Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 13 bản án có đối tượng tranh chấp là vàng

Tổng hợp 13 bản án có đối tượng tranh chấp là vàng

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 13 bản án có đối tượng tranh chấp là vàng” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

TÓM TẮT NỘI DUNG 13 BẢN ÁN CÓ ĐỐI TƯỢNG TRANH CHẤP LÀ VÀNG

STT

TÓM TẮT NỘI DUNG

TRANG

Bản án số: 137/2023/DS-ST Ngày: 28-9-2023 của Tòa Án nhân dân huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau.

V/v: tranh chấp hợp đồng vay tài sản.

Nội dung vụ án:

Vào ngày 04/7/2019 âm lịch, ông Nguyễn Văn S có đến nhà của bà Nguyễn Tuyết K để hỏi vay 11 chỉ vàng 24k, vay không tính lãi suất, khi vay vàng ông S hứa một tháng sẽ trả lại và chỗ quen thân với nhau nên khi bà K cho ông S vay 11 chỉ vàng 24k không làm biên bản giao nhận.

Số vàng này ông S tự vay, bà Nguyễn Ngọc L (vợ ông S, hiện đã ly hôn) không hay biết và trong đoạn ghi âm ông S cũng thừa nhận ông tự vay số vàng này bà L không hay biết. Cho nên, bà K xác định đây là nợ riêng của ông S và chỉ yêu cầu ông S chịu trách nhiệm thanh toán cho bà K, bà K không yêu cầu bà L cùng có trách nhiệm liên đới cùng với ông S để thanh toán số vàng vay nói trên.

Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:

Xét thấy, việc ông S có hỏi vay của bà K với số vàng 11 chỉ vàng 24k là thực tế có xảy ra vì trong đoạn ghi âm ông S cũng thừa nhận ông tự vay số vàng này bà L không hay biết, kêu bà K đừng có nói cho bà L biết, ông S xin thêm thời gian để trả nợ cho bà K. Do đó, xác định đây là nợ riêng của ông S là có cơ sở. Mặt khác, phía bị đơn ông S Tòa án tống đạt hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, hết thời hạn pháp luật quy định mà ông S không có văn bản thể hiện ý kiến phản đối việc khởi kiện của bà K và vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án, nên được xem là chấp nhận yêu cầu của người khởi kiện.

Như vậy, có cơ sở xác định ông S có vay của bà K 11 chỉ vàng 24k và sau khi vay vàng cho đến nay thì không có trả lại số vàng đã vay của bà K nên bà K khởi kiện ông S là có căn cứ nên được chấp nhận toàn bộ. Buộc ông S phải trả lại cho bà K 11 chỉ vàng 24k (Mười một chỉ vàng 24k)

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Tuyết K về việc khởi kiện ông Nguyễn Văn S yêu cầu trả lại số vàng vay còn nợ. Buộc ông Nguyễn Văn S có nghĩa vụ trả lại cho bà Nguyễn Tuyết K số vàng vay còn nợ là 11 chỉ vàng 24k (Mười một chỉ vàng 24k).

1-4

Bản án số: 170/2017/DSST ngày: 11-7-2017 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang

V/v tranh chấp đòi lại tài sản

Nội dung vụ án:

Vào năm 1993 bà N có quen biết với bà M và ông T, nên có cho bà M và ông T vay số vàng 3,5 lượng vàng 24 kara (loại bóng ký, vàng nhẫn), khi vay vợ chồng bà M, ông T đến nhà của bà N nhận vàng, có làm biên nhận vàng lập ngày 11/10/1993 do bà M không biết chữ nên có gạch thập. Khi vào thực hiện hợp đồng thì bà N bị bắt giam do vi phạm pháp luật về hình sự và bị xử 10 năm tù, sau khi ra tù năm 2000 bà về có yêu cầu bà M và ông T trả số vàng 3,5 lượng vàng 24kara thì bà M và ông T nói là đã trả cho bà S (mẹ kế N) nên không đồng ý trả nợ.

Tại phiên tòa, Bị đơn bà M thừa nhận có vay 3,5 lượng vàng nhưng nói đã trả rồi, trả cho bà S 1,5 lượng, trả cho ông N 02 lượng, Bà S thừa nhận bà có đến nhà của bà M để hỏi lấy 1,5 lượng vàng, sau đó đi thăm bà N bà mới nói cho bà N biết, nhưng bà N không nói gì. Đối với 02 lượng vàng bà M cho rằng trả cho ông N nhưng không có giấy tờ gì chứng minh vì nghĩ người thân nên hỏi là trả, bà S cũng chỉ nghe nói lại sự việc chứ không trực tiếp thấy vàng.

Việc thỏa thuận vay vàng là giữa bà N và bà M, nhưng khi trả thì bà M trả cho bà S 1,5 lượng (S tự ý đi lấy mà không có ý kiến của N), bà M tự ý trả cho N 02 lượng nhưng không có ý kiến của N.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Bà N cho bà M vay 3,5 lượng vàng, bà M thừa nhận có vay bà N 3,5 lượng, nhưng trả không phải cho bà N mà là trả cho S 1,5 lượng, trả cho N 02 lượng, không có ý kiến hay ủy quyền của N nhưng bà M tự trả cho S và N là không đúng đối tượng của giao dịch dân sự, do đó bà M phải có nghĩa vụ trả cho bà N số tiền 119.105.000 đồng tương đương 3,5 lượng vàng 24kara.

Bà Lương Thị M có quyền khởi kiện bà Nguyễn Thị S để yêu cầu trả lại cho bà 1,5 lượng vàng 24kara. Ngoài ra nếu có có chứng cứ chứng minh đã trả cho ông N02 lượng vàng 24 kara thì bà có quyền làm đơn khởi kiện thành một vụ án dân sự khác.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

[1]. Buộc bà Lương Thị M trả cho bà Trần Thị N số tiền 119.105.000 đồng (Một trăm mười chín triệu, một trăm lẻ năm nghìn đồng) tương đương 3,5 lượng vàng 24kara.

[2]. Đình chỉ một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị N về việc yêu cầu ông Nguyễn Văn T cùng liên đới trả nợ cho bà.

5-10

Bản án 10/2022/DS-ST ngày: 18-5- 2022 của Tòa án nhân dân huyện Vị Thủy, tỉnh Hậu Giang

V/v: Tranh chấp về hợp đồng dân sự vay tài sản

Nội dung vụ án:

Bà B đã cho bà X hàng xóm vay 13 chỉ vàng loại 24K bốn số 9 vào năm 2015, với lãi suất 200.000 đồng/chỉ/tháng. Bà X có viết biên nhận nhưng sau đó hủy bỏ. Số vàng này bà B đã vay từ chị ruột và từ bản thân. Sau khi bà X không trả lãi suất từ khi vay đến ngày 30/11/2017, bà B yêu cầu bà X trả lại 08 chỉ vàng loại 24K. Bà X đã trả lại 05 chỉ vàng và ký biên nhận nợ 08 chỉ vàng và 20 triệu đồng lãi suất, cam kết sẽ trả đủ trong 2 năm. Tuy nhiên, từ ngày đó đến nay, bà X vẫn chưa trả vàng và lãi suất theo cam kết, dù bà B đã đòi nhiều lần. Do đó, bà B đưa vụ án ra tòa và yêu cầu bà X trả lại 08 chỉ vàng 24K. Trong phiên tòa, nguyên đơn rút yêu cầu trả lãi suất, chỉ yêu cầu bà X trả lại 08 chỉ vàng 24K loại 99,99%.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Nguyên đơn bà Thị B khởi kiện bị đơn bà Tiêu Thị H X yêu cầu trả 08 chỉ vàng 24K loại vàng bốn số chín và 20 triệu đồng tiền lãi theo văn bản ngày 30/11/2017. Để chứng minh cho yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp, phía nguyên đơn cung cấp cho Tòa án bản gốc văn bản ghi nợ ngày 30/11/2017 của bị đơn. Về phía bị đơn, quá trình thụ lý, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, thu thập chứng cứ là một thời gian dài, mặc dù đã được triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng đều vắng mặt, không có ý kiến về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Đến ngày 11/3/2022, tại biên bản lấy lời khai, bà Tiêu Thị H X thừa nhận vào ngày 30/11/2017 có trả cho bà Thị B 05 chỉ vàng 24K nợ trước đó và có ghi giấy nợ với nội dung nợ bà B 08 chỉ vàng 24K loại vàng bốn số 9 và 20 triệu đồng tiền lãi, cam kết trong hai năm trả đủ vốn rồi trả tiền lời (lãi) cho bà B. Mặc dù
văn bản ghi nợ có hình thức và nội dung chưa đảm bảo nhưng bị đơn đã thừa nhận có ghi giấy nợ này và cũng thừa nhận số nợ 08 chỉ vàng 24K loại vàng bốn số 9 và 20 triệu đồng tiền lãi nên nguyên đơn không phải chứng minh. Do đó, nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả số nợ là 08 chỉ vàng 24K loại vàng bốn số 9 là có
căn cứ.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

[1]. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bà Tiêu Thị H X có nghĩa vụ trả cho bà Thị B 08 (tám) chỉ vàng 24K (loại 99,99 %).

[2]. Đình chỉ xét xử đối với phần yêu cầu về lãi suất .

10-18

Bản án số: 02/2019/DS-ST ngày: 12-12-2019 của Tòa án nhân dân huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định

V/v tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.

Nội dung vụ án:

Trong năm 2012, vợ chồng ông M bà S cho vợ chồng ông T bà L vay ba lần với tổng số là 09 chỉ vàng y (vàng 18K); đến lần vay thứ ba, ông T viết giấy vay vàng và ký tên. Từ đó đến nay, vợ chồng ông T bà L chỉ trả được 0.5 chỉ vàng còn lại 8.5 chỉ chưa trả. Nay ông M bà S yêu cầu ông T bà L trả cho ông bà 8.5 chỉ vàng 18K và không có yêu cầu gì khác.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Qua xem xét “Giấy vay vàng” viết tay, có nội dung ông Bùi Quang T và vợ Nguyễn Thị L vay của vợ chồng bà Dương Thị S 09 chỉ vàng y; thấy rằng, đây là hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn và không có lãi. Ông T bà L thừa nhận “Giấy vay vàng” viết tay này là do ông T viết và ghi tên Bùi Quang T. Tuy nhiên, ông T bà L cho rằng mục đích viết “Giấy vay vàng” là do bà S nhờ ghi chứ thực tế không vay vàng. Ý kiến này của ông T bà L không được ông M bà S chấp nhận và ông T bà L cũng không có tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh việc viết giấy nhưng không vay vàng là đúng sự thật. Ông T bà L đều biết về giấy vay vàng này và đều thống nhất thừa nhận là đồng ý viết cho bà S và do ông T viết nên căn cứ vào nội dung “Giấy vay vàng” có đủ cơ sở để xác định ông Bùi Quang T và bà Nguyễn Thị L có vay của vợ chồng ông Ngô M bà Dương Thị S 09 chỉ vàng y là đúng sự thật và phù hợp với lời khai của ông M bà S.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của vợ chồng ông Ngô M bà Dương Thị S. Buộc vợ chồng ông Bùi Quang T bà Nguyễn Thị L có nghĩa vụ liên đới trả cho vợ chồng ông Ngô M bà Dương Thị S 8,5 (tám phảy năm) chỉ vàng 18K.

19-22

Bản án số: 22/2023/DS-ST ngày 31- 05 – 2023 của Tòa án nhân dân huyện Hồng Dân, tỉnh Bạc Liêu

V/v tranh chấp đòi tài sản

Nội dung vụ án:

Bà Huỳnh Thị H yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc buộc ông Dương Văn S và bà Nguyễn Thị V phải trả cho bà H 01 cây vàng 24K mà trước đây vợ chồng bà Huỳnh Thị H đã cho mượn. Sau khi vợ chồng bà H ly hôn, bà H kiện đòi số vàng này từ vợ chồng ông S, bà V. Điều này đã tạo ra một tranh chấp pháp lý giữa họ.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Qua kết quả giám định không có cơ sở để xác định chữ ký “C” trong giấy vay vàng ngày 20/9/2008 (al) là chữ ký của Ông Đặng C nên việc cấp sơ thẩm chỉ buộc Ông Đặng Xuân T1 cùng vợ là Bà Bùi Thị Y có nghĩa vụ trả nợ cho bà Phan Thị D 10 lương vàng SJC và bác khiếu nại của Bà D buộc vợ chồng Ông Đặng C cùng liên đới trả nợ là có căn cứ, đúng theo quy định của pháp luật.

Đối với kháng cáo của Bà D về việc yêu cầu tính lãi số vàng đã cho vay: Xét thấy, tại điểm 5 phần I Thông tư liên tịch số 01/1997/TTLT ngày 19/6/1997 của Bộ tài chính – Bộ tư pháp – VKSND tối cao – TAND tối cao về việc hướng dẫn việc xét xử và thi hành án về tài sản quy định: Trong trường hợp đối tượng hợp đồng vay tài sản là vàng, thì lãi suất chỉ được chấp nhận khi Ngân hàng Nhà nước có quy định…, kể từ ngày Bà D cho vay vàng đến nay Ngân hàng Nhà nước Việt Nam không có văn bản nào quy định về lãi suất cho vay vàng, việc Bà D yêu cầu tính lãi số vàng đã cho vay là không có căn cứ nên cấp sơ thẩm bác yêu cầu này của Bà D là có căn cứ.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thị H đối với ông Dương Văn S, bà Nguyễn Thị V. Buộc ông Dương Văn S và bà Nguyễn Thị V mỗi người có trách nhiệm trả cho bà Huỳnh Thị H 05 chỉ vàng 24K.

23-29

LINK PDF: Tổng hợp 13 bản án có đối tượng tranh chấp là vàng

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan