MỤC LỤC
Tổng hợp 16 bản án về tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới
STT |
NỘI DUNG TÓM TẮT
|
SỐ TRANG
|
1
|
Bản án số: 09/2023/HS-PT ngày 12/01/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh
Về tội “Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”
Nội dung vụ án:
Ngày 25/6/2021, Tạ Thành Th thuê bị cáo Trần Văn L và bị cáo Nguyễn Lê Anh Q đến khu vực biên giới thuộc địa bàn ấp Tân Thạnh, xã Tân Bình, huyện TB, tỉnh Tây Ninh để nhận xe mô tô nhãn hiệu Honda Goldwing, Th chưa nói trả công cho L và Q bao nhiêu. Sau đó bị cáo L điều khiển xe mô tô chở bị cáo Q đến điểm hẹn, khi đến khu vực bìa rừng giáp ranh Campuchia thì bị cáo Q xuống xe đi bộ theo đường mòn để đến vị trí hẹn nhận xe mô tô, còn bị cáo L đi về nhà ông Trần Văn M. Khoảng 30p sau, bị cáo Q điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Goldwing đến nhà ông M; bị cáo L cùng bị cáo Q đẩy xe vào giấu trong phòng khách nhà ông M và điện thoại báo cho Tạ Thành Th biết. Sau đó, bị Công an phát hiện bắt giữ; trị giá hàng hóa vận chuyển là 600 triệu đồng.
Tòa án sơ thẩm quyết định:
– Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Lê Anh Q, Trần Văn L phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Anh Q 04 năm tù, thời hạn chấp hành án tính từ ngày bắt bị cáo Q đi chấp hành án, khấu trừ thời hạn bị tạm giữ tạm giam từ ngày 02/7/2021 đến ngày 13/10/2021. Xử phạt bị cáo Trần Văn L 03 năm 06 tháng tù, thời hạn chấp hành án tính từ ngày bắt bị cáo L đi chấp hành án.
Ngày 05,09/9/2022 các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt
Nhận định của Tòa án phúc thẩm:
Hội đồng xét xử xét thấy: Trong vụ án này, với vai trò, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Q và L là ngang nhau; cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Q 04 năm tù và bị cáo L 3 năm 06 tháng tù là nặng, có phần nghiêm khắc; vì hành vi của cả hai bị cáo L, Q là đồng phạm giản đơn, với vai trò phụ, giúp sức không đáng kể; bị cáo L chỉ thực hiện hành vi chở giúp bị cáo Q đến địa điểm nhận xe mang về cho bị cáo Th. Các bị cáo Q, L đều không bàn bạc, thỏa thuận trước với bị cáo Th về cách thức, tiền công vận chuyển là bao nhiêu tiền và cũng chưa nhận tiền công. Ngoài ra, nhân thân bị cáo L mới lần đầu phạm tội; bị cáo Q ra đầu thú; cả hai bị cáo Q, L đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Riêng bị cáo L có nhân thân tốt, mới phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng, đủ điều kiện áp dụng chế định án treo
Tòa án phúc thẩm quyết định:
– Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Văn L; chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Nguyễn Lê Anh Q. Sửa Bản án sơ thẩm số: 47/2022/HS-ST ngày 31/8/2022 của Toà án nhân dân huyện TB, tỉnh Tây Ninh.
– Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Lê Anh Q và Trần Văn L, phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Lê Anh Q 02 năm tù, thời hạn chấp hành án tính từ ngày bắt bị cáo Q đi chấp hành án, khấu trừ thời hạn bị tạm giữ
Xử phạt bị cáo Trần Văn L 02 năm tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 04 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. |
01-07
|
2 |
Bản án số: 16/2023/HS-ST ngày 20/03/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang
Về tội “Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”
Nội dung vụ án:
Khoảng 10h ngày 08/12/2022, tổ công tác Trạm Biên phòng Cửa khẩu Quốc tế T1 phát hiện người đàn ông tên Yorn P1 đang đi từ hướng biên giới Campuchia qua cột mốc 275 đến khu vực B. Qua kiểm tra phát hiện bên trong áo khoác màu xám Yorn P1 đang mặc trên người có cất giấu 01 túi nilon màu đen, bên trong túi nilon này có để 33 vòng kim loại màu vàng có KL 82,6 gam, 01 dây chuyền kim loại màu vàng có KL18,7 gam, 04 dây lắc tay kim loại màu vàng KL 26 gam, 04 nhẫn kim lại màu vàng KL khoảng 15 gam, 04 mặt dây chuyền KL khoảng 7,7 gam. Tại Đồn biên phòng Cửa khẩu quốc tế T2 khai nhận những nữ trang kim loại nêu trên là vàng, Yorn P đem từ nhà thuộc ấp K, xã P, huyện K, tỉnh Takeo, Campuchia qua Việt Nam để đến các tiệm vàng bán lấy tiền sử dụng và mua một số hàng tiêu dùng mang về Campuchia. Căn cứ Kết luận định giá tài sản trong TTHS số 1687/KL HĐĐG.TTHS ngày 16/12/2022 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự kết luận: Tổng trọng lượng 149,3129 gam vàng, có tổng trị giá 128.581.821 đồng.
Nhận định của Tòa án sơ thẩm:
– Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Theo đó, lời khai của bị cáo hoàn toàn phù hợp với tang vật thu giữ và phù hợp với Kết luận giám định của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS. Có đầy đủ căn cứ xác định hành vi của bị cáo Yorn P1 đã phạm vào tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”
Hành vi phạm tội của bị cáo đã xâm phạm trực tiếp đến trật tự, hoạt động quản lý kinh tế; ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách của Nhà nước trong việc quản lý ngoại thương, xuất khẩu, nhập khẩu.
– Bị cáo cũng là công dân nước ngoài nên nhận thức pháp luật của nước Việt Nam có phần hạn chế. Do đó cần có chính sách nhân đạo, khoan hồng đối với người nước ngoài phạm tội trên lãnh thổ nước Việt Nam nhằm thể hiện mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước Campuchia và Việt Nam
Tòa án sơ thẩm quyết định:
– Tuyên bố bị cáo Yorn P1 phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới” – Xử phạt: Bị cáo Yorn P1 05 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 08/12/2022. Trục xuất bị cáo Yorn P1 rời khỏi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam sau khi chấp hành xong hình phạt…. |
08-15
|
3 |
Bản án số: 31/2023/HS-ST ngày 27/04/2023 của Tòa án nhân dân huyện
Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị
Về tội “Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”
Nội dung vụ án:
Võ Thị N (là công dân Việt Nam sang làm ăn, sinh sống ở Viêng Chăn, Lào) đến nhà ở của bà Mai Thị Huyền N (ở NaSaLa, Viêng Chăn, Lào) để nhờ bà N gửi 02 gói hàng về Việt Nam cho con gái là Phạm Võ Cát T. Gói hàng thứ nhất chứa tài sản gồm 01 thanh kim loại màu vàng, 51 sợi kim loại vàng và 100 tờ tiền Dollar Mỹ mệnh giá 100 USD được bỏ trong một hộp nhựa màu trắng trong suốt không có nắp cài, kích thước 16 x 11 x 8cm, bên ngoài được bọc bằng nilon màu vàng sẫm và quấn băng keo dính màu trắng, trên lớp nilon màu vàng sẫm có ghi dòng số “0772331331”, dòng chữ “Đà Nẵng” ở giữa và dòng số “0772331331″ phía dưới. Gói hàng thứ hai bên trong có 24 miếng kim loại màu bạc, 56 vòng kim loại màu hồng nhạt, 65 vòng kim loại màu trắng được bỏ vào một hộp giấy kích thước 28,5x14x10cm, ba mặt xung quanh thân hộp giấy có dòng chữ BETTER. Khi gặp bà N để gửi tài sản N chỉ nói gửi hai gói hàng trên về Đà Nẵng cho con gái. Đến 18h cùng ngày, anh Nguyễn Văn P điều khiển xe ô tô 75H – 001.** cùng với Huyền N về Việt Nam. Khoảng 05h sáng ngày 11/11/2021, P chạy xe về đến bãi xe của Hải quan Lào. Khoảng 08h sáng ngày 11/11/2021, Nguyễn Thị H thuê anh Nguyễn Đức P lái xe ô tô biển kiểm soát 75H – 001.** về cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo để giao lại cho tài xế phía Việt Nam. P đến bãi đỗ xe và tìm thấy xe 75H – 001.**, trên xe có sẵn chìa khóa nên điều khiển xe về khu vực khu vực kiểm dịch, phun khử khuẩn của Cửa khẩu quốc tế Lao Bảo và giao lại cho Nguyễn Hữu C. Khi giao xe P có nói với C trên thùng xe có một ít hàng tạp hóa. C nhận và lái xe đến khu vực kiểm tra phương tiện của lực lượng Hải quan, Biên Phòng Cửa khẩu Lao Bảo. Tại đây, Lê Thị Như Q là người được Nguyễn Thị H thuê làm thủ tục khai báo nhập cảnh cho xe ô tô 75H – 001.** đã chuẩn bị giấy tờ, thủ tục để ông C xuất trình Cơ quan Hải quan kiểm tra theo quy định. Quá trình kiểm tra, phát hiện tại vị trí ngăn đựng đồ phía trần cabin xe có 02 gói hàng hoá được cất giấu trên ngăn đựng đồ phía trần ca bin xe ô tô biển kiểm soát 75H-001.**, không thực hiện thủ tục khai hải quan theo quy định. Tại thời điểm phát hiện số tài sản nêu trên, ông Nguyễn Hữu C và bà Lê Thị Như Q (người làm thủ tục) không xuất trình được hóa đơn, chứng từ chứng minh tính hợp pháp của các loại hàng hóa. Chi cục Hải quan Cửa khẩu Lao Bảo đã lập biên bản vi phạm hành chính đối với ông Nguyễn Hữu C, tạm giữ toàn bộ tang vật, phương tiện. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 66/KL-ĐGTS ngày 23/12/2021 của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS huyện Hướng Hóa tổng giá trị tài sản là 2.945.983.189 đồng
Nhận định của Tòa án sơ thẩm:
– Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra công khai tại phiên tòa, xác định được: Ngày 10/11/2021, Võ Thị N đã có hành vi vận chuyển vàng, bạc và tiền ngoại tệ (đô la Mỹ) từ Lào về Việt Nam qua Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo không khai báo, không thực hiện thủ tục hải quan theo quy định.
– Trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, trong quá trình sinh sống tại địa phương, bị cáo được Ủy ban MTTQ Việt Nam phường HC ghi nhận và cảm ơn vì đã hỗ trợ cho Quỹ vì người nghèo địa phương
Tòa án sơ thẩm quyết định:
– Tuyên bố: Bị cáo Võ Thị N phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”, xử phạt bị cáo Võ Thị N 500.000.000 đồng.
– Ngoài ra, còn tuyên án về việc xử lý vật chứng… |
16-27
|
4 |
Bản án số: 55/2023/HS–ST ngày 29/06/2023 của Tòa án nhân dân Tp M, tỉnh Quảng Ninh
Về tội “Tội vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới”
Nội dung vụ án:
Vũ Thị H làm nghề thu mua hải sản do quen biết, làm ăn với người đàn ông Trung Quốc tên A T (không rõ lai lịch, địa chỉ). Ngày 15/01/2023, H nhận được điện thoại của A T đặt vấn đề nhờ H thuê người vận chuyển bè mảng Cá tầm còn sống từ Trung Quốc qua khu vực “Phao vàng” về khu vực bến N thuộc khu T, phường T, TP M và thuê xe ô tô chở cá, sau đó sẽ có người của A T đến nhận hàng, H đồng ý.
Ngày 17/01/2023, A T gọi điện thoại thông báo cho H biết có chuyến hàng Cá tầm về thành phố M, đồng thời gửi cho H số điện thoại của người Trung Quốc lái bè vận chuyển Cá tầm và số điện thoại của người lái xe ô tô để H liên hệ. Sau đó, H gọi điện thoại đến anh Lê Trung K là người lái xe ô tô đầu kéo biển kiểm soát 89H-013.54, kéo Rơ moóc biển kiểm soát 89R-002.83, chở theo Container số hiệu YMLU 05231130, đặt vấn đề thuê K chở hàng cá, K đồng ý. H gọi điện thoại cho Vũ Văn P thỏa thuận thuê P sử dụng bè mảng đến khu vực “Phao vàng” nhận và vận chuyển Cá tầm với tiền công 800.000 đồng/chuyến, P đồng ý. P điều khiển 01 chiếc bè mảng đến khu vực “Phao vàng” gặp 01 người đàn ông Trung Quốc thỏa thuận đổi bè mảng cho nhau, rồi P điều khiển 02 bè mảng bên trên có Cá tầm hướng về khu vực bến N, còn người đàn ông Trung Quốc chờ ở khu vực “Phao vàng” để P quay lại đổi bè mảng. 14h30 phút cùng ngày, P điều khiển 02 bè mảng bên trên có Cá tầm về đến bến N, lúc này H bảo P gọi điện thoại thuê 07 người công nhân bốc số Cá tầm lên xe ô tô của K. Sau đó, P điều khiển 02 bè mảng và 18 thùng nhựa quay lại khu vực “Phao vàng”, gặp người đàn ông Trung Quốc đổi lại bè mảng rồi đi về nhà. Ngày 17/01/2023, Tổ công tác của Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế Công an TP M phối hợp với Công an phường T, kiểm tra hành chính, phát hiện thu giữ 01 xe ô tô đầu kéo nhãn hiệu CHENGLONG, biển kiểm soát 89H-013.54, kéo Rơ moóc biển kiểm soát 89R-002.83, chở theo Container số hiệu YMLU 05231130 và 5.780 kg Cá tầm còn sống không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng hóa. Tại Bản kết luận định giá tài sản số 36/KL-ĐGTS ngày 19/01/2023, của Hội đồng định giá tài sản trong TTHS Tp M, kết luận: 5.780 kg Cá tầm có đơn giá là 80.000 đồng/1kg, tổng giá trị là 462.400.000 đồng
Nhận định của Tòa án sơ thẩm:
– Tại phiên toà các bị cáo Vũ Thị H, Vũ Văn P thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố, lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở kết luận khoảng 18 giờ ngày 17/01/2023, tại khu vực bến N thuộc khu T, phường T, Tp M, tỉnh Quảng Ninh, Vũ Thị H và Vũ Văn P có hành vi vận chuyển trái phép 5.780 kg Cá tầm còn sống, không có giấy tờ chứng minh nguồn gốc xuất xứ hàng hóa, tổng trị giá 462.400.000 đồng từ Trung Quốc vào Việt Nam.
– Hội đồng xét xử thấy đến nay các bị cáo đã nhận thức rõ hành vi phạm tội, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình; mặt khác, các bị cáo chưa có tiền án, tiền sự, đều có nơi cư trú ổn định, rõ ràng.
Tòa án sơ thẩm quyết định:
– Tuyên bố: các bị cáo Vũ Thị H, Vũ Văn P phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”.
– Xử phạt: bị cáo Vũ Thị H 30 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 60 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Xử phạt: bị cáo Vũ Văn P 24 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 48 tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm. Giao các bị cáo cho UBND phường B,T TP M, tỉnh Quảng Ninh giám sát, giáo dục trong thời gian thử thách. Gia đình các bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND phường trong việc giám sát, giáo dục. |
28-35
|
|