Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 13 bản án áp dụng tập quán để giải quyết

Tổng hợp 13 bản án áp dụng tập quán để giải quyết

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 13 bản án áp dụng tập quán để giải quyết ” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

                                           MỤC LỤC

TỔNG HỢP 13 BẢN ÁN ÁP DỤNG TẬP QUÁN ĐỂ GIẢI QUYẾT

STT TÓM TẮT NỘI DUNG
1 Bản án số: 01/2019/HNGĐ-ST ngày 27-3-2019 của Tòa án nhân dân huyện Văn Quan, tỉnh Lạng Sơn về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn”

Nội dung:

Chị và anh Lành Văn T kết hôn năm 2012, trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn, trong quá trình chung sống vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do tính cách không hợp nhau, cuộc sống khó khăn thiếu thốn dẫn đến những xung đột, cãi vã trong gia đình, từ đó tình cảm vợ chồng lạnh nhạt, không còn quan tâm đến nhau. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 9 năm 2018 đến nay. Chị Mã Thị H xác định tình cảm vợ chồng không còn, yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Lành Văn T.

Nhận định của tòa án cấp sơ thẩm:

[1]       Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, ý kiến của nguyên đơn, bị đơn, căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa Hội đồng xét xử nhận định:

[2]       Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Chị Mã Thị H khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn, vì vậy xác định quan hệ pháp luật là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn”

[3]       Về tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án, Tòa án đã thông báo và triệu tập các đương sự yêu cầu viết bản tự khai và lấy lời khai đương sự theo quy định, cung cấp tài liệu chứng cứ và tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải.

[4]       Về nội dung vụ án: Quan hệ hôn nhân giữa chị Mã Thị H và anh Lành Văn T là hợp pháp, được xây dựng trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã T, huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Sau khi kết hôn, thời gian đầu tình cảm vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc. Sau đó vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm. Từ tháng 9 năm 2018 vợ chồng đã sống ly thân đến nay, không còn quan tâm đến công việc, cuộc sống của nhau. Hội đồng xét xử xét thấy mâu thuẫn giữa chị Mã Thị H và anh Lành Văn T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Vì vậy, yêu cầu ly hôn của chị Mã Thị H đưa ra là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[5]       Xét yêu cầu của anh Lành Văn T đồng ý ly hôn với điều kiện chị Mã Thị H phải trả cho anh khoản tiền sính lễ là 20 triệu đồng và tiền tổn thất về tinh thần cho con là 50 triệu đồng, trước yêu cầu của anh Lành Văn T đưa ra chị Mã Thị H không chấp nhận. Hội đồng xét xử thấy, đối với tiền sính lễ là khoản tiền do hai bên gia đình tự nguyện giao cho nhau khi kết hôn là theo phong tục tập quán, pháp luật không có quy định bắt buộc các bên phải thanh toán cho nhau đối với khoản tiền này trước khi kết hôn. Đối với yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần, ngoài lời khai của anh Lành Văn T thì không có căn cứ để xác định có việc tổn thất về tinh thần đối với cháu Lành Bảo P khi hai vợ chồng ly hôn. Do đó, các yêu cầu anh Lành Văn T đưa ra là không có căn cứ, không phù hợp với quy định của pháp luật nên không được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[6]       Về con chung: Chị Mã Thị H và anh Lành Văn T có 01 (một) con chung là Lành Bảo P, sinh ngày 06/3/2012, hiện cháu đang ở với anh Lành Văn T. Khi ly hôn, chị Mã Thị H đề nghị để cho anh Lành Văn T trực tiếp nuôi dưỡng cháu Lành Bảo P và chị Mã Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 500.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi. Tại phiên tòa anh Lành Văn T có ý kiến trong trường hợp vợ chồng phải ly hôn thì anh yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con đến tuổi trưởng thành và yêu cầu chị Mã Thị H cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 2.000.000 đồng cho đến khi con đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng 06 tháng một lần. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu của anh Lành Văn T về quyền được nuôi con là có căn cứ phù hợp với quy định tại các Điều 81, 82, 83 và Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình, do vậy cần giao cháu Lành Bảo P cho anh Lành Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi, đây cũng là nguyện vọng của cháu Lành Bảo P. Tại phiên tòa các bên không thỏa thuận về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng, do vậy Hội đồng xét xử sẽ xem xét và quyết định. Hội đồng xét xử thấy mức cấp dưỡng mà anh Lành Văn T đưa ra là quá cao, không phù hợp với thu nhập của chị Mã Thị H. Còn đối với mức cấp dưỡng mà chị Mã Thị H đưa ra là quá thấp không đảm bảo cho cuộc sống của cháu Lành Bảo P. Căn cứ vào thu nhập của chị Mã Thị H và mức chi phí thực tế tại địa phương, Hội đồng xét xử quyết định mức cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng là 1.000.000 đồng cho đến khi cháu Lành Bảo P đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng theo tháng. Chị Mã Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

[7]       Về tài sản chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[8]       Về nợ chung: Không có, nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[9]       Xét thấy đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[10]     Về án phí: Áp dụng khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5, điểm a, khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc chị Mã Thị H phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng án phí cấp dưỡng nuôi con.

[11]     Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm theo quy định của pháp luật

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1.         Về quan hệ hôn nhân: Xử cho chị Mã Thị H được ly hôn với anh Lành Văn T.

2.         Về con chung: Giao cháu Lành Bảo P, sinh ngày 06/3/2012 cho anh Lành Văn T trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi đủ 18 tuổi. Chị Mã Thị H có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con mỗi tháng 1.000.000 đồng (một triệu đồng) cho đến khi cháu Lành Bảo P đủ 18 tuổi, phương thức cấp dưỡng theo tháng, thời điểm bắt đầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm (27/3/2019). Chị Mã Thị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung, không ai được cản trở.

Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án đối với các khoản tiền phải trả cho người được thi hành án cho đến khi thi hành xong tất cả các khoản tiền, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất quy định tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015.

3.         Không chấp nhận yêu cầu của anh Lành Văn T yêu cầu chị Mã Thị H thanh toán tiền sính lễ và tiền tổn thất về tinh thần vì không có căn cứ.

4.         Về tài sản chung: Không có.

5.         Về nợ chung: Không có.

6.         Về án phí: Chị Mã Thị H phải chịu 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm và 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí cấp dưỡng. Xác nhận chị Mã Thị H đã nộp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số: AA/2012/03869 ngày 03 tháng 01 năm 2019 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện V, tỉnh Lạng Sơn. Chị Mã Thị H còn phải nộp tiếp 300.000 đồng (Ba trăm nghìn đồng).

7.         Về quyền kháng cáo: Chị Mã Thị H và anh Lành Văn T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án.

2 Bản án số: 01/2020/HNGĐ-ST ngày 02 – 6 – 2020 của Tòa án nhân dân huyện Tủa Chùa, tỉnh Điện Biên về việc: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con chung khi ly hôn”

Nội dung:

Nguyên đơn chị Giàng Thị A và bị đơn anh Vì A S chung sống với nhau từ năm 2012 do sự tự nguyện của hai bên, hai người đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S, huyện T, tỉnh Điện Biên ngày 16/8/2018. Trong quá trình chung sống do bị đơn hay chơi bời, không quan tâm chăm lo cuộc sống chung cho gia đình. Bị đơn đã được gia đình hai bên khuyên bảo nhiều lần nhưng bị đơn vẫn không thay đổi, ngoài ra bị đơn còn có hành vi đánh đập nguyên đơn. Từ tháng 3/2019 nguyên đơn đi làm thuê và hai vợ chồng bắt đầu sống ly thân cho đến nay. Nguyên đơn yêu cầu được ly hôn với bị đơn

Nhận định của tòa án cấp sơ thẩm:

[1]       Về tố tụng

Nguyên đơn chị Giàng Thị A, người làm chứng bà Giàng Thị L có đơn xin xét xử vắng mặt tại phiên tòa. Nên HĐXX tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, người làm chứng theo quy định tại khoản 1 Điều 228, khoản 2 Điều 229 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]       Về quan hệ hôn nhân:

Nguyên đơn và bị đơn có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền, thủ tục đăng ký kết hôn đúng quy định pháp luật, do đó quan hệ hôn nhân là hợp pháp. Về nguyên nhân xin ly hôn xuất phát từ việc bị đơn hay chơi bời, không chăm lo cuộc sống chung của gia đình, có hành vi đánh đập nguyên đơn, hai vợ chồng sống ly thân từ tháng 3/2019 cho đến nay, về nguyên nhân phát sinh mâu thuẫn và việc hai người đang sống ly thân bị đơn cũng thừa nhận với ý kiến của nguyên đơn, tại phiên tòa bị đơn đồng ý việc ly hôn. Do đó HĐXX xét thấy quan hệ hôn nhân giữa chị Giàng Thị A và anh Vì A S đã mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó xét thấy yêu cầu ly hôn của chị Giàng Thị A là có căn cứ và phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình nên cần chấp nhận.

[3]       Về con chung:

Chị Giàng Thị A và anh Vì A S có 02 con chung chưa thành niên là cháu Vì A V (sinh ngày 17/10/2013) và Vì Thị H (sinh ngày 21/5/2015). Xét về điều kiện hoàn cảnh kinh tế các bên đều làm nông nghiệp, điều kiện kinh tế khó khăn, thu nhập chủ yếu từ làm ruộng, nương và đi làm thuê, khả năng thu nhập và điều kiện nuôi con như nhau.

Xét về con chung, thấy hai người có 01 con trai và 01 con gái, nguyên đơn yêu cầu được nuôi con gái, để bị đơn nuôi con trai và không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung, tại phiên tòa bị đơn nhất trí theo yêu cầu của nguyên đơn, HĐXX thấy yêu cầu nuôi con của nguyên đơn phù hợp với phong tục tập quán dân tộc, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế của các bên và phù hợp với quy định của Luật hôn nhân và gia đình, nên cần chấp nhận, giao con chung Vì Thị H cho nguyên đơn trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc và giao con Vì A V cho bị đơn trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Về cấp dưỡng nuôi con chung các bên không yêu cầu nên HĐXX không xem xét giải quyết.

[4]       Về tài sản chung: Các bên đều không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5]       Về án phí: Các đương sự là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn nên cần miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1.         Về hôn nhân: Chị Giàng Thị A được ly hôn với anh Vì A S

2.         Về chăm sóc nuôi dưỡng conchung:

–           Giao con chung Vì Thị H – sinh ngày 21/5/2015 cho chị Giàng Thị A trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

–           Giao con chung Vì A V – sinh ngày 17/10/2013 cho anh Vì A S trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc.

Các bên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Nguyên đơn, bị đơn có quyền đi lại thăm nom, nuôi dưỡng, chăm sóc con chung không ai có quyền cản trở. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết hai bên có quyền xin thay đổi việc nuôi con và yêu cầu mức cấp dưỡng nuôi con.

3.         Về án phí: Nguyên đơn đã được miễn nộp tiền tạm ứng án phí, miễn toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm cho các đương sự.

3 Bản án số: 02/2017/HNGĐ-ST ngày 23/11/2017 Toà án nhân dân huyện Xín Mần, tỉnh Hà Giang về việc: “Không công nhận quan hệ vợ chồng, tranh chấp chia tài sản chung”

Nội dung:

Tháng 12 năm 2005 anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H đi đến hôn nhân là do gia đình hai bên ép buộc và tổ chức cưới hỏi theo phong tục địa phương. Không có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân có thẩm quyền. Sau khi tổ chức kết hôn theo phong tục địa phương chị Vàng Thị H vẫn về nhà bố mẹ đẻ sinh sống. Năm 2006 chị H đã về giúp anh C làm việc nhà nhưng chưa chung sống như vợ chồng. Đến năm 2007 chị Vàng Thị H chính thức về chung sống như vợ chồng với anh Lù Văn C. Do không được tìm hiểu và yêu nhau nên trong cuộc sống vợ chồng chị Vàng Thị H và anh Lù Văn C thường nảy sinh mâu thuẫn. Năm 2013 em trai anh Lù Văn C có đi lấy vợ ở thôn C xã C huyện H tỉnh Hà Giang. Trong quá trình đi đón dâu chị Vàng Thị H có quen anh Chúng Văn C, hai bên bắt đầu có quan hệ riêng tư, từ đó vợ chồng anh C nảy sinh mâu thuẫn trầm trọng. Đến tháng 2 năm 2017 chị Vàng Thị H bỏ đi chung sống với anh Chúng Văn C ở thôn C, xã C, huyện H, tỉnh Hà Giang. Anh Lù Văn C đề nghị Tòa án nhân dân huyện Xín Mần giải quyết cho ly hôn với chị Vàng Thị H.

Nhận định của tòa án cấp sơ thẩm:

[1]       Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn anh Lù Văn C khởi kiện yêu cầu ly hôn. Bị đơn chị Vàng Thị H đồng ý nhưng có yêu cầu chia tài sản chung gia đình. Căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình xác định đây là vụ án “Không công nhận vợ chồng, tranh chấp chia tài sản chung”, Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang thụ lý, giải quyết là đúng theo quy định tại khoản 1, Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự.

[2]       Về thẩm quyền: Vụ án này sau khi thụ lý Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang xác định bị đơn chị Vàng Thị H hiện đang cư trú tại thôn C, xã C, huyện H, tỉnh Hà Giang. Căn cứ khoản 2 Điều 5 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP ngày 18/4/2014 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật cư trú, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 41 Bộ luật tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện H tỉnh Hà Giang. Ngày 28/8/2017 Tòa án nhân dân huyện Xín Mần đã chuyển toàn bộ hồ sơ vụ án đến Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh Hà Giang để giải quyết theo thẩm quyền. Ngày 05/9/2017 Tòa án nhân dân huyện H chuyển trả hồ sơ vụ án với lý do tài sản nằm tại huyện Xín Mần. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 39 và Biên bản thỏa thuận Tòa án giải quyết việc ly hôn ngày 07/9/2017 của anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H, Tòa án nhân dân huyện Xín Mần tỉnh Hà Giang tiếp tục giải quyết vụ án là đúng với quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm b khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[3]       Về nội dung:

[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H kết hôn với nhau từ năm 2005, khi đó anh C 17 tuổi, chị Vàng Thị H 15 tuổi là vi phạm về độ tuổi kết hôn theo Điều 9 Luật hôn nhân năm 2000. Đến năm 2007 mới chính thức về chung sống với nhau như vợ chồng. Từ năm 2008 trở đi anh Chi, chị H đủ tuổi kết hôn theo Điều 9 Luật hôn nhân năm 2000. Trong suốt quá trình chung sống từ năm 2008 đến nay, anh C và chị H có đủ điều kiện đăng ký kết hôn, nhưng không đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền làm thủ tục đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, nay có yêu cầu ly hôn. Căn cứ khoản 2 Điều 53 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án nhân dân huyện Xín Mần thụ lý nhưng xác định việc chung sống giữa anh C và chị H là không hợp pháp, không làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng với nhau nên không công nhận là vợ chồng theo quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[3.2] Về con chung: Anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H có 03 con chung là Lù Thị H, sinh ngày 29/11/2008; Lù Thị N, sinh ngày 19/6/2010; Lù Tiến L, sinh ngày 13/3/2015. Theo nguyện vọng của anh C và nguyện vọng của cháu H và cháu N muốn được sống cùng anh C, Hội đồng xét xử cần áp dụng khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình, khoản 3 Điều 208 Bộ luật tố tụng dân sự để chấp nhận nguyện vọng của anh C, cháu H và cháu N. Cháu Lù Tiến L sinh ngày 13/3/2015 hiện chưa đủ 36 tháng tuổi theo sự thỏa thuận của hai bên và quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình giao cho người mẹ là chị Vàng Thị H trực tiếp nuôi dưỡng chăm sóc giáo dục. Chị Vàng Thị H có nguyện vọng được nuôi cháu Lù Thị H với lý do cháu H ốm yếu rất cần có sự chăm sóc của người mẹ. Xét trên thực tế chị H hiện đã đi lấy chồng khác, người chồng mới cũng đã có 03 đứa con riêng cùng sống chung một nhà với chị H nên điều kiện chăm sóc cháu H của chị Hường không thể tốt bằng anh C. Việc giao cháu H cho anh C chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục là hòan toàn hợp lý, đảm bảo sự phát triển cả về thể chất và tinh thần của cháu Lù Thị H.

[3.3] Về quan hệ tài sản chung: Tổng số tài sản chung của gia đình bà Lù Già P, anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H đã được định giá vào ngày 14/8/2017 tổng trị giá 160.346.000đ. Tại phiên tòa ngày hôm nay chị Vàng thị H đề nghị chia cho chị H 01 con trâu theo định giá tài sản ngày 14/8/2017 là 20 triệu đồng. Xét thấy yêu cầu này là chính đáng cần được xem xét thấp nhận.

[3.4] Về các khoản nợ: Gia đình có nợ Ngân hàng chính sách xã hội huyện Xín Mần là 20.000.000đồng. Ngày 26/10/2017 anh Lù Văn C đã trả xong. Chị Vàng Thị H và anh Lù Văn C không có đề nghị gì về khoản nợ này nên Tòa án không đề cập đến.

[3.5] Về yêu cầu bồi thường: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa

anh Lù Văn C đề nghị anh Chúng Văn C ở thôn C xã C huyện H tỉnh Hà Giang phải đền bù cho anh C 36 triệu với lý do là bồi thường một phần tiền sính lễ và bồi thường hạnh phúc ly tán cho gia đình anh C. Đối với đề nghị làm hạnh phúc gia đình ly tán một phần do lỗi của anh Lù Văn C trên thực tế đã không đối xử tốt với vợ, ngoài ra còn có hành vi uống rượu say, chửi bới, đánh đập, đuổi vợ ra khỏi nhà. Chị Vàng Thị H không có chỗ nương tựa phải đi ở nhờ nhà anh Chúng Văn C. Việc chị Vàng Thị H bỏ nhà anh Lù Văn C đến ở nhà anh Chúng Văn C không có căn cứ anh C súi giục, mua chuộc nên đề nghị của anh C buộc anh C phải đền bù cho anh C 36 triệu là không chính đáng, không có cơ sở để chấp nhận. Còn đối với việc đòi lại sính lễ khi ly hôn theo khoản 7 phần II Danh mục các tập quán lạc hậu về Hôn nhân và gia đình cần vận động xóa bỏ hoặc cấm áp dụng Ban hành kèm theo Nghị định số 126/2014/NĐ-CP ngày 31 tháng 12 năm 2014 của Chính Phủ là hành vi bị cấm áp dụng nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[4]       Về án phí, chi phí tố tụng:

[4.1] Về án phí: Anh Lù Văn C phải chịu án phí ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H phải chịu án phí có giá ngạch theo khoản 2 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

[4.2] Về chi phí tố tụng: Chị Vàng Thị H đã nộp đủ tiền chi phí xem xét thẩm định tại chỗ là 1.000.000đồng, tiền chi phí định giá tài sản là 2.000.000đồng, tổng hai khoản chi phí tố tụng là 3.000.000đồng. Chị Vàng Thị H tự nguyện chịu toàn bộ chi phí tố tụng và không có yêu cầu gì khác. Anh Lù Văn C đồng ý để chị Vàng Thị H chịu toàn bộ chi phí tố tụng nên Hội đồng xét xử không đề cập xem xét.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

1.         Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa anh Lù Văn C và chị Vàng Thị H.

2.         Về con chung: Giao cháu Lù Thị H, sinh ngày 29/11/2008 và cháu Lù Thị N, sinh ngày 19/6/2010 cho anh Lù Văn C trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Giao cháu Lù Tiến L sinh ngày 13/3/2015 cho chị Vàng Thị H trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Không bên nào phải cấp dưỡng nuôi con chung cho bên nào. Người không trực tiếp nuôi con có quyền đi lại thăm và chăm sóc con chung, người trực tiếp nuôi con không được cản trở.

3.         Về chia tài sản chung:

Chia cho chị Vàng Thị H 01 con trâu trị giá 20.000.000đồng (Hai mươi triệu đồng). Chia cho anh Lù Văn C và bà Lù Già P: Khu nhà chính và các công trình phụ trị giá 136.396.000đồng (Một trăm ba mươi sáu triệu ba trăm chín mươi sáu nghìn đồng), gồm nhà chính, sàn gỗ, sàn để đồ nông sản, chuồng lợn, bán mái làm bếp. Các tài sản khác trong nhà trị giá 3.950.000đồng (Ba triệu chín trăm năm mươi nghìn đồng), gồm 01 tủ thờ bằng gỗ, 01 tủ tivi bằng gỗ ép, 01 tivi nhãn hiệu Nakata 21inch, 01 đầu chảo Trung quốc VTC HD02, 01 đầu đĩa nhãn hiệu Belco. Tổng cộng số tài sản được chia là 140.346.000đồng (Một trăm bốn mươi triệu ba trăm bốn mươi sáu nghìn đồng).

4.         Về yêu cầu bồi thường:

Không chấp nhận yêu cầu của anh Lù Văn C buộc anh Chúng Văn C phải bồi thường tổn thất tinh thần cho anh C 36.000.000đồng (Ba mươi sáu triệu đồng).

LINK PDF:Tổng hợp 13 bản án áp dụng tập quán để giải quyết

……………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan