Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp hợp đồng phân phối có yêu cầu về lãi chậm trả được tòa án chấp nhận

Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp hợp đồng phân phối có yêu cầu về lãi chậm trả được tòa án chấp nhận

FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp hợp đồng phân phối có yêu cầu về lãi chậm trả được tòa án chấp nhận” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp hợp đồng phân phối có yêu cầu về lãi chậm trả được tòa án chấp nhận

STT

NỘI DUNG TÓM TẮT

SỐ TRANG

1

Bản án số: 01/2022/KDTM-ST ngày: 04 – 01 – 2022 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Sóc Trăng

Về việc : “Tranh chấp hợp đồng phân phối”

Nội dung vụ án:

Ngày 05-3-2018, Công ty T và Hộ kinh doanh H giao kết hợp đồng phân phối số: 048-04/2018/SCV-HĐPP. Theo hợp đồng, Công ty T phân phối cho Hộ kinh doanh H những sản phẩm đã được đăng ký để bán tại Việt Nam (sản phẩm đủ điều kiện cung ứng ra thị trường Việt Nam). Ngày 28-5-2020 Công ty T đã giao hàng đầy đủ cho Hộ kinh doanh H và đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng số 0000541 số tiền 1.485.611.907 đồng (đã bao gồm 05% thuế GTGT). Đến ngày 04-12-2020, Công ty T và Hộ kinh doanh H đã đối chiếu công nợ, tính đến ngày 30-11-2020 Hộ kinh doanh H còn nợ Công ty T số tiền 1.485.611.907 đồng.

Công ty T đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng, hai bên cũng đã đối chiếu công nợ nhưng Hộ kinh doanh H không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Đến ngày 29-12-2020, Công ty T thông báo cho Hộ kinh doanh H phải thanh toán công nợ, phạt lãi chậm thanh toán số tiền 1.624.665.181 đồng, thanh toán trước ngày 31-12-2020, nhưng Hộ kinh doanh H vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán. Do vậy, Công ty T khởi kiện yêu cầu Hộ kinh doanh H phải thanh toán nợ gốc số tiền 1.485.611.907 đồng; lãi suất trên nợ gốc do chậm thanh toán; phạt lãi chậm thanh toán đến ngày 29-12-2020 số tiền 139.053.274 đồng.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

  • Công ty T yêu cầu Hộ kinh doanh H thanh toán nợ gốc; lãi suất trên nợ gốc chậm thanh toán; phạt lãi chậm thanh toán đến ngày 29-12-2020. Tại phiên tòa sơ thẩm, Công ty T yêu cầu Hộ kinh doanh H thanh toán nợ gốc số tiền 1.485.611.907 đồng; lãi suất trên nợ gốc chậm thanh toán từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán (ngày 04-6-2020) đến ngày mở phiên tòa xét xử (ngày 30-12-2021) là 574 ngày, mức lãi suất 0,045%/ngày, với số tiền 383.735.555 đồng; phạt lãi chậm thanh toán trên nợ gốc chậm thanh toán từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán (ngày 04-6-2020) đến ngày mở phiên tòa xét xử (ngày 30-12-2021) là 574 ngày, mức lãi suất 0,045%/ngày, với số tiền 383.735.555 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, yêu cầu khởi kiện của Công ty T tại phiên tòa sơ thẩm không vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu theo quy định tại Khoản 1 Điều 244 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 nên được chấp nhận.
  • Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty T yêu cầu Hộ kinh doanh H thanh toán nợ gốc số tiền 1.485.611.907 đồng. Hội đồng xét xử xét thấy, tại Khoản 4.1 Điều 4 của Hợp đồng phân phối số: 048-04/2018/SCV-HĐPP ngày 05-3-2018 quy định: “Bên Mua sẽ thanh toán cho Bên Bán dưới hình thức chuyển khoản vào tài khoản ngân hàng của Bên Bán trong vòng 7 ngày kể từ ngày xuất hóa đơn tài chính…”. Thực hiện hợp đồng, Công ty T đã giao đủ hàng cho Hộ kinh doanh H vào ngày 28-5-2020, đã xuất hóa đơn giá trị gia tăng số 0000541 số tiền 1.485.611.907 đồng (đã bao gồm 05% thuế GTGT) thì 07 (bảy) ngày sau (tức ngày 04-6-2020) Hộ kinh doanh H phải thanh toán số tiền 1.485.611.907 đồng nhưng Hộ kinh doanh H không thanh toán. Đến ngày 04-12-2020, Hộ kinh doanh H xác nhận còn nợ Công ty T số tiền 1.485.611.907 đồng nhưng vẫn không thanh toán. Hộ kinh doanh H cho rằng không có đặt hàng, người nhận hàng không đủ điều kiện nhận hàng thì tại thời điểm nhận hàng hoặc sau khi nhận hàng Hộ kinh doanh H có quyền trả lại số hàng đã nhận, thế nhưng Hộ kinh doanh H vẫn nhận hàng, bán hàng để thu lợi nhuận thì xem như chấp nhận đơn hàng. Đồng thời, Hộ kinh doanh H đã xác nhận công nợ, thừa nhận còn nợ và đồng ý thanh toán cho Công ty T nợ gốc số tiền 1.485.611.907. Do đó, Công ty T yêu cầu Hộ kinh doanh H thanh toán nợ gốc số tiền 1.485.611.907 đồng là có căn cứ chấp nhận.
  • Xét yêu cầu khởi kiện của Công ty T yêu cầu Hộ kinh doanh H thanh toán lãi suất trên nợ gốc chậm thanh toán số tiền 1.485.611.907 đồng, từ ngày vi phạm nghĩa vụ thanh toán (ngày 04-6-2020) đến ngày mở phiên tòa xét xử (ngày 30-12-2021) là 574 ngày, mức lãi suất 0,045%/ngày, với số tiền 383.735.555 đồng. Yêu cầu này phù hợp với quy định của pháp luật nên có căn cứ chấp nhận. Ngoài ra, tại Hợp đồng phân phối số: 048-04/2018/SCV-HĐPP ngày 05-3-2018 quy định: “Bên Mua thanh toán chậm hơn so với thời gian quy định sẽ phải chịu khoản phạt lãi suất chậm thanh toán ở mức bằng 150% lãi suất cho vay có kỳ hạn (12) tháng của Ngân hàng tại Việt Nam mà Bên Bán mở tài khoản”. Vì vậy, lãi suất chậm trả sẽ được áp dụng theo thỏa thuận tại hợp đồng.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty T, buộc Hộ kinh doanh H (người đại diện bà Hồ Thị A) phải thanh toán cho Công ty T số tiền 1.579.077.179 đồng, gồm:

+ Nợ gốc: 1.469.961.907 đồng;

+ Tiền lãi chậm thanh toán đến ngày mở phiên tòa xét xử (ngày 30-12 2021): 109.115.272 đồng.

01-10

2

Bản án số: 03/2022/KDTM-ST ngày: 15-8-2022 của Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình

Về việc: “Tranh chấp Hợp đồng phân phối”

Nội dung vụ việc:

Hộ kinh doanh Phan Văn P nguyên là nhà phân phối sản phẩm Vietnamcacao của Chi nhánh Công ty cổ phần C (tỉnh B). Căn cứ vào hợp đồng phân phối và Giấy cam kết trả nợ đã ký ngày 25/02/2020 thì Hộ kinh doanh Phan Văn P có phát sinh đơn hàng với Công ty trị giá 77.832.777 đồng. Ngày 29/02/2020 Hộ kinh doanh Phan Văn P đã thanh toán cho Công ty được 63.169.000 đồng, còn nợ lại 14.663.777 đồng. Thời hạn thanh toán theo thỏa thuận là 60 ngày, kể từ ngày giao hàng 05/3/2020. Nhưng để hỗ trợ kinh doanh Phan Văn P trả số nợ trên cho Công ty, Công ty đã gia hạn thêm thời gian thanh toán. Đồng thời căn cứ vào hợp đồng phân phối và Giấy cam kết trả nợ đã ký, nếu Hộ kinh doanh Phan Văn P thanh toán trễ hạn so với thời gian thanh toán thì phải chịu lãi suất trả chậm. Công ty cổ phần C đã viết gmail nhắc nợ đến Hộ kinh doanh Phan Văn P nhưng hộ kinh doanh không thanh toán cho Công ty. Công ty cổ phần C đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc Hộ kinh doanh Phan Văn P phải trả số tiền nợ gốc còn lại là 14.663.777 đồng , chịu thêm mức lãi suất chậm trả và khoản phạt thanh toán theo quy định hiện hành của pháp luật. Tại văn bản số 02/06/2022/VICACAO- CV nguyên đơn yêu cầu hộ kinh doanh Phan Văn P phải trả số nợ gốc14.663.777 đồng, yêu cầu giải quyết khoản tiền lãi theo lãi suất ngân hàng Vietcombank của Hộ kinh doanh Phan Văn P phải chịu 14.663.777 đồng x 10%= 1.466.377 đồng, không yêu cầu trả khoản tiền phạt thanh toán 0,5%/ngày/số tiền chậm trả. Tổng cộng số tiền cần thanh toán là: 16.130.154 đồng.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

  • Đối với yêu cầu thanh toán số tiền nợ gốc 14.663.777 đồng: Sau khi ký hợp đồng các bên đã thực hiện hợp đồng thông qua việc giao nhận hàng hóa, thanh toán tiền hàng và xác nhận công nợ. Căn cứ vào chứng cứ mà Công ty C xuất trình là “giấy nhận nợ ngày 25/02/2022” và sự thừa nhận của anh P về số tiền hàng còn nợ có đủ cơ sở để xác định anh Phan Văn P trong quá trình thực hiện hợp đồng phân phối có nợ Công ty C số tiền là 14.663.777 đồng. Anh P cho rằng khi Công ty cho anh phân phối hàng có đủ nhân sự nhưng khi thị trường không triển khai Công ty hoàn toàn không báo cho anh mà ép phải chuyển sang sản phẩm cacao bột và anh không đồng ý. Công ty không hỗ trợ thu hàng tồn kho mà anh quá hạn sử dụng phải vất đi làm thiệt hại anh rất nhiều nên Công ty có lỗi. Tuy nhiên, anh P không cung cấp được tài liệu, chứng cứ gì để chứng minh cho lời trình bày của mình. Như vậy kể từ ngày 01/5/2020 đến nay, anh Phan Văn P – chủ hộ kinh doanh Phan Văn P không thanh toán nợ cho Công ty theo cam kết, vi phạm nghĩa vụ thanh toán theo hợp đồng. Do đó yêu cầu trên của Công ty C có cơ sở, phù hợp Điều 50 Luật thương mại nên cần chấp nhận.
  • Đối với yêu cầu trả số tiền lãi 1.466.377 đồng: Tại Giấy nhận nợ ngày 25/02/2020 thì các bên có thỏa thuận lãi suất phạt ở mức 0,5%/ngày cho số tiền chậm thanh toán. Tuy nhiên tại văn bản ngày 2/6/2022, đơn xin xét xử vắng mặt thì nguyên đơn yêu cầu giải quyết khoản tiền lãi theo quy định theo lãi suất ngân hàng Vietcombank của Hộ kinh doanh Phan Văn P phải chịu 14.663.777 đồng x 10%= 1.466.377 đồng, không yêu cầu trả khoản tiền phạt thanh toán 0,5%/ ngày/ số tiền chậm trả. Căn cứ vào mức lãi suất15,6%/năm – Nợ quá hạn trung bình của 03 ngân hàng là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Ngoại thương Việt Nam chi nhánh Ninh Bình (lãi suất nợ quá hạn 13,65%/năm), Ngân hàng thương mại cổ phần Sài gòn – Hà Nội chi nhánh Ninh Bình (lãi suất nợ quá hạn 18.15%/năm) và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt (lãi suất 15 %/năm). Xét thấy yêu cầu về lãi chậm trả của nguyên đơn thấp hơn lãi chậm trả anh P phải chịu theo mức lãi suất 15,6%/năm tương ứng với thời gian chậm trả nên có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 306 Luật thương mại.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

Buộc anh Phan Văn P – chủ Hộ kinh doanh Phan Văn P có nghĩa vụ trả cho Công ty cổ phần C số tiền 16.130.154; trong đó nợ gốc là 14.663.777 đồng  và lãi chậm trả 1.466.377 đồng.

11-18

3

Bản án số:09/2023/KDTM-PT ngày: 20 tháng 9 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu

Về việc: “Tranh chấp hợp đồng phân phối hàng hoá”

Nội dung vụ việc:

Công ty TNHH khoa kỹ sinh vật Thăng L có giao dịch mua bán thức ăn thủy sản với ông Trương Minh L (đại lý Văn L) và bà L2 theo hợp đồng HĐPP/MTA/KGI-04 ngày 02/01/2019 và hợp đồng số HĐPP/MTA/KGI-05 ngày 02/01/2021. Theo đó, đại lý Văn L có nghĩa vụ thanh toán bằng tiền mặt hoặc chuyển khoản cho công ty Thăng L trước khi nhận hàng. Vào các tháng cao điểm của vụ nuôi, công ty Thăng L đồng ý cho Đại lý nhận hàng trước và thanh toán trả sau trong phạm vi hạn mức tín dụng được xác định trong thư bảo lãnh thanh toán không hủy ngang và vô điều kiện do một ngân hàng hợp pháp (công ty chỉ định) phát hành bảo lãnh thanh toán thay cho Đại lý, bằng bản chính cho công ty với thời hạn chậm không quá 60 ngày kể từ ngày nhận hàng. Do đó, đơn hàng phát sinh từ ngày 26/08/2020 đến ngày 25/10/2021 ông L liên tục thanh toán trễ hạn. Khi kết thúc việc mua bán thì hai bên có ký xác nhận vào bảng đối chiếu công nợ, theo đó tính đến khi đối chiếu công nợ ngày 19/4/2021 cơ sở Văn L còn nợ Công ty TNHH khoa kỹ sinh vật Thăng L số tiền nợ gốc là 8.847.795.224đ, đối chiếu công nợ đến ngày 12/2021 cơ sở Văn L còn nợ Công ty TNHH khoa kỹ sinh vật Thăng L số tiền nợ gốc là 8.944.175.224 đồng. Công ty TNHH khoa kỹ sinh vật Thăng L xuất hóa đơn điện tử, biên bản đối chiếu công nợ, Đơn cam kết thanh toán công nợ do bà Trần Thùy L2 viết ngày 19/4/2021 và cam kết thanh toán công nợ do ông Trương Minh L viết cùng ngày 19/4/2021. Công ty Thăng L đã nhiều lần hẹn gặp trao đổi trực tiếp về kế hoạch thanh toán nhưng ông L gây nhiều khó khăn, gây thiệt hại cho công ty. Do đó, công ty Thăng L yêu cầu Tòa án giải quyết: Buộc ông Trương Minh L và bà Trần Thùy L2 có nghĩa vụ thanh toán số tiền hàng còn nợ là 8.944.175.224 đồng và tiền lãi phát sinh tính từ ngày 04/11/2021 theo mức lãi suất quy định của pháp luật.

Tòa án sơ thẩm tuyên:

  • Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L.
  • Buộc ông Trương Minh L có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L tổng số tiền là 5.504.862.214 đồng. Trong đó tiền gốc 4.520.277.632 đồng và tiền lãi phát sinh là 984.584.582 đồng. Buộc bà Trần Thùy L2 có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L tổng số tiền là 5.387.489.173 đồng. Trong đó tiền gốc 4.423.897.612 đồng và tiền lãi phát sinh là 963.591.561 đồng.

Ngày 8/5/2023, bà Trần Thùy L2 kháng cáo toàn bộ bản án.

Tòa án phúc thẩm nhận định:

  • Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, phía bà L2 thừa nhận chữ ký và chữ viết tại Tờ cam kết ngày 19/4/2021 là chữ ký và chữ viết do bà L2 viết và ký, đây là tình tiết sự kiện không phải chứng minh theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự. Bà L2 không có tài liệu chứng cứ nào để chứng minh bà L2 bị ép buộc viết tờ cam kết và bà L2 không bị Tòa án tuyên bố mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự. Từ đó, các ý kiến phản bác của bà L2 là không có cơ sở chấp nhận.
  • Sau khi ly hôn, ông L, bà L2 đã có đơn cam kết thanh toán công nợ cho phía công ty L. Đơn cam kết thể hiện ý chí của bà L2 đồng ý trả nợ cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L số tiền 4.423.897.612 đồng trên tổng số tiền nợ chung với ông L của công ty là 8.847.795.224 đồng; chữ ký và chữ viết do bà L2 viết và ký nên bà phải có nghĩa vụ thanh toán số tiền cho Công ty Thăng L nợ gốc là 4.423.897.612 đồng. Đối với ông L phải trả số tiền nợ gốc còn lại cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L là 8.944.175.244 đồng – 4.423.897.612 đồng = 4.520.277.632 đồng.
  • Xét yêu cầu tính lãi suất đối với số tiền gốc, Hội đồng xét xử xét thấy: Do các bên không thỏa thuận về mức lãi suất nên số tiền lãi và mức lãi suất được xác định theo Điều 306 Luật thương mại. Như vậy, sẽ căn cứ vào mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường của ít nhất 03 (ba) ngân hàng thương mại: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam thì lãi suất nợ quá hạn ngày 27/4/2023 là 12,9%/năm; Ngân hàng thương mại cổ phần công thương Việt Nam thì lãi suất nợ quá hạn ngày 27/4/2023 là 19,8%/năm; Ngân hàng TMCP ngoại thương Việt Nam chi nhánh Bạc Liêu thì lãi suất nợ quá hạn ngày 27/4/2023 là 14,25%/năm. Vì vậy, mức lãi suất nợ quá hạn trung bình trên thị trường tại thời điểm thanh toán là 15,65%/năm. Tại phiên toà phúc thẩm, đại diện nguyên đơn thống nhất với quyết định của án sơ thẩm đã tuyên, đồng ý với mức lãi suất 14,75%/năm.

Tòa án phúc thẩm tuyên:

– Buộc ông Trương Minh L có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L tổng số tiền là 5.504.862.214 đồng. Trong đó tiền nợ gốc là 4.520.277.632 đồng và tiền lãi phát sinh là 984.584.582 đồng.

– Buộc bà Trần Thùy L2 có nghĩa vụ thanh toán cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Khoa Kỹ Sinh Vật Thăng L tổng số tiền là 5.387.489.173 đồng. Trong đó tiền nợ gốc là 4.423.897.612 đồng và tiền lãi phát sinh là 963.591.561 đồng.

19-27

Link PDF: Tổng hợp 10 bản án về tranh chấp hợp đồng phân phối có yêu cầu về lãi chậm trả được tòa án chấp nhận

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, Star Tower, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan