FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu hủy nội dung chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu hủy nội dung chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất
STT |
BẢN ÁN |
TRANG |
1. | Bản án số: 130/2019/DS-PT Ngày: 14/8/2019 Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng
V/v: Tranh chấp hợp đồng vay tài sản; tranh chấp hợp đồng mua bán nhà ở và hủy chỉnh lý biến động trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Nội dung vụ án: Bà Phạm Thị Tuyết N vay bà Nguyễn Thị T số tiền 1.375.000.000 đồng và vay bà Võ Thị Bích V số tiền 500.000.000 đồng. Sau khi tìm hiểu, bà T và bà V được biết Bà N đã thanh toán xong nợ tại Ngân hàng, nhận giấy tờ nhà, đất thế chấp và lập hợp đồng chuyển nhượng nhà, đất tại số 69 đường T, thành phố Q cho bà Nguyễn Thị L với giá 1.200.000.000 đồng là quá thấp so với giá thị trường tại thời điểm chuyển nhượng nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, xâm phạm trực tiếp quyền, lợi ích hợp pháp của bà V và bà T. Do đó, bà V và bà T yêu cầu Tòa án tuyên bố Hợp đồng mua bán nhà ở giữa bà Phạm Thị Tuyết N, ông Nguyễn Xuân Đ với bà Nguyễn Thị L thuộc thửa đất số 43, tờ bản đồ số 13, diện tích 103,8m2 tại phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi được Văn phòng Công chứng S công chứng ngày 14/9/2017 là vô hiệu và hủy chỉnh lý biến động tại trang 3 cho bà L ngày 15/9/2017 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Nguyễn Xuân Đ, bà Phạm Thị Tuyết N ngày 23/02/2017. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: 1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Bích V và bà Nguyễn Thị T. Buộc ông Nguyễn Xuân Đ và bà Phạm Thị Tuyết N phải có trách nhiệm trả cho bà Võ Thị Bích V số tiền 500.000.000 đồng (năm trăm triệu đồng) và trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền 1.375.000.000 đồng (một tỷ, ba trăm bảy mươi lăm triệu đồng). Về tiền lãi: Bà V và bà T không yêu cầu, nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết. 2. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Bích V và bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở giữa ông Nguyễn Xuân Đ, bà Phạm Thị Tuyết N với bà Nguyễn Thị L đối với nhà, đất tại số 69 đường T, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi thuộc thửa đất số 43, tờ bản đồ số 13 tại phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi, được Văn phòng Công chứng S công chứng vào ngày 14/9/2017 là vô hiệu. 3. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Võ Thị Bích V và bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu hủy chỉnh lý biến động tại trang 3 cho bà Nguyễn Thị L vào ngày 15/9/2017 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Nguyễn Xuân Đ, bà Phạm Thị Tuyết N đối với thửa đất số 43, tờ bản đồ số 13 tại phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 23/02/2017. 4. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở tại số 69 đường T, phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi thuộc thửa đất số 43, tờ bản đồ số 13 tại phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi giữa ông Ngô Văn H, bà Trần Thị B với bà Trần Thị L, được Văn phòng Công chứng Ngô Văn H công chứng vào ngày 03/4/2018 là vô hiệu. 5. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị T về việc yêu cầu hủy chỉnh lý biến động tại trang 3 cho ông Ngô Văn H, bà Trần Thị B vào ngày 04/4/2018 trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Nguyễn Xuân Đ, bà Phạm Thị Tuyết N đối với thửa đất số 43, tờ bản đồ số 13 tại phường N, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi vào ngày 23/02/2017. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Mặc dù trong giấy mượn tiền chỉ ghi Bà N mượn của bà X số tiền 1.375.000.000 đồng, nhưng Bà N thừa nhận chính bà viết, ký tên vào giấy 11 mượn tiền. Đồng thời căn cứ bản tự khai bổ sung trên của Bà N thì Bà N đã công nhận có nhận nợ ngày 10/12/2016 là phù hợp với chứng cứ mà phía nguyên đơn cung cấp. Vậy, có đủ cơ sở xác định Bà N có mượn tiền của bà T (hay còn gọi là X) số tiền 1.375.000.000đồng và đến nay chưa trả. – Xét thấy các giấy mượn tiền do nguyên đơn bà V cung cấp phù hợp với bản tự khai của Bà N về số tiền mượn và thời gian mượn. Bản thân Bà N đã công nhận có mượn bà V 03 lần tổng số tiền 500.000.000 đồng. Tại bản tự khai ngày 18/3/2018 Bà N cho rằng bà đã trả xong tiền nợ cho bà V nhưng Bà N không có chứng cứ chứng minh đã trả nợ xong. Do đó, có cơ sở xác định Bà N còn nợ bà V số tiền 500.000.000đồng. – Hợp đồng mua bán nhà ở này đảm bảo đúng theo Điều 117 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Đối chiếu quy định của BLDS năm 2015 về các trường hợp giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định tại các Điều 122, 123,124, 125, 126, 127, 128 và Điều 129, xét thấy hợp đồng mua bán nhà ở trên không phạm vào các trường hợp nêu trên. Tại thời điểm ký kết, công chứng Hợp đồng thì không có cơ quan, tổ chức nào có thẩm quyền có văn bản yêu cầu, hay có bản án nào của Tòa án cấm vợ chồng ông Đ, Bà N không được mua bán, chuyển nhượng nhà đất tại số nhà 69 đường T, phường N, thành phố Q để thực hiện các nghĩa vụ khác theo quy định pháp luật. Sau khi bà L nhận nhà, đất tại 12 số 69 đường T, bà L đã nộp lệ phí trước bạ sang tên quyền sử dụng đất, được cơ quan thuế xác nhận, được Văn phòng đăng ký đất đai chi nhánh thành phố Q chỉnh lý biến động trong Giấy CNQSDĐ vào ngày 15/9/2017. Như vậy, cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã công nhận việc mua bán nhà, đất này đúng quy định pháp luật. Do đó, có đủ cơ sở xác định hợp đồng mua bán nhà ở do Văn phòng Công chứng S công chứng ngày 14/9/2017 là đúng quy định pháp luật. Vì vậy, xét không có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo của các nguyên đơn về việc yêu cầu Tòa án tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở ngày 14/9/2017 giữa vợ chồng ông Đ, Bà N với bà L là vô hiệu; yêu cầu Tòa án hủy chỉnh lý biến động trong Giấy CNQSDĐ được Văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý biến động sang tên cho bà L ngày 15/9/2017. – Hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 03/4/2018 giữa bà L với vợ chồng ông H, bà B được Văn phòng Công chứng Ngô Văn H công chứng là đúng quy định pháp luật. Việc Văn phòng đăng ký đất đai-Chi nhánh thành phố Q chỉnh lý biến động trong Giấy CNQSDĐ sang tên vợ chồng ông H, bà B ngày 04/4/2018 là đúng quy định pháp luật. Vì vậy, không có cơ sở chấp nhận nội dung kháng cáo của các nguyên đơn về yêu cầu tuyên bố hợp đồng mua bán nhà ở và chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà L với vợ chồng ông H, bà B ngày 03/4/2018 là vô hiệu và yêu cầu hủy chỉnh lý biến động sang tên vợ chồng ông H, bà B trong Giấy CNQSDĐ. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bà Nguyễn Thị T (X), bà Võ Thị Bích V, bà Phạm Thị Tuyết N và ông Nguyễn Xuân Đ, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2019/DS-ST ngày 28/01/2019 của TAND tỉnh Quảng Ngãi. |
01 – 15 |
2 | Bản án số: 171/2019/DS-PT Ngày: 26-9-2019 Tòa án nhân cấp cao tại Đà Nẵng
V/v: “Tranh chấp yêu cầu tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất vô hiệu và hủy chỉnh lý biến động trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất Nội dung vụ án: Ông Lê Văn H và bà Phan Thị N nợ Công ty trách nhiệm hữu hạn Một thành viên C số tiền là 230.000.000 đồng. Tại Tòa án nhân dân thành phố Q, ông H, bà N đã thống nhất trả cho Công ty C số tiền 230.000.000 đồng và Tòa án nhân dân thành phố Q đã ra Quyết định công nhận 3 sự thỏa thuận của các đương sự số 24/2018/QĐST-DS ngày 20/4/2018, nội dung của Quyết định là ông Lê Văn H và bà Phan Thị N phải có nghĩa vụ trả cho Công ty C số tiền 230.000.000 đồng. Nhưng sau khi Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực thì ông H, bà N không chịu trả cho Công ty C số tiền 230.000.000đ, mà ông H, bà N lại lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Lê Văn H1 được Văn phòng Công chứng S công chứng ngày 16/5/2018 đối với thửa đất số 125, tờ bản đồ số 2, diện tích 171,2m2 tại thôn P1, xã Ng, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi (tài sản duy nhất của ông H, bà N). Ngày 19/5/2018 chỉnh lý biến động cho ông Lê Văn H1 tại trang 3 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T1, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Lê Văn H, bà Phan Thị N ngày 20/12/2011 thửa đất số 125, tờ bản đồ số 2, diện tích 171,2m2 tại thôn P1, xã Ng, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn H, bà Phan Thị N với ông Lê Văn H1 được Văn phòng Công chứng S công chứng ngày 16/5/2018 đối với thửa đất số 125, tờ bản đồ số 2, diện tích 171,2m2 tại thôn P1, xã Ng, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi là vô hiệu. Yêu cầu hủy chỉnh lý biến động cho ông Lê Văn H1 ngày 19/5/2018 tại trang 3 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do Ủy ban nhân dân huyện T1, tỉnh Quảng Ngãi cấp cho ông Lê Văn H, bà Phan Thị N ngày 20/12/2011 thửa đất số 125, tờ bản đồ số 2, diện tích 171,2m2 tại thôn P1, xã Ng, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Công ty TNHH MTV C về việc yêu cầu tòa án tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê Văn H, bà Phan Thị N với ông Lê Văn H1 được Văn phòng Công chứng S công chứng ngày 16/5/2018 đối với thửa đất số 125 vô hiệu; Yêu cầu hủy chỉnh lý biến động do Văn phòng đăng ký đất đai tỉnh Quảng Ngãi – Chi nhánh thành phố Q chỉnh lý cho ông Lê Văn H1 ngày 19/5/2018 tại trang 3 trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất do UBND huyện T1 cấp cho ông Lê Văn H, bà Phan Thị N ngày 20/12/2011 thửa đất số 125, tờ bản đồ số 2, diện tích 171,2m2 tại thôn P1, xã Ng, thành phố Q, tỉnh Quảng Ngãi. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Đến ngày 16/5/2018 ông H, bà N đã trả nợ xong cho Ngân hàng N1 và xóa thế chấp thửa đất số 125, tờ bản đồ số 2. Cùng ngày 16/5/2018, ông H, bà N lập Hợp đồng chuyển nhượng tài sản trên cho vợ chồng ông Lê Văn H1 (anh trai) và bà Bùi Thị P, với số tiền 800.000.000 đồng (trong Hợp đồng ghi là 10.000.000 đồng) nhưng ông H, bà N không sử dụng khoản tiền thu được từ việc bán tài sản trên để trả nợ cho Công ty C. Do đó, xác định Hợp đồng chuyển nhượng ngày 16/5/2018, giữa vợ chồng ông Lê Văn H, bà Phan Thị N với vợ chồng ông Lê Văn H1, bà Bùi Thị P đối với thửa đất trên, mục đích tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh nghĩa vụ thi hành án, vi phạm quy định tại Nghị định nêu trên. – Tòa án cấp sơ thẩm nhận định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa vợ chồng ông H, bà N với vợ chồng ông H1 bà P phù hợp với quy định của pháp luật, không bị vô hiệu là không đúng với quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính phủ. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 13/2019/DS-ST ngày 10/4/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ngãi giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm. |
16 – 24 |
3 | Bản án số: 147/2021/DS-PT Ngày: 14/6/2021 Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy chỉnh lý biến động”. Nội dung vụ án: Năm 2012, vợ chồng ông Võ N chuyển nhượng thửa đất số 74 cho vợ chồng ông Nguyễn Cao C, bà Nguyễn Thị N. Sau khi nhận chuyển nhượng, ngày 24/7/2012 vợ chồng ông Nguyễn Cao C, bà Nguyễn Thị N được UBND huyện E cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 938913 đối với thửa đất số 74, tờ bản đồ số 81, diện tích 32.243,7m2 . Ngày 25/01/2016, vợ chồng ông Nguyễn Cao C, bà Nguyễn Thị N tiếp tục chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng ông Đậu Công M, bà Nguyễn Thị H1 (gọi 3 tắt là vợ chồng M H1) và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý biến động chủ sử dụng đất tại trang 3 của GCNQSD đất. Ngày 21/4/2017, vợ chồng ông Đậu Công M, bà Nguyễn Thị H1 tiếp tục chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng ông Nguyễn Thanh M, bà Nguyễn Thị Thu H (gọi tắt là vợ chồng M H) và được Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý biến động chủ sử dụng đất tại trang 3 của GCNQSD đất. Ông L đã gặp gỡ ông Nguyễn Thanh M để giải quyết việc trước đây ông Đậu Công M lấn chiếm đất nhưng ông Nguyễn Thanh M không đồng ý. Nay, ông Bùi Chi L khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Thanh M, bà Nguyễn Thị Thu H trả lại cho ông phần đất lấn chiếm có diện tích khoảng 978m2. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Chi L về việc yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Thanh M, bà Nguyễn Thị Thu H trả lại cho ông Bùi Chi L phần đất lấn chiếm có diện tích khoảng 978m2. – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Chi L về việc hủy giá trị pháp lý của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO 734120 do UBND huyện E cấp cho hộ ông Võ N, bà Phạm Thị Q ngày 21/07/2009; – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Chi L về việc hủy giá trị pháp lý của giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BĐ 938913 do UBND huyện E cấp cho hộ ông Nguyễn Cao C, bà Nguyễn Thị N ngày 24/7/2012; – Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Bùi Chi L về việc hủy giá trị pháp lý phần chỉnh lý trang 3 của GCNQSDĐ số BĐ 938913 do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện E chỉnh lý chủ sử dụng đất cho ông Đậu Công M, bà Nguyễn Thị H1 vào ngày 25/01/2016 và cho ông Nguyễn Thanh M, bà Nguyễn Thị Thu H ngày 21/4/2017. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Đến ngày 25/01/2016 ông C, bà N đã chuyển nhượng lại thửa đất số 74 nêu trên cho vợ chồng ông Đậu Công M, bà Nguyễn Thị H1 và được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý biến động sang tên cho ông M, bà H1, sau đó đến ngày 21/4/2017 ông M bà H1 tiếp tục chuyển nhượng thửa đất cho vợ chồng ông Nguyễn Thanh M và bà Nguyễn Thị Thu. Ông M bà Thu cũng đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai chỉnh lý biến động tại trang 03 của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất sang tên cho ông M bà Thu Như vậy kể từ khi hộ ông N bà Q được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/7/2009 (trước thời điểm ông L được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hơn 03 năm) sau 03 lần chuyển nhượng thì thửa đất số 74, tờ bản đố số 41 vẫn giữ nguyên diện tích 32.243,7m2 , không thay đổi gì về diện tích. Các đương sự chuyển nhượng, nhận chuyển nhượng đã thực hiện đầy đủ các thủ tục chuyển nhượng, đúng với quy định của pháp luật. – Việc ông Bùi Chi L khởi kiện đề nghị Tòa án buộc ông Nguyễn Thanh M, bà Nguyễn Thị Thu H trả lại cho ông phần đất lấn chiếm có diện tích 978m2 , yêu cầu hủy các GCNQSD đất số AO 734120 do UBND huyện E cấp cho hộ ông Võ N, bà Phạm Thị Q ngày 21/07/2009; Hủy GCNQSD đất số BĐ 10 938913 do UBND huyện E cấp cho hộ ông Nguyễn Cao C, bà Nguyễn Thị N ngày 24/7/2012; Hủy phần chỉnh lý trang 3 của GCNQSD đất số BĐ 938913 do Chi nhánh văn phòng đăng ký đất đai huyện E cấp cho ông Đậu Công M, bà Nguyễn Thị H1 vào ngày 25/01/2016 và hủy chỉnh lý cho ông Nguyễn Thanh M, bà Nguyễn Thị Thu H vào ngày 21/4/2017 là không có căn cứ. Tại Bản án sơ thẩm đã không chấp nhận các yêu cầu khởi kiện của ông Bùi Chi L nêu trên là có căn cứ, đúng pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của ông Bùi Chi L, giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 02/2021/DS-ST ngày 25 tháng 01 năm 2021 về: “Tranh chấp quyền sử dụng đất, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy Chỉnh lý biến động” của Tòa án nhân dân tỉnh Đăk Lăk. |
25 – 35 |
4 | Bản án số: 45/2019/DS – PT Ngày: 22-5-2019 Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Đà Nẵng
“V/v: Tranh chấp quyền sở hữu tài sản; hủy hợp đồng tặng cho, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” Nội dung vụ việc: Năm 2006, ngôi nhà ngôi nhà cấp 4 tại Tổ 6B, bị giải tỏa và ông X bà B được bố trí 01 lô đất đường 5,5m tại Khu dân cư đầu tuyến X, do công việc của ông rất bận và phải đi biển dài ngày nên ông để bà B đi làm các thủ tục pháp lý, cần ký giấy tờ gì thì ông ký; còn giấy tờ, tiền bạc vợ ông cất vào két sắt, ông không quan tâm. Đầu năm 2007, bà B nói bán lô đất đường 5m5 để mua 01 lô đường 7m5 tại 06 đường N, T, Tổ 21 mới, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng, ông đồng ý, ông đứng ra động thổ xây dựng căn nhà tại đây. Đến năm 2010 ông nghe nói bà B có quan hệ bất chính với người khác, trong thời gian đó, bà B hối thúc ông bán đất tại thành phố H để chia theo di chúc bà nội ông để lại năm 2011, khi đó bà nội ông còn sống và ở với ông và bà 3 B tại Tổ 6B phường T. Tổng số tiền phân chia cho anh chị em trong gia đình xong, còn lại bà B 1 nửa, ông 1 nửa. Khi bán đất xong, bà B vẫn chứng nào tật ấy và thêm ý đồ chiếm đoạt tài sản chung của vợ chồng làm ra nên bà B lập 01 tập hồ sơ để con ông là anh Nguyễn Thanh B1 đứng tên, Nay, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng giải quyết. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp quyền sở hữu tài sản; hủy hợp đồng cho tặng, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” của ông Nguyễn X đối với bà Trần Thị B. 1. Chấp nhận yêu cầu chia giá trị nhà và đất tại số 06 đường N, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng có Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 656497 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho anh Nguyễn Thanh B1 ngày 19/7/2012, có phần chỉnh lý biến động cho bà Trương Thị Mỹ K do Văn phòng đăng ký đất đai quận S chỉnh lý ngày 05/5/2017 cho ông Nguyễn X và bà Trần Thị B sau khi đã trích công sức. 2. Không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 656497 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho anh Nguyễn Thanh B1 ngày 19/7/2012; Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Nguyễn Thanh B1 và bà Trần Thị B ngày 13/02/2017 và phần chỉnh lý biến động sang tên bà Trần Thị B được Văn phòng đăng ký đất đai quận S, thành phố Đà Nẵng chỉnh lý ngày 21/02/2017 do anh Nguyễn Thanh B1 tặng cho bà Trần Thị B; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Trần Thị B và bà Trương Thị Mỹ K được chứng thực tại Văn phòng Công chứng P ngày 25/4/2017 và phần chỉnh lý biến động sang tên bà Trương 9 Thị Mỹ K được Văn phòng đăng ký đất đai quận S chỉnh lý ngày 05/5/2017 do bà Trần Thị B chuyển nhượng bà Trương Thị Mỹ K. II. Chấp nhận yêu cầu độc lập của anh Nguyễn Thanh B1 về công nhận giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 656497 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho anh Nguyễn Thanh B1 ngày 19/7/2012; Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Nguyễn Thanh B1 và bà Trần Thị B ngày 13/02/2017. III. Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trương Thị Mỹ K về công nhận giá trị pháp lý của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Trần Thị B và bà Trương Thị Mỹ K được Văn phòng Công chứng P chứng nhận số 1238 ngày 25/4/2017. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: – Việc anh Nguyễn Thanh B1 tặng cho nhà đất nói trên là vi phạm điều kiện quy định trong “Giấy chuyển nhượng tài sản cho con” lập ngày 14/8/2012 nêu trên, nên Ông X, bà B vẫn còn quyền của mình đối với nhà đất số 06 đường N, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng. Do đó Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn X về công nhận tài sản chung và đề nghị chia là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. – Theo quy định tại khoản 2 Điều 133 Bộ luật dân sự năm 2015, về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu; Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 656497 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho anh Nguyễn Thanh B1 ngày 19/7/2012; Hủy Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Nguyễn Thanh B1 và bà Trần Thị B ngày 13/02/2017 và hủy phần chỉnh lý biến động sang tên bà Trần Thị B được Văn phòng đăng ký đất đai quận S, thành phố Đà Nẵng chỉnh lý ngày 21/02/2017 do anh Nguyễn Thanh B1 tặng cho bà Trần Thị B; Hủy Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Trần Thị B và bà Trương Thị Mỹ K được chứng thực tại Văn phòng Công chứng P ngày 25/4/2017 và hủy phần chỉnh lý biến động sang tên bà Trương Thị Mỹ K được Văn phòng đăng ký đất đai quận S chỉnh lý ngày 05/5/2017 do bà Trần Thị B chuyển nhượng bà Trương Thị Mỹ K là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp quyền sở hữu tài sản; hủy hợp đồng cho tặng, hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy quyết định cá biệt” của ông Nguyễn X đối với bà Trần Thị B. – Chấp nhận yêu cầu chia giá trị nhà và đất tại số 06 đường N, phường T, quận S, thành phố Đà Nẵng cho ông Nguyễn X và bà Trần Thị B sau khi đã trích công sức. – Không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 656497 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho anh Nguyễn Thanh B1 ngày 17/9/2012; Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Nguyễn Thanh B1 và bà Trần Thị B ngày 13/02/2017 và phần chỉnh lý biến động sang tên bà Trần Thị B được Văn phòng đăng ký đất đai quận S, thành phố Đà Nẵng chỉnh lý ngày 21/02/2017 do anh Nguyễn Thanh B1 tặng cho bà Trần Thị B; Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Trần Thị B và bà Trương Thị Mỹ K được chứng thực tại Văn phòng Công chứng P ngày 25/4/2017 và phần chỉnh lý biến động sang tên bà Trương Thị Mỹ K được Văn phòng đăng ký đất đai quận S chỉnh lý ngày 05/5/2017 do bà Trần Thị B chuyển nhượng bà Trương Thị Mỹ K. – Chấp nhận yêu cầu độc lập của anh Nguyễn Thanh B1 về công nhận giá trị pháp lý của Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BG 656497 do Sở Tài nguyên và Môi trường thành phố Đà Nẵng cấp cho anh Nguyễn Thanh B1 ngày 17/9/2012; Hợp đồng tặng cho quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa anh Nguyễn Thanh B1 và bà Trần Thị B ngày 13/02/2017. – Chấp nhận yêu cầu độc lập của bà Trương Thị Mỹ K về công nhận giá trị pháp lý của Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa bà Trần Thị B và bà Trương Thị Mỹ K được Văn phòng Công chứng P chứng nhận số 1238 ngày 25/4/2017. |
36 – 49 |
LINK PDF: Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu hủy nội dung chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất
……………..
Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn