FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 12 BẢN ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 34/2018/HN&GĐ-ST ngày 07/3/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hoằng Hóa tỉnh Thanh Hóa.
V/v: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn Nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị V và anh Trịnh Xuân M kết hôn vào năm 1995 do Uỷ ban nhân dân xã K cấp giấy chứng nhận kết hôn. Sau một thời gian chung sống, do mâu thuẫn kéo dài nên chị V đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh M. Vợ chồng có 03 con chung là Trịnh Thị V, Trịnh Thị H, Trịnh Xuân V. Về tài sản, anh chị có 01 căn nhà cấp 4 và công trình phụ trên diện tích đất 334 m2 tại thôn 1, xã K, huyện H đứng tên vợ chồng anh. Tuy nhiên, nguồn gốc đất này là của ông Trịnh Xuân B (bố đẻ anh M) cho vợ chồng anh M ở, nay anh chị ly hôn, ông B đề nghị được lấy lại phần đất nói trên. Tòa án sơ thẩm nhận định: [1] Về hôn nhân: cho các bên ly hôn. [2] Về con: Trịnh Thị Văn đã trưởng thành. Còn hai cháu, chị V nuôi dưỡng cháu H, giao cháu V cho anh M trực tiếp nuôi dưỡng, không bên bên nào phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung. [3] Về tài sản: Áp dụng Án lệ số 03/2016/AL được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 06 tháng 4 năm 2016, Tòa án nhận định. Năm 2006, ông B đã cho và sang tên khu đất cho vợ chồng anh M, chị V. Năm 2012 vợ chồng anh M và chị V xây dựng 01 nhà cấp 4 kiên cố và công trình phụ trên khu đất đó, ông B và các thành viên trong gia đình anh M đều biết việc xây dựng nhà của vợ chồng anh M, chị V, nhưng cũng không ai có ý kiến gì. Như vậy, vợ chồng anh M, chị V đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định, gia đình ông B cũng không ai có khiếu nại gì về việc cấp đất, xây nhà này. Do đó, việc ông B và anh M khai rằng là đất của ông B, ông không cho vợ chồng vì vợ chồng ly hôn là không có cơ sở chấp nhận. Diện tích đất ở trên và tài sản gắn liền trên đất là tài sản chung của vợ chồng anh M, chị V. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị V được ly hôn anh Trịnh Xuân M. Về con: Chị Nguyễn Thị V và anh Trịnh Xuân M có ba con chung. Con đầu là Trịnh Thị V đã thành niên. Giao chị Nguyễn Thị V trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trịnh Thị H. Anh Trịnh Xuân M trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cháu Trịnh Xuân V. Về tài sản: Vợ chồng Nguyễn Thị V và anh Trịnh Xuân M có tài sản chung gồm diện tích đất 334 m2 tại thôn 1, xã K, huyện H, tỉnh Thanh Hóa trị giá 133.600.000 đồng và tài sản gắn liền với đất. Cụ thể, giao cho chị V quyền sở hữu khu nhà bếp, chuồng trại, cổng sắt, mái tôn không tường và quyền sử dụng diện tích đất 167 m2; tổng trị giá 107.992.000 đồng. Giao cho anh M quyền sở hữu nhà ở mái ngói, mái tôn và quyền sử dụng diện tích đất 167 m2; tổng trị giá 201.622.000 đồng. Phần chệnh lệch tài sản anh M có nghĩa vụ giao lại cho chị V số tiền 40.000.000 đồng. |
1-8 |
|
Bản án số: 470/2017/DS – ST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh.
V/v: Tranh chấp tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân Nội dung vụ án: Ông Phạm Văn H và bà Trần Thị N chung sống với nhau trước năm 1985 và đã ly hôn theo Quyết định số 217/2014/QĐST – HNGĐ ngày 31/03/2014 của Tòa án nhân dân quận T. Ông H và bà N không thỏa thuận được tài sản chung liên quan đến nhà đất tọa lạc tại số 327, phường T, quận T, Tp. H. Theo ông H, đất trên là do bà Vũ Thị C (mẹ ruột của bà N) tặng cho ông H với bà N. Tuy nhiên đất của bà C không có giấy tờ nên nhà nước không thừa nhận, đến năm 1999 ông H và bà N kê khai đất, năm 2002 đề nghị cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và được nhà nước cấp vào năm 2003. Sau đó, ông H và bà N xây nhà trên diện tích đất trên. Theo bà N toàn bộ giấy tờ nhà đất đều là do ông H tự đi làm và kê khai, tờ giấy tặng cho của bà C là không chính xác vì mẹ bà N không viết giấy đó và khi đó cha bà N còn sống nên phải có ý kiến của cha bà, tờ giấy đó không có chữ ký của cha bà do đó không có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Theo bản án lệ số 03/2016/AL ngày 06/4/2016, ông H và bà N đã sử dụng nhà, đất liên tục, công khai, ổn định và đã tiến hành việc kê khai đất, được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất nên phải xác định vợ chồng ông H bà N đã được tặng cho quyền sử dụng đất. Như vậy tài sản nhà và đất số: 327 (số cũ 379) T, phường T, quận T, Tp. H là tài sản chung của Ông H và Bà N. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông H. Xác định tài sản nhà ở và quyền sử dụng đất số 327 (số cũ 379) T, phường T, quận T, Thành phố H là tài sản chung của ông H và bà N. Bà N có trách nhiệm thanh toán trả cho ông H số tiền tương ứng 50% (là ½) giá trị căn nhà. |
9-19 |
|
Bản án số: 06/2017/DS-PT ngày 23/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Ninh Bình.
V/v: Tranh chấp tài sản chung là di sản thừa kế Nội dung vụ án: Bà Lã Thị S có cha là Lã Văn T (chết 1993) không để lại di chúc và mẹ là Nguyễn Thị C (chết năm 2009) có để lại di chúc. Khi còn sống bố mẹ bà có khối tài sản chung là đất ông cha T1 để lại từ trước năm 1980, không có giấy tờ. Theo bản đồ năm 1985 xã N thì bố mẹ bà được đứng tên trên bản đồ có tổng diện tích là 2.700m2. Sau khi cụ T1 mất, cụ T có hai lần họp gia đình để phân chia nhà đất nhưng không thành. Sau khi cụ T mất bà S làm đơn đề nghị các cấp có thẩm quyền xem xét cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà theo di chúc của cụ T. Nhưng khi xem xét di chúc của cụ T thì di chúc định đoạt cả phần tài sản của cụ T1 chung với cụ T nên xã có mời gia đình lên bàn bạc. Các bên cho rằng đây là phần di sản của cụ ông bà T1. Theo tài liệu thì năm 1971 bà C kết hôn với ông Lã Văn T. Khi bà lấy ông T về do nhà chật, đông người nên cụ T1, cụ T cho vợ chồng bà đất để làm nhà ra ở riêng. Khi xây nhà, cụ T còn cho vợ chồng bà vật liệu để làm. Gia đình bà đã làm nhà ở xây tường bao thành khuôn viên riêng, thực hiện nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước, quản lý và sử dụng đất ổn định từ đó đến nay hơn 40 năm, phần đất này đã đươc UBND cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho vợ chồng bà. Ngày 13/7/1987 đến tháng 9/2004 UBND thị xã N cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông T, bà C là 17 năm cụ Lã Văn T, Nguyễn Thị T là bố mẹ đẻ của ông T không có ý kiến gì. Nay Bà Lã Thị S yêu cầu hủy 2 giấy chứng nhận vì cho rằng cấp không đúng đối tượng, đây là di sản thừa kế của ông bà. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của Bà Lã Thị S đề nghị hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời Ủy ban nhân dân huyện H cấp cho ông Lã Văn T ngày 13/6/1987 và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lã Văn T, Bà Vũ Thị C được cấp năm 2004 và yêu cầu chia tài sản chung là di sản thừa kế của cụ Lã Văn T Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Thời điểm bà S khởi kiện chia tài sản chung là di sản thừa kế của cụ T1 đang thi hành Bộ luật dân sự năm 2005 và theo quy định tại Điều 645 BLDS 2005 thời hiệu khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế là 10 năm. Như vậy tính đến ngày bà S khởi kiện đến Tòa án thì đã hết thời hiệu thừa kế của cụ T1 theo Bộ luật dân sự năm 2005. Căn cứ Nghị quyết 02/2004/HĐTP thì không đủ điều kiện di sản thừa kế của cụ T1 đã hết thời hiệu trở thành tài sản chung của các đồng thừa kế. Tuy nhiên đến thời điểm Tòa án cấp sơ thẩm xét xử vụ án thì Bộ luật dân sự 2015 có hiệu lực pháp luật. Tại Điều 623 Bộ luật dân sự 2015 quy định “thời hiệu để người thừa kế yêu cầu chia di sản là 30 năm đối với bất động sản”. Cụ Lã Văn T chết năm 1993 đến nay vẫn còn thời hạn chia thừa kế di sản của cụ T1 theo Bộ luật dân sự 2015. Quá trình giải quyết vụ án Bà Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của Bà Lã Thị S đề nghị chia tài sản chung là di sản thừa kế của cụ Lã Văn T. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tạm thời UBND huyện H cấp cho ông Lã Văn T và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên ông Lã Văn T Bà Vũ Thị C không liên quan đến vụ án chia tài sản chung mà sẽ được xem xét trong vụ án chia thừa kế di sản của cụ T1 khi đương sự yêu cầu. |
20-29 |
|
Bản án số: 20/2017/HNGĐ-PT ngày 07/8/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước
V/v: Tranh chấp tài sản chung Nội dung vụ án: Chị Lương Thị C và anh Lương Văn T chung sống với nhau từ năm 1995 đến năm 2004 thì mới đăng ký kết hôn tại UBND xã B. Sau khi cưới, vợ chồng bình thường một thời gian ngắn thì thường xuyên xảy ra mâu thuẫn nên chị C đề nghị Tòa án giải quyết cho ly hôn với anh T. Theo chị C, tài sản chung của các anh chị gồm có: diện tích đất 01 ha trồng cao su tại thôn 2, xã Đ 10, huyện B; diện tích đất 9999 m2 tại thôn 2, xã Đ 10, huyện B; diện tích đất 18.018 m2 trồng điều tọa tại thôn 6, xã B, huyện B; diện tích đất 882 m2, trên đất có 01 căn nhà gỗ, căn nhà cấp 4, đất tại thôn 6, xã B, huyện B; diện tích đất 15.017 m2 trồng điều tại thôn C, xã P, huyện B; tiền gửi tiết kiệm đứng tên anh T gửi Ngân hàng là 325.000.000 đồng, hiện nay còn lại 15.000.000 đồng gửi Ngân hàng, chị C có gửi Ngân hàng số tiền 100.000.000 đồng và đã rút hết năm 2011; số tiền 175.000.000 cho người khác vay. Theo anh T, vợ chồng có tài sản chung là diện tích đất 15.017 m2 tại Thôn C, xã P, huyện B; các tài sản còn lại là của bố mẹ anh T là ông L, bà L chứ không phải là tài sản chung của vợ chồng, chị C không có công sức đóng góp gì vì thời gian chung sống chị C chỉ đi chữa bệnh; số tiền anh gửi Ngân hàng anh đã rút ra để trả tiền cho anh Lương Văn Th; số tiền cho người khác vay, anh đã thu hồi nợ nhưng chỉ còn lại 50.000.000 đồng số tiền 100.000.000 đồng chị C gửi Ngân hàng là tài sản chung của vợ chồng. Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị C đối với về việc yêu cầu chia tài sản chung. Xác định các tài sản gồm: Diện tích đất 12.729 m2 và diện tích đất 9.999 m2 tại thôn 2, xã Đ 10, huyện B, diện tích đất 18.088 m2 và diện tích đất mặt đường 20 x 50 mét, diện tích đất theo kết quả đo đạc là 882 m2. Có 200 m2 đất thổ cư toạ lạc tại thôn 6, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước là tài sản chung của anh T và chị C. Chia cho chị C được quyền sở hữu và sử dụng diện tích đất 18.088 m2 tại thôn 6, xã B, huyện B tài sản trên đất có 434 cây điều; cây trồng trên diện tích đất 15.017,8 m2. Tạm giao cho chị C được quản lý 15.017,8 m2 đất tại thôn C, xã P, huyện B cho đến khi cơ quan có thẩm quyền thu hồi. Chị C được hưởng số tiền mặt 100.000.000 đồng mà chị C gửi Ngân hàng đã rút ra, tiêu xài và số tiền chênh lệch về chia tài sản chung là 157.851.000 đồng. Chia cho anh T được sử dụng lô đất diện tích 882 m2 tại thôn 6, xã B; sở hữu cây trồng trên diện tích đất 12.729 m2 và trên diện tích đất 9.999 m2; tạm giao cho anh T quản lý diện tích đất 12.729 m2 và diện tích đất 9.999 m2 tại thôn 2 xã Đường 10 để giao lại khi cơ quan có thẩm quyền thu hồi. Anh T được hưởng số tiền mặt là 325.000.000 tiền gửi Ngân hàng và số tiền 175.000.000 thu hồi nợ. Giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ B diện tích đất 15.017,8 m2 tại thôn C, xã P, huyện B; diện tích đất 12.729m2 và diện tích 9.999m2 toạ lạc tại thôn 2, xã Đường 10 để quản lý. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Xét yêu cầu kháng cáo của anh T, ông L đối với diện tích đất 882m2 tại Thôn 6, xã B, huyện B thấy rằng: khi anh T và chị C về chung sống với nhau thì ông L, bà L đã làm 01 căn nhà gỗ và giao diện tích đất trên cho vợ chồng anh chị quản lý, sinh sống. Năm 2000 anh T cũng đã tiến hành kê khai và được UBND cấp Giấy CNQSDĐ đứng tên hộ anh T mà ông L, bà L cũng không có ý kiến gì. Nên việc anh T, ông L kháng cáo cho rằng diện tích đất 882 m2 là tài sản của ông bà là không có cơ sở. Đối với yêu cầu kháng cáo của anh T, ông L về diện tích đất 12.729m2 tại Thôn 2, xã Đ 10, huyện B. Diện tích đất này do vợ chồng anh T, chị C nhận chuyển nhượng từ anh V năm 2004, việc ông L, anh T cho rằng ông L, bà L nhờ anh T đứng ra mua giùm và đưa tiền cho anh T mua là không có cơ sở. Tuy nhiên, diện tích đất 12.729m2 hiện nay thuộc sự quản lý của Ban quản lý rừng phòng hộ huyện B, do các hộ xâm canh trái phép nên các bên tạm thời sử dụng nhưng phải giao trả đất khi Nhà nước có chính sách thu hồi. Do đó, chỉ xác định tài sản trên đất là 706 cây cao su trồng năm 2006 là tài sản chung của vợ chồng. Xét yêu cầu kháng cáo của anh T, ông L đối với diện tích đất 9.999m2 tại Thôn 2, xã Đ 10, huyện B. Năm 2004 chị C, anh T nhận chuyển nhượng của ông Phạm Ngọc H diện tích đất khoảng 01ha, sau đó anh chị đổi diện tích đất nhận chuyển nhượng của ông Hướng cho anh Lương Văn Th (em trai anh T) quản lý, anh chị lấy phần diện tích đất 9.999m2 nêu trên của anh Th, việc đổi đất không lập giấy tờ, sau khi đổi đất thì anh chị quản lý, sử dụng đến nay. Tuy nhiên, diện tích đất 9.999m2 nêu trên thuộc sự quản lý của Ban quản lý rừng phòng hộ huyện B nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại xác định diện tích đất 9.999m2 là tài sản chung và chia giá trị đất cho các bên và tuyên giao cho Ban quản lý rừng phòng hộ huyện B diện tích đất 9.999m2 là không phù hợp. Xét yêu cầu kháng cáo của anh T, ông L đối với diện tích đất 18.088m2 tại Thôn 6, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước. Việc Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị C xác định đây là tài sản chung của vợ chồng anh T, chị C là phù hợp quy định pháp luật. Nên việc ông L, bà L tiến hành kê khai để cấp Giấy CNQSDĐ là không đúng. Đồng thời, tài sản nêu trên đang bị các bên tranh chấp tại Tòa án nhưng UBND huyện B vẫn tiến hành cấp Giấy CNQSDĐ là không phù hợp. Lẽ ra Tòa án cấp sơ thẩm phải tuyên hủy Giấy CNQSDĐ số CH00795 do UBND huyện B cấp ngày 20/5/2015 cho hộ ông L, bà L. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của bị đơn anh Lương Văn T. Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Lương Văn L. Sửa Bản án hôn nhân gia đình số 37/2017/DS-ST ngày 01/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện B. Chị C được quyền sở hữu tài sản trồng trên diện tích đất 15.017,8m2 tại Thôn C, xã P, huyện B, tỉnh Bình; được quyền quản lý, sử dụng diện tích đất 18.088m2 tại Thôn 6, xã B, huyện B, tỉnh Bình Phước và quyền sở hữu tài sản trồng trên diện tích đất nêu trên; quyền sở hữu số tiền 100.000.000 đồng gửi Ngân hàng ngày 15/6/2011. Anh Lương Văn T được quyền sử dụng diện tích đất 882m2 tại Thôn 6, xã B, huyện B; sở hữu tài sản trồng trên diện tích đất 12.729m2 và trên diện tích đất 9.999m2 tọa lạc tại Thôn 2, xã Đ 10, huyện B; sở hữu số tiền 325.000.000 đồng gửi Ngân hàng; sở hữu số tiền 175.000.000 đồng từ việc thu hồi nợ. Anh T có trách nhiệm thanh toán lại cho chị C giá trị tài sản chênh lệch là 134.528.000 đồng. …Xem bản đầy đủ tài liệu tại link đính kèm dưới đây |
30-48 |
LINK PDF: TỔNG HỢP 12 BẢN ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
………………
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn