trình), Công ty A đã thực hiện được bao nhiêu phần trăm khối lượng, giá trị công việc, Công ty A còn phải thực hiện là bao nhiêu để có cơ sở xác định giá trị hợp đồng bị vi phạm mà đã buộc Công ty A phải chịu phạt 5% giá trị toàn bộ hợp đồng là không đúng. Về tiền lãi chậm thanh toán: Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án phúc thẩm căn cứ vào Bảng quyết toán ngày 20/5/2011 và ngày 28/9/2011cho rằng Công ty B đã thanh toán cho Công ty A số nợ gốc còn lại thông qua việc đối trừ các khoản Công ty A bị phạt giảm trừ trong khi chưa xem xét, đánh giá làm rõ việc Công ty A bị phạt giảm trừ có được thực hiện đúng trình tự, thủ tục theo thỏa thuận của các bên không? các bên có thực hiện việc đối chiếu công nợ không? có thỏa thuận số tiền Công ty A bị phạt giảm trừ được thực hiện trước hay sau khi các bên đối chiếu công nợ? Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao lần 2 quyết định: 1. Chấp nhận Kháng nghị số 15/2016/KDTM-KN ngày 13/4/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đối với Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 62/2013/KDTM-PT ngày 16/4/2013 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội. 2. Hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm số 62/2013/KDTM-PT ngày 16/4/2013 của Tòa Phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Hà Nội và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 142/2012/KDTM-ST ngày 24 – 25/9/2012 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội. 3. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật |
12 – 17 |
3 |
Quyết định giám đốc thẩm số 21/2021/KDTM-GĐT ngày 17/12/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Về việc “tranh chấp hợp đồng xây dựng” Nội dung vụ án: Ngày 29/4/2014, Công ty cổ phần L (sau đây viết tắt là công ty L) và Chi nhánh N – Công ty TNHH MTV D nay là Tổng công ty D – Công ty cổ phần (sau đây viết tắt là công ty D) ký Hợp đồng thi công xây dựng công trình số 01/2014/HĐ-XD (sau đây viết tắt là Hợp đồng 01) theo đó Chủ đầu tư là Công ty L giao Nhà thầu là công ty D thực hiện việc thi công xây dựng gói thầu 1: Hạ tầng kỹ thuật, kè, cổng và tường rào thuộc Dự án đầu tư xây dựng và khai thác Bến xe phía Nam thành phố L. Sau đó, công ty D đã tiến hành thi công các hạng mục theo thỏa thuận tại hợp đồng 01. Quá trình thi công công trình hai bên không phát sinh tranh chấp. Ngày 09/3/2016, các bên đã lập biên bản nghiệm thu và bàn giao đưa vào sử dụng gói thầu 01. Sau khi tiến hành nghiệm thu và thanh lý hợp đồng, công ty L nhận thấy công ty D không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình dẫn đến công trình không đảm bảo yêu cầu kỹ thuận theo thiết kế nên các bên đã tiến hành họp và lập biên bản ngày 11/4/2017 và ngày 09/5/2017. Theo đó, đại diện công ty D đã thừa nhận sai sót của nhà thầu và cam kết sẽ khắc phục hậu quả nhưng sau đó các bên không đưa ra được giải pháp khắc phục đối với các hạng mục không đảm bảo kỹ thuật. Do đó, công ty L khởi kiện đề nghị Tòa án buộc công ty D phải thi công lại đối với những hạng mục không đúng thiết kế. Trong trường hợp không thi công lại thì đề nghị hoàn lại số tiên đã được thanh toán theo từng hạng mục; yêu cầu Tòa án tuyên mục 17.2 của Điều 17 trong hợp đồng số 01 vô hiệu do vi phạm quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty L. Buộc công ty D phải hoàn trả lại số tiền 2.955.921.208 cho công ty L. Tuyên bố vô hiệu một phần Hợp đồng số 01 tại mục 17.2 Điều 17 của hợp đồng về thỏa thuận lựa chọn Tòa án kinh tế tại Hà Nội để giải quyết tranh chấp. Ngày 03/10/2019, Tổng công ty D có kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của Tổng công ty D, giữ nguyên Bản án KDTM sơ thẩm số 01/2019/KDTM-ST. Ngày 19/12/209, Chánh án TAND cấp cao tại Hà Nội đã kháng nghị đối với bản án KDTM phúc thẩm nêu trên. Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội nhận định: Ngày 03/6/2016, các hạng mục đã được nghiệm thu đưa vào sử dụng. Ngày 16/12/2016, công ty L và công ty D ký biên bản thanh lý Hợp đồng 01 theo đó nghĩa vụ thực hiện hợp đồng của công ty D đã hoàn thành, các hạng mục được chuyển sang nghĩa vụ bảo hành 12 tháng kể từ ngày ký biên bản nghiệm thu, bàn giao và đưa vào sử dụng. Tại biên bản cuộc hợp ngày 18/7/2016, biên bản làm việc ngày 11/11/2016, biên bản cuộc họp ngày 11/4/2017, biên bản họp ngày 09/5/2017 đại diện công ty D thừa nhận những sai sót của nhà thầu trong quá trình thi công. Tại báo cáo kết quả giám định chất lượng công trình ngày 26/6/2019 của Văn phòng tư vấn TĐTK và GĐCLCT thuộc trường Đại học T thể hiện có nhiều hạng mục chưa đạt yêu cầu kỹ thuật, chưa đúng thiết kế. Như vậy, căn cứ vào các biên bản làm việc và báo cáo kết quả chất lượng công trình có căn cứ xác định, quá trình thi công Nhà thầu có những sai sót. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng công ty D thi công không đúng thiết kế dẫn đến chất lượng công trình không đảm bảo, gây thiệt hại cho công ty L nên xác định giá trị thiệt hại là tổng giá trị của các hạng mục do Công ty D thi công là 4.222.744.583 đồng, xác định lỗi của công ty D là 70%, từ đó buộc công ty D phải bồi thường là không đúng. Trong vụ án này, khối lượng mà công ty D nhận thầu với công ty L bao gồm nhiều hạng mục khác nhau … Theo thỏa thuận giữa các bên tại Điều 5 của Hợp đồng 01 thì công ty D sẽ phải sửa chữa hạng mục thi công chưa đúng, nếu công ty D không tiến hành khắc phục thì công ty L sẽ thực hiện hoặc thuê người thực hiện và công ty D phải chịu toàn bộ chi phí. Do đó, để buộc công ty D bồi thường cho công ty L thì ngoài việc xác định lỗi, mức độ lỗi của các bên cần xác định thiệt hại, chi phí thực tế của công ty L phải bỏ ra để khắc phục, sửa chữa những hạng mục có sai sót do công ty D thực hiện. Tòa án chỉ có thể xác định giá trị thiệt hại là tổng giá trị các hạng mục do công ty D thi công khi chứng minh được lỗi của công ty D trực tiếp dẫn đến việc công ty L mất toàn bộ lợi ích từ công trình hoặc phần lớn công trình không thể đưa vào sử dụng đúng mục đích. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập các tài liệu, chứng cứ liên quan đến hồ sơ thiết kế ban đầu, thay đổi thiết kế; không làm rõ về việc thay đổi thiết kế, lỗi của các bên trong quá trình thiết kế và thi công…Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm còn chưa thu thập tài liệu, chứng cứ về việc khắc phục sai sót của công ty D, chi phí công ty L phải bỏ ra để khắc phục những sai sót này, thiệt hại thực tế của công ty L để từ đó là căn cứ buộc công ty D phải bồi thường. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa làm rõ các vấn đề nêu trên nhưng buộc công ty L phải bồi thường 70% tổng giá trị hợp đồng là chưa đủ cơ sở vững chắc. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm xác định công ty H (bên thứ ba) có lỗi nhưng không giải quyết trong vụ án này là chưa toàn diện. Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Hà Nội quyết định: 1. Hủy Bản án KDTM phúc thẩm số 02/2019/KDTM-PT ngày 11/11/2019 của TAND tỉnh LS và Bản án KDTM sơ thẩm số 01/2019/KDTM-ST ngày 23/9/2019 của TAND huyện CL. 2. Giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện CL, tỉnh LS xét xử lại theo thủ tục sở thẩm theo quy định của pháp luật. |
18 – 23 |
4 |
Quyết định giám đốc thẩm số 20/2021/GĐT-KDTM ngày 30/09/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Về việc “Tranh chấp hợp đồng xây dựng” Nội dung vụ án: Ngày 18/7/2009, Công ty cổ phần D ký với Công ty cổ phần B Hợp đồng xây lắp số 032/2009/HĐ-SGĐH nhận thi công Gói thầu số 4 Dự án khách sạn S – Đ với tổng giá trị hợp đồng là 25.972.700.000 đồng. Ngày 13/07/2012 hai bên ký Biên bản thanh lý hợp đồng với giá trị quyết toán là 31.415.521.000 đồng; Công ty B đã ứng và nhận thanh toán trước 24.639.048.006 đồng nên còn được nhận 6.776.472.994 đồng, trừ 5% tiền bảo hành công trình tương đương 1.570.776.050 đồng bị tạm giữ thì số tiền còn lại 5.205.696.944 đồng Công ty D cam kết sẽ thanh toán ngay sau khi Công ty B xuất hóa đơn VAT. Ngày 16/7/2012, Công ty B đã xuất hóa đơn VAT cho Công ty D, nhưng Công ty D không thực hiện cam kết. Công trình đã được các bên ký Biên bản nghiệm thu bàn giao đưa vào sử dụng từ ngày 25/8/2011, đến nay đã hết hạn bảo hành 12 tháng nên Công ty B khởi kiện yêu cầu Công ty D thanh toán đủ 6.776.472.994 đồng còn nợ, yêu cầu trả tiền lãi chậm thanh toán là 2.638.089.742 đồng, tổng cộng 9.414.562.466 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm lần 1 quyết định: 1. Buộc Công ty D trả Công ty cổ phần B số tiền thanh toán còn thiếu của Gói thầu số 4: 6.776.472.994 đồng, tiền lãi: 2.638.089.742 đồng, tổng cộng 9.414.562.466 đồng. 2. Đình chỉ xét xử yêu cầu phản tố của Công ty D vì chưa đủ điều kiện khởi kiện. Công ty D kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm lần 1 quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm Công ty D có Đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm. Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm và Bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đ xét xử sơ thẩm lại. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm lần 2 quyết định: 1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty cổ phần B, buộc bị đơn Công ty cổ phần D phải trả cho nguyên đơn Công ty cổ phần B tổng số tiền 2.682.436.414 đồng, trong đó số tiền còn nợ của gói thầu số 04 là 2.057.872.202 đồng và tiền lãi 624.564.212 đồng. 2. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bị đơn Công ty cổ phần D, buộc nguyên đơn Công ty cổ phần B phải trả cho bị đơn Công ty Cổ phần D tổng số tiền 12.567.221.997 đồng, trong đó nợ số tiền tạm ứng, thanh toán vượt khối lượng là 9.208.442.570 đồng và tiền lãi 3.358.779.427 đồng. Công ty B kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm lần 2 quyết định: Hủy Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2019/KDTM-ST ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân thành phố Đ giải quyết sơ thẩm lại. Ngày 31/7/2020, Công ty D có Đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm bản án phúc thẩm. Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng nhận định: Để thi công Dự án khách sạn Sài Gòn Đ thì Công ty D và Công ty B đã ký 03 Hợp đồng xây lắp. Đối với gói thầu số 4: Ngày 16/7/2012, Công ty B xuất hóa đơn và đến khi hết hạn bảo hành nhưng Công ty D phản hồi chưa thanh toán lý do Công ty D có vốn Nhà nước nên yêu cầu Công ty B cung cấp đủ hồ sơ quyết toán. Tại Biên bản họp ngày 21/8/2012, đại diện Công ty B cho biết “hồ sơ quyết toán gói thầu số 04, nhà thầu đã hiệu chỉnh lại hoàn chỉnh vào ngày 21/8/2012 để chuyển lại cho Tư vấn quản lý dự án trình chủ đầu tư phê duyệt”. Tại Báo cáo ngày 24/9/2012 (bl 1.197) Công ty D báo cáo Thanh tra Bộ Xây dựng là Chủ đầu tư khi kiểm tra hồ sơ quyết toán phát hiện đơn giá vật liệu không đúng công bố giá hàng tháng của tỉnh Quảng Trị nên đã trả hồ sơ yêu cầu Nhà thầu làm lại. Tại Biên bản làm việc ngày 09/8/2013, có đại diện Công ty B, Công ty TNHH Dịch vụ Tư vấn và Kiểm toán UHY ACA, Liên doanh Biteccont – Nagecco, các bên ghi nhận Công ty B đã bàn giao hồ sơ Gói thầu số 4, nhưng cần cung cấp bổ sung Biên bản nghiệm thu phần khối lượng phát sinh ngoài thầu, Bảng tính chi tiết đơn giá điều chỉnh. Tại Biên bản họp ngày 25/9/2013 (bl 452) Công ty B yêu cầu Công ty D sớm thanh toán Gói thầu số 4, nhưng Công ty D cho rằng Công ty B chưa cung cấp đủ hồ sơ quyết toán. Công ty D có Công văn mời Công ty B, Tư vấn quản lý Dự án và Tư vấn giám sát họp để xem xét, cung cấp đủ hồ sơ quyết toán, nhưng Công ty B từ chối họp vì cho rằng Gói thầu số 4 đã thi công xong và đã thanh lý hợp đồng. Hội đồng xét xử giám đốc thẩm xét thấy đối với Gói thầu số 4 thì tuy ngày 13/7/2012 hai bên ký Biên bản thanh lý hợp đồng, nhưng ngày 12/7/2013 Công ty B ký Bản cam kết đồng ý lấy kết quả kiểm toán làm căn cứ thanh toán. Do Công ty B không thực hiện ý kiến của Đoàn Thanh tra Bộ Xây dựng cũng như không cung cấp Biên bản nghiệm thu phần khối lượng phát sinh ngoài thầu, Bảng tính chi tiết đơn giá điều chỉnh… như yêu cầu của Công ty Kiểm toán, đến nay vụ án này đã trải qua 1 vòng tố tụng nhưng Công ty B không cung cấp được tài liệu hợp pháp chứng minh khối lượng phát sinh ngoài thầu để yêu cầu Công ty D thanh toán; do đó, Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ những tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án để giải quyết là đúng quy định. Tòa án cấp sơ thẩm dành quyền khởi kiện bằng một vụ án khác cho Công ty B đối với Công ty D yêu cầu thanh toán giá trị phần khối lượng Gói thầu số 04 đã thi công mà chưa được thanh toán nếu bổ sung được đầy đủ hồ sơ, thủ tục thanh toán và có kết quả của Kiểm toán là có cơ sở, đúng pháp luật, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty B. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định Tòa án sơ thẩm chưa yêu cầu các đương sự cung cấp đầy đủ chứng cứ để giải quyết mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể thực hiện được nên hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại là trái với quy định. Đối với gói thầu số 5 và số 19: Công ty D cho rằng Công ty B thi công 02 Gói thầu này chậm tiến độ, đã họp nhiều lần nhưng không khắc phục được, buộc phải thuê Nhà thầu khác hoàn thành Dự án; Công ty B cho rằng Công ty D tự ý cắt giảm một số hạng mục và gọi “ồ ạt” Nhà thầu khác vào thi công, dẫn đến khó khăn cho việc xác định khối lượng đã thi công. Công ty D có lỗi khi chưa tổ chức lập các biên bản hiện trường trước khi gọi Nhà thầu khác nhưng có việc Công ty B thi công chậm tiến độ, hai bên đã họp nhiều lần nhưng tình trạng không được khắc phục nên việc Công ty D gọi Nhà thầu khác có năng lực vào thi công là điều phù hợp với thực tế. Theo Điều 21 Nghị định số 48/2010/NĐ-CP ngày 07/5/2010 thì Bên nhận thầu có trách nhiệm lập hồ sơ quyết toán gửi Bên giao thầu. Sau khi gọi Nhà thầu khác vào, Công ty D nhiều lần Thông báo yêu cầu Công ty B cung cấp chứng từ, tài liệu chứng minh giá trị khối lượng đã thi công chưa được nghiệm thu nhưng đến nay Công ty B không gửi chứng từ, tài liệu cũng như không phối hợp với Công ty D để giải quyết phần giá trị thi công chưa được nghiệm thu (nếu có). Công ty B không lập, gửi hồ sơ quyết toán kèm chứng từ, tài liệu chứng minh phần giá trị khối lượng thi công chưa được nghiệm thu (nếu có) của Gói thầu số 5 và Gói thầu số 19 nên không có cơ sở để xem xét phần giá trị thi công chưa được nghiệm thu (nếu có) của Gói thầu số 5 và Gói thầu số 19 như yêu cầu của Công ty B. Với Gói thầu số 5: Giá trị hợp đồng hai bên ký kết là 24.359.099.000 đồng, Công ty D chỉ công nhận giá trị thi công đã được hai bên nghiệm thu, xuất hóa đơn VAT là 7.242.915.980 đồng, Công ty D đã cho Công ty B tạm ứng và thanh toán trước tổng số tiền 14.096.502.562 đồng nên Tòa án nhân dân thành phố Đ buộc Công ty B hoàn trả Công ty D 6.803.586.582 đồng là có cơ sở. Đối với Gói thầu số 19: Giá trị hợp đồng hai bên ký kết là 9.136.000.000 đồng, Công ty D chỉ công nhận giá trị thi công đã được hai bên nghiệm thu, xuất hóa đơn VAT là 7.242.915.980 đồng, Công ty D đã cho Công ty B tạm ứng và thanh toán trước tổng số tiền 8.970.347.188 đồng nên Tòa án nhân dân thành phố Đ buộc Công ty B hoàn trả Công ty D 2.354.855.988 đồng là có cơ sở. Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị (cấp phúc thẩm) cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm xác minh, thu thập chứng cứ chưa đầy đủ mà tại phiên tòa phúc thẩm không thể bổ sung được nên hủy bản án sơ thẩm để giải quyết sơ thẩm lại là không đúng quy định. Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: 1. Hủy toàn bộ Bản án kinh thương mại phúc thẩm số 05/2020/KDTM-PT ngày 20/7/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Trị, giữ nguyên Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2019/KDTM-ST ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ; 2. Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 05/2019/KDTM-ST ngày 14/8/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đ có hiệu lực thi hành; |
24 – 35 |
LINK PDF: TỔNG HỢP 16 QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG XÂY DỰNG
……………
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn