Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất

Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp. 

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

STT BẢN ÁN TRANG
1 Bản án số: 09/2021/DS-ST, ngày: 20/4/2021 Tòa án nhân dân huyện Hàm Tân, tỉnh Bình Thuận

Về việc yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Năm 1975, cha mẹ ông có khai phá một diện tích đất khoảng 1.000m2 năm 1980, gia đình ông đã giao cho ông canh tác sử dụng. Đến năm 1991, ông đã cho cháu ông là Lê Văn X canh tác nhưng sau đó cháu ông đã trả lại cho vợ chồng ông tiếp tục canh tác. Năm 2006 đã được ủy ban nhân dân huyện Hàm Tân cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 604813 ngày 25/6/2006, thửa đất số 165, tờ bản đồ số 16, diện tích 256m2 . Tuy nhiên, trong quá trình sử dụng thì năm 2012, ông Nguyễn Trung Q đã có hành vi cản trở không cho ông sử dụng diện tích đất đã được cấp giấy chứng nhận, cụ thể là không cho làm hàng rào và chở đất bồi lắp, không cho sản xuất hoa màu, đồng thời có hành vi gây sự, hành hung. Nay ông yêu cầu Tòa án buộc ông Nguyễn Trung Q chấm dứt hành vi cản trở việc thực hiện sử dụng đất nêu trên theo quy định của pháp luật.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

Hội đồng xét xử thấy rằng diện tích đất ông Q cản trở không cho ông G, bà H sử dụng đã được UBND huyện HT cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 604813 ngày 25/6/2006 cho ông Lê Văn G và bà Huỳnh Thị Thanh H. Tại Công văn số 3646/UBND-TNMT ngày 02/11/2020 đã xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 604813 ngày 25/6/2006 cho ông Lê Văn G và bà Huỳnh Thị Thanh H là đúng đối tượng và đúng trình tự, thủ tục nên ông G, bà H có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ sử dụng thửa đất đã được cấp theo quy định tại Điều 166 Luật đất đai mà không ai được cản trở. Tuy nhiên, khi ông G, bà H sử dụng diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho mình thì ông Nguyễn Trung Q đã có hành vi cản trở không cho ông G, bà H sử dụng; tại biên bản lấy lời khai ngày 01/12/2016 và Biên bản hòa giải ngày 28/7/2017 ông Q đã thừa nhận ông đã có hành vi cản trở và sẽ tiếp tục cản trở, không cho phép ông G sử dụng. Như vậy, việc ông Nguyễn Trung Q có hành vi cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của ông Lê Văn G và bà Huỳnh Thị Thanh H đối với diện tích đất đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 604813 ngày 25/6/2006 là xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp về đất đai của người sử dụng đất nên cần buộc ông Nguyễn Trung Q phải chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất của ông Lê Văn G và bà Huỳnh Thị Thanh H là phù hợp.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu của ông Lê Văn G và bà Huỳnh Thị Thanh H. Buộc ông Nguyễn Trung Q chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất của ông Lê Văn G và bà Huỳnh Thị Thanh H thửa đất số 165, tờ bản đồ số 16, diện tích 256m2 , Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AG 604813 do UBND huyện Hàm Tân cấp ngày 25/6/2006.

01 – 06
2 Bản án số: 88/2021/DS-ST, ngày: 30-6-2021 Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng

Về việc yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở QSDĐ và yêu cầu trả lại GCN QSDĐ”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Vào ngày 19/9/2018 tại Văn phòng Công chứng P vợ chồng chúng tôi (ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị T) ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông Đặng Quốc H. Sau khi ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, ông Đặng Quốc H yêu cầu vợ chồng tôi giao bản gốc giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 543488 để ông làm thủ tục sang tên 2 lô đất ông đã mua của vợ chồng chúng tôi, vợ chồng tôi giao GCNQSDĐ này cho ông Hùng vào ngày 19/9/2018 ông H cam kết thời gian 02 tháng sau ông sẽ trả lại GCNQSDĐ cho vợ chồng tôi, nhưng không trả.

Ngày 13/3/2020, ông Đặng Quốc H lập hợp đồng ủy quyền cho ông Huỳnh Đức H thay mặt ông H liên hệ với cơ quan có thẩm quyền để thực hiện ký kết các giấy tờ, thủ tục liên quan đến việc làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với 02 thửa đất số 258 và 259, tờ bản đồ số 16 nêu trên mà vợ chồng chúng tôi đã chuyển nhượng cho ông Hùng nêu trên. Ông Huỳnh Đức H đã nộp GCNQSDĐ số W 543488 cho Văn phòng đăng ký đất đai thành phố Đà Nẵng để làm thủ tục đăng ký quyền sử dụng đất đối với 02 lô đất này. Ngày 25/10/2020, ông Đặng Quốc H bị đột quỵ chết. Vì vậy, để bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của gia đình tôi, chúng tôi yêu cầu Tòa án nhân dân quận Cẩm Lệ giải quyết: Buộc ông Huỳnh Đức H và những người thừa kế quyền, nghĩa vụ tố tụng của ông Đặng Quốc H chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của gia đình chúng tôi, đồng thời trả lại cho vợ chồng chúng tôi GCNQSDĐ số W 543488 do UBND huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cấp cho vợ chồng tôi vào ngày 20/10/2004.

Nhận định tòa án cấp sơ thẩm:

Tại khoản 16 Điều 3 của Luật đất đại 2013 quy định: “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất là chứng thư pháp lý để nhà nước xác nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở, tài sản khác gắn liền với đất hợp pháp của người có quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và quyền sở hữu tài sản khác gắn liền với đất…”. Tại Điều 167 Luật Đất đai 2013 quy định về quyền của người sử dụng đất gồm các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, tặng cho, thế chấp góp vốn …Theo quy định của thủ tục hành chính đối với việc thực hiện các quyền nêu trên thì người sử dụng đất phải nộp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất bản gốc.

Do đó, việc bị đơn ông Huỳnh Đức H đang giữ và không trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất khi không được sự đồng ý của người sử dụng đất là ông T, bà T là đang cản trở đến quyền sử dụng đất của ông T, bà T được pháp luật bảo vệ theo quy định tại các Điều 12, 166, 8 188 Luật Đất đai 2013. Theo đó, người sử dụng đất được nhà nước bảo vệ khi người khác xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp về quyền sử dụng đất của mình. Vì vậy, việc ông T bà T khởi kiện buộc bị đơn ông Huỳnh Đức H chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất, đồng thời trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông, bà là có cơ sở và phù hợp với các quy định của pháp luật đã được HĐXX nhận định trên nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị T đối với bị đơn ông Huỳnh Đức H. 2. Buộc ông Huỳnh Đức H phải chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất và trả lại cho ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị T 01 (một) Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W 543488 do Ủy ban nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng cấp cho ông Nguyễn Hữu T và bà Lê Thị T ngày 20/10/2004.

07 – 15
3 Bản án số: 17/2022/DS-ST, ngày 16-12-2022 Tòa án nhân dân huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên

Về việc tranh chấp yêu cầu chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở quyền sử dụng đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Bà Hờ R có một đám rẫy do ông cha khai hoang từ trước năm 1975 làm lúa rẫy tại Khu phố B, thị trấn H, huyện S, tỉnh P và được Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất 213 , tờ bản đồ số 35, diện tích 7203,4 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869664 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07956 và thửa đất 198, tờ bản đồ số 35, diện tích 7629,5 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CN 869663 do UBND huyện Sông Hinh cấp ngày 13/7/2018, số vào sổ cấp GCN CH 07955 cấp cho cá nhân bà Niê Hờ R. Trong quá trình sử dụng đất đến năm 2019, ông Ksơr Y M và bà Nay Hờ P ở buôn L, thị trấn H, huyện S cho người ra trồng keo hết hai đám rẫy của bà Hờ Rối. Bà Rối có làm đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị trấn Hai Riêng, huyện Sông Hinh hoà giải nhưng không thành. Ông Ksơr Y M và bà Nay Hờ – đòi 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) mới trả lại đất. Bà Hờ Rối khởi kiện yêu cầu Toà án buộc ông Ksơr Y M và bà Nay Hờ P phải chấm dứt toàn bộ hành vi chiếm đất, cản trở trái pháp luật đối với quyền sử dụng đất của bà Hờ R tại hai thửa đất số 198 và 213 tờ bản đồ số 35 nêu trên.

Nhận định Tòa án cấp sơ thẩm:

Xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, phù hợp với quy định pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc ông Ksơr Y M phải chấm dứt các hành vi chiếm đất, cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của bà Niê Hờ R đối với toàn bộ thửa đất số 198, 213 tờ bản đồ số 35, tổng diện tích 14.832,9 m2 địa chỉ Khu phố B, thị trấn H, huyện S.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hờ R; Buộc ông Ksơr Y M phải chấm dứt hành vi chiếm đất, cản trở trái pháp luật quyền sử dụng đất của bà Niê Hờ Rối đối với toàn bộ thửa đất số 198, 213 tờ bản đồ số 35, tổng diện tích 14.832,9 m2 tại Khu phố B, thị trấn H, huyện S, tỉnh P

16 – 20
4 Bản án số: 52/2017/DS-ST Ngày: 29-8-2017 Tòa án nhân dân thị xã Ninh Hòa, tỉnh Khánh Hòa

Về việc yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ông được Ủy ban nhân dân thị xã N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng thửa đất số 109, tờ bản đồ số 21, diện tích 175 m2 tại thôn L, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 228385 vào ngày 30/6/2015. Nguồn gốc là do ông nhận chuyển nhượng từ bà Nguyễn T. L sinh năm 1962, trú tại: L, N, N, Khánh Hòa vào năm 2015, đất đã được xác định bằng hàng rào cắm cột bê tông ổn định từ trước đến nay. Khi ông đến để thực hiện quyền sử dụng đất vào năm 2015 thì ông Đào T. S đến cản trở không cho ông quản lý, sử dụng đất của 2 mình, ông có yêu cầu chính quyền địa phương giải quyết nhưng ông S không đến làm việc. Sau nhiều lần mời làm việc mà ông S không đến làm việc nên đến tháng 7 năm 2016, ông tiến hành làm nhà ở trên thửa đất số 109, tờ bản đồ số 21, diện tích 175 m2 thì bị ông S ngăn cản không cho ông xây dựng. Ông đã yêu cầu chính quyền địa phương lập biên bản sự việc tại Ủy ban nhân dân xã N về hành vi trên nhưng ông S không hợp tác. Nay ông khởi kiện yêu cầu ông Đào T. S chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng thửa đất số 109, tờ bản đồ số 21, diện tích 175 m2 tại thôn L, xã Ninh S, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa để ông thực hiện quyền sử dụng đất đã được nhà nước chứng nhận.

Nhận định Tòa án cấp sơ thẩm:

Ông Nguyễn V. T nhận quyền sử dụng đất từ bà Nguyễn T. L chuyển nhượng cho ông đúng trình tự thủ tục theo quy định của pháp luật và đã được UBND thị xã N cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Do vậy, ông Nguyễn V. T có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ sử dụng thửa đất đã được cấp theo quy định tại Điều 166 Luật đất đai. Việc ông Đào T. S đã có hành vi cản trở nguyên đơn xây dựng nhà ở trên đất là cản trở thực hiện quyền sử dụng đất tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 21, diện tích 175 m2 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 228385 do UBND thị xã N cấp ngày 30/6/2015 là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nguyên đơn được quy định tại Điều 12 Luật đất đai 2013. Do vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn ông Nguyễn Văn Tấn buộc ông Đào T. S chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng thửa đất số 109, tờ bản đồ số 21, diện tích 175 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 228385 là có cơ sở chấp nhận và phù hợp với quy định của pháp luật tại Điều 169 Luật dân sự 2015.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Buộc ông Đào T. S chấm dứt hành vi cản trở quyền sử dụng đất của ông Nguyễn V. T tại thửa đất số 109, tờ bản đồ số 21, diện tích 175 m2 theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CA 228385 do UBND thị xã N cấp ngày 30/6/2015 tại thôn L, xã N, thị xã N, tỉnh Khánh Hòa.

21 – 24

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 13 bản án có yêu cầu chấm dứt hành vi cản trở trái pháp luật đối với việc thực hiện quyền sử dụng đất

……………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan