FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 08 bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đầu tư” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 08 bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đầu tư
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số 525/2019/HC-PT ngày 09 tháng 8 năm 2019 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP.Hồ Chí Minh
Về việc: “Khiếu khiện hành vi hành chính” Tóm tắt nội dung vụ án Năm 1997-2002, dự án “công trình chợ và phố chợ Xã X” – chủ đầu tư là Công ty xây dựng tinh hoa thuộc UBMTTQVN TP. HCM. Ngày 24/10/2022, UBND tỉnh B đồng ý gao lại cho Công ty xây dựng kinh doanh nhà Đông A làm chủ đầu tư dự án trên. Ngày 06/10/2011, UBND tỉnh B thu hồi chủ trương đầu tư và giao lại cho UBND huyện C đầu tư cải tạo nâng cấp chợ X. Nguồn vốn cải tạo chợ X gồm ngân sách huyện và các hộ tiểu thương đóng góp. Năm 2007,Trần Văn B và Lê Thị B1 nhận chuyển nhượng từ Công ty Xây dựng Tinh Hoa 04 ô sạp có chứng thực của địa phương. Năm 2015, UBND huyện C thu hồi 04 ô sạp nhưng không bồi thường nên ông B, bà B1 khiếu nại. Trong văn bản tiếp dân chủ tịch UBND huyện C đã kết luận: “Ông B chỉ phải đóng thêm diện tích ô sạp đôi ra và tự lắp ghép ô sạp theo thiết kế. Như vậy, ô sạp là tài sản của tiểu thương nên không phải ký Hợp đồng. Do đó, thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 yêu cầu các tiểu thương phải ký hợp đồng thuê ô sạp là không đúng. Ngày 06/3/2018, Ông B có đơn khiếu nại đến chủ tịch UBND huyện C, nhưng không được giải quyết. Do đó ông B và bà B1 khởi kiện yêu cầu Toà án giải quyết: – Tuyên hành vi của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C không thụ lý đơn khiếu nại đề ngày 06/3/2018 của ông B, bà B1 đối với Thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 là trái pháp luật. – Buộc Ủy ban nhân dân huyện C phải thực hiện theo kết luận tại Biên bản tiếp dân số 21/BBTD ngày 12/7/2016. Sau khi đóng tiền chênh lệch diện tích ô sạp thì ô sạp sẽ thuộc quyền sở hữu của tiểu thương nên không phải đóng tiền thuê ô sạp nữa. – Buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu đối với ô sạp số 05, 06 cho bà B1 và số 33, 35 cho ông B. – Tuyên hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã S về việc ra Thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 là trái pháp luật và hủy Thông báo này. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn B, bà Lê Thị B1. Tuyên xử “Hành vi của Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C về việc không thụ lý đơn khiếu nại đề ngày 06/3/2018 của ông B, bà B1 đối với Thông báo số 07 về việc phải ký hợp đồng thuê ô sạp nhà lồng chính chợ S” là trái pháp luật. Bác các yêu cầu khởi kiện của ông Trần Văn B, bà Lê Thị B1 về việc “Buộc Ủy ban nhân dân huyện C phải thực hiện theo kết luận tại Biên bản làm việc số 21/BBTD ngày 12/7/2016 của Ban tiếp công dân Ủy ban nhân dân huyện C; tuyên hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã S về việc ra Thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 yêu cầu các tiểu thương phải ký hợp đồng thuê ô sạp tại chợ S là trái pháp luật; Buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu đối với ô sạp số 05, 06 khu nhà lồng chính cho bà B1 và số 33, 35 cho ông B”. Ngày 18/11/2018, người khởi kiện ông Trần Văn B có đơn kháng cáo đề nghị hủy Bản án sơ thẩm, trừ phần đã chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã S chưa làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của những người được thông báo hoặc có nội dung làm phát sinh nghĩa vụ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của những người được thông báo. Do đó theo quy định nêu trên thì Thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã S không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính và do đó việc khởi kiện đối với hành vi ra Thông báo 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã S cũng không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Biên bản tiếp dân số 21/BBTD ngày 12/7/2016 ghi nhận ý kiến giữa Chủ tịch Ủy ban nhân dân huyện C với ông Trần Văn B, không phải là văn bản quy phạm pháp luật, cũng không có nội dung “ô sạp là tài sản của tiểu thương nên không phải ký hợp đồng thuê ô sạp” như ông B trình bày. Do đó, cũng theo quy định trên việc khởi kiện của ông Trần Văn B và bà Lê Thị B1 yêu cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân huyện C phải thực hiện theo kết luận tại Biên bản tiếp dân số 21/BBTD ngày 12/7/2016 cũng không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Do đó, kháng cáo của ông Trần Văn B yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm là có căn cứ một phần nên chấp nhận hủy một phần Bản án sơ thẩm và đình chỉ giải quyết vụ án đối với các nội dung khởi kiện không thuộc đối tượng khởi kiện vụ án hành chính. Ông Trần Văn B và bà Lê Thị B1 chưa có hợp đồng thuê ô sạp với Ủy ban nhân dân xã S nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của ông Trần Văn B yêu cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu đối với ô sạp số 05, 06 cho bà Lê Thị B1 và số 33, 35 cho ông Trần Văn B. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Văn B; Hủy một phần Bản án hành chính sơ thẩm số 73/2018/HC-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh B và đình chỉ giải quyết vụ án đối với khởi kiện của ông Trần Văn B và bà Lê Thị B1 yêu cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân huyện C phải thực hiện theo kết luận tại Biên bản làm việc số 21/BBTD ngày 12/7/2016 của Ban tiếp công dân Ủy ban nhân dân huyện C; Hủy Thông báo số 07/TB-UBND ngày 16/01/2018 của Ủy ban nhân dân xã S và tuyên hành vi hành chính của Ủy ban nhân dân xã S ra Thông báo số 07/TB- UBND ngày 16/01/2018 yêu cầu các tiểu thương phải ký hợp đồng thuê ô sạp tại Chợ S là trái pháp luật. Không chấp nhận một phần kháng cáo của ông Trần Văn B; Giữ nguyên một phần Bản án hành chính sơ thẩm số 73/2018/HC-ST ngày 15/11/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh B. Bác đơn khởi kiện của ông Trần Văn B và bà Lê Thị B1 yêu cầu Tòa án buộc Ủy ban nhân dân huyện C cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng, quyền sở hữu đối với ô sạp số 05, 06 cho bà Lê Thị B1 và số 33, 35 Chợ S cho ông Trần Văn B. |
1 |
|
Bản án số 154/2018/HC-PT ngày 05 tháng 10 năm 2018 của Toà án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng
Về việc: “Khiếu kiện quyết định chấm dứt hoạt dộng dự án” Tóm tắt nội dung vụ án Công ty TNHH H đã triển khai thực hiện dự án xây dựn trung tâm thương mại A cụ thể như sau: Công ty đã đúc toàn bộ 68 trụ bê tông công trình cao 6.8m; xây dựng xong tầng 1 cao 6.8m với diện tích 720m2, đức xong trụ tầng 2 cao 3.6m chờ dải sắt sàn phun bê tông sàn tầng 2. Trong 3 năm 2013,2014,2015 phía Công ty đã lập tờ trình xin gia hạn tiến độ xây dựng. Đến nay, khi Công ty đã huy động đầy đủ nguồn vốn và đang triển khai tiếp tục thi công thì bị Sở Kế Hoạch – Đầu Tư tỉnh Thừa Thiên Huế ra quyết định số 29/QĐ-SKHĐT ngày 20/7/2016 chấm dứt hoạt động dự án Trung tâm thương mại A của Công ty TNHH H. Do đó, Công ty TNHH H khởi kiện đề nghị Toà án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xem xét huỷ Quyết định số 29/QĐ-SKHĐT ngày 20/7/2016 của Sở Kế hoạch Đầu tư tỉnh Thừa Thiên Huế và bồi thường thiệt hại khi phát vỡ Hợp đồng giữa Công ty TNHH H và Công ty Cổ phần TA Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH H yêu cầu huỷ Quyết định số 29/QĐ-SKHĐT ngày 20/7/2016 của Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Thừa Thiên Huế về việc chấm dứt hoạt động của dự án Trung tâm thương mại A của chủ đầu tư là Công ty TNHH H. Ngày 12/2/2018, Công ty TNHH H kháng cáo yêu cầu Toà án cấp phúc thẩm sửa án sơ thẩm, huỷ Quyết địn số 29/QĐ-SKHĐT ngày 20/7/2016 về việc chấm dứt hoạt động của dự án Trung tâm thương mại A của chủ đầu tư là Công ty TNHH H. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Về yêu cầu đưa UBND tỉnh Thừa Thiên Huế vào tham gia tố tụng: Công ty TNHH H là đối tượng điều chỉnh và chịu tác động của quyết định này là Công ty TNHH H. Do đó, Toà án cấp sơ thẩm không xác định và đưa UBND tỉnh Thừa Thiên Huế vào tham gia tố tụng hành chính với tư các người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là không vi phạm thủ tục tố tụng hành chính. Dựa vào các tài liệu chứng cứ, Toà án dân dân tỉnh Thừa Thiên Huế bác các yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH H là có căn cứ đúng pháp luật. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm xét thấy đề nghị của đại diện viện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng là có căn cứ chấp nhận, bác kháng cáo của Công ty TNHH H, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Bác kháng cáo của Công ty TNHH H, giữ nguyên các quyết định của bản án sơ thẩm; Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH H yêu cầu huỷ quyết định số 29/QĐ-SKHĐT ngày 20/7/2016 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thừa Thiên Huế về việc chấm dứt hoạt động của dự án Trung tâm thương mại A của Công ty TNHH H. |
9 |
|
Bản án số 253/2021/HC-PT ngày 29 tháng 11 năm 2021 của Toà án nhân dân cấp cao TP. Đà Nẵng
Về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai và lĩnh vực đầu tư”. Tóm tắt nội dung vụ án Công ty Cổ phần T được Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh Phú Yên cho phép đầu tư Dự án Khu Resort T theo Thông báo số 262/TB-UBND ngày 14/5/2008. Trong quá trình triển khai thực hiện dự án. Ngày 27/9/2010 Công ty Cổ phần T có Tờ trình số 663/TTr-GTT về việc xin chấp nhận điều chỉnh chủ trương đầu tư Khu Resort T. Ngày 19/10/2010, Công ty Cổ phần T có Đơn xin giao đất sử dụng lâu dài đối với dự án Khu Resort T số 755/GTT gửi đến UBND tỉnh Phú Yên. Theo đó UBND thành phố T, Sở Tài chính, Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Văn hóa ,Thể thao và Du lịch, Sở Xây dựng đều có văn bản đồng ý. Từ cơ sở của các ý kiến góp ý trên, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Phú Yên có báo cáo và kiến nghị số 332/BC-SKHĐT-KTXH ngày 27/10/2010 về việc xin điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Khu Resort T gửi cho UBND tỉnh Phú Yên. Nội dung của bản báo cáo và kiến nghị của Sở Kế hoạch Đầu tư là đồng ý trình UBND tỉnh Phú Yên cho phép điều chỉnh chủ trương đầu tư dự án Resort T. Ngày 23/11/2010, UBND tỉnh Phú Yên có Văn bản số 2669/UBND-ĐTXD về việc điều chỉnh chủ trương dự án khu Resort T. Năm 2010, do nhu cầu phát triển kinh tế – xã hội tỉnh Phú Yên, phù hợp với tiềm năng du lịch địa phương nên Công ty có lập hồ sơ xin điều chỉnh chủ trương đầu tư, điều chỉnh tổng thể mặt bằng dự án tại khu 7,9ha trở thành kinh doanh bất động sản, nghỉ dưỡng. Ngày 12/7/2010, Công ty Cổ phần T ký hợp đồng thuê đất với Sở Tài nguyên và Môi trường, hợp đồng thuê đất số 742/HĐTĐ. Thời gian thuê 50 năm, giá thuê 8.400 đồng/m2/năm. Khu đất có diện tích 79.419,4m2 theo hợp đồng thuê đất, Công ty không có nợ tiền thuê đất mặc dù dự án chưa được xây dựng đưa vào kinh doanh. Theo Cục thuế cho rằng Công ty còn nợ tiền thuê đất 4.479.589.157 đồng là do phát sinh việc điều chỉnh giá đất tăng theo Thông báo số 4304-6/TB-CCT ngày 28/11/2017. Thông báo điều chỉnh giá đơn phương chưa có Phụ lục hợp đồng thuê đất về điều chỉnh giá. Trong khi Công ty có Văn bản số 176/CV-GTT ngày 2/7/2014 về việc ký phụ kiện hợp đồng thuê đất số 742/HĐTĐ dự án Resort T. Nội dung văn bản nêu trên Công ty phản ánh giá thuê đất tăng quá cao, gấp hơn 10 lần so với giá Hợp đồng số 742 nên đề nghị điều chỉnh giảm cho phù hợp tỉnh hình thực tế kinh doanh, phù hợp với điều kiện kinh tế – xã hội. Văn bản của Công ty không được Sở Tài nguyên và Môi trường phúc đáp, trả lời, Cục thuế tự đơn phương điều chỉnh không có sự thỏa thuận, chấp thuận của Công ty. Như vậy, Công ty không vi phạm nghĩa vụ tài chính trong thời gian thuê đất. Việc Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 399/QĐ- UBND ngày 28/2/2017 về việc thu hồi một phần diện tích đất dự án Khu Resort T; UBND thành phố T ban hành Quyết định số 2280/QĐ-UBND ngày 28/5/2018 về việc cưỡng chế thu hồi đất là không đúng quy định pháp luật. Vì vậy, Công ty khởi kiện chỉ yêu cầu Tòa án: – Hủy Quyết định số 399/QĐ-UBND ngày 28/02/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên “Về việc thu hồi một phần diện tích dự án Khu Resort T của Công ty Cổ phần T và giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý”; Thông báo số 168/TB-UBND ngày 20/3/2017 của UBND tỉnh Phú Yên “V/v Điều chỉnh nội dung đầu tư dự án Khu Resort T”; Quyết định số 722/QĐ-UBND ngày 17/5/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên “V/v giải quyết đơn khiếu nại (lần 2) của Công ty Cổ phần T”. Hủy Quyết định số 2280/QĐ-UBND ngày 28/5/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T về việc cưỡng chế thu hồi đất; Hủy Quyết định số 5023/QĐ-UBND ngày 07/11/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T, tỉnh Phú Yên “V/v Giải quyết đơn khiếu nại của bà Võ Thị T, địa chỉ: thành phố T (lần đầu)” để Công ty được tiếp tục triển khai thực hiện dự án Khu Resort T. Vì hiện nay Công ty đã tìm có đối tác để hợp tác đầu tư dự án khu Resort T. – Buộc Chủ tịch UBND thành phố T bồi thường cho Công ty Cổ phần T các hạng mục theo Chứng thư thẩm định giá số: CT 601/20/TĐ ngày 19/10/2020 của Công ty Cổ phần Thẩm định – Giám định C, số tiền 8.626.844.000 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần T, về việc: – Hủy Quyết định số 399/QĐ-UBND ngày 28/02/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên “Về việc thu hồi một phần diện tích dự án Khu Resort T của Công ty Cổ phần T và giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý”; Thông báo số 168/TB-UBND ngày 20/3/2017 của UBND tỉnh Phú Yên “V/v Điều chỉnh nội dung đầu tư dự án Khu Resort T”; Quyết định số 722/QĐ-UBND ngày 17/5/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên “V/v giải quyết đơn khiếu nại (lần 2) của Công ty Cổ phần T”. Hủy Quyết định số 2280/QĐ-UBND ngày 28/5/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T về việc cưỡng chế thu hồi đất; Hủy Quyết định số 5023/QĐ-UBND ngày 07/11/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T, tỉnh Phú Yên “V/v Giải quyết đơn khiếu nại của bà Võ Thị T, địa chỉ: thành phố T (lần đầu)” để Công ty được tiếp tục triển khai thực hiện dự án Khu Resort T. Vì hiện nay Công ty đã tìm có đối tác để hợp tác đầu tư dự án khu Resort T. – Buộc Chủ tịch UBND thành phố T bồi thường cho Công ty Cổ phần T các hạng mục theo Chứng thư thẩm định giá số: CT 601/20/TĐ ngày 19/10/2020 của Công ty Cổ phần Thẩm định – Giám định C, số tiền 8.626.844.000 đồng. Trong hạn luật định Công ty Cổ phần T kháng cáo toàn bộ bản án. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Xét thấy: Ngày 12/07/2010, Công ty T được ký Hợp đồng thuê đất với UBND tỉnh Phú Yên thuê diện tích 93.108,70 m2 đất để thực hiện Dự án khu Resort T. Hợp đồng thuê có thời hạn đến ngày 26/05/2058. Từ khi nhận đất, Công ty đã đầu tư rất nhiều hạng mục trên đất. Ngoài ra, công ty đã đầu tư nhiều hạng mục như các cơ sở hạ tầng, đường giao thông, cảnh quan môi trường phục vụ cho việc triển khai dự án. Những hồ sơ liên quan đến công việc đã và đang triển khai thực hiện, dự án Công ty đã xuất trình có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Công ty T đã triển khai thực hiện dự án, đầu tư trên đất được thuê, trong thời hạn thuê đất theo nội dung hợp đồng đã ký kết vẫn còn. Công ty T chậm tiếp tục thực hiện tiến độ đầu tư không phải do lỗi chủ quan mà là do khách quan xuất phát từ sự thiếu khung pháp lý đối với nội dung kinh doanh mới thuộc dự án đầu tư của Công ty nên phải bị động chờ đợi hướng dẫn về các quy định, cơ sở pháp lý của các cơ quan có thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm các đại diện theo ủy quyền của các Sở, Ban, Ngành thuộc UBND tỉnh Phú Yên và tại phiên tòa sơ thẩm đại diện: Sở Tài nguyên và Môi trường, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Xây dựng đều xác định không có căn cứ thu hồi một phần dự án (các bút lục 1514,1515,1516). Như vậy, Quyết định thu hồi một phần dự án hoàn toàn không được quy định tại Điều 64 của Luật Đất đai cũng như bất cứ điều nào trong Luật Đất đai. Công ty T cũng được hưởng các chính sách đầu tư theo quy định hiện hành. Việc UBND tỉnh Phú Yên ban hành Quyết định số 399/QB- UBND thu hồi một phần dự án khi không có luật điều chỉnh là không đúng với quy định pháp luật, do đó Đơn khởi kiện và Đơn kháng cáo của Công ty T là có căn cứ được chấp nhận. Đối với yêu cầu buộc Chủ tịch UBND thành phố T bồi thường cho công ty Cổ phần T các hạng mục theo Chứng thư thẩm định giá số: CT 601/20/TĐ ngày 19/10/2020 của Công ty Cổ phần Thẩm định – Giám định C, số tiền 8.626.844.000 đồng. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, đại diện Công ty Cổ phần T chấp nhận và tự nguyện không yêu cầu buộc phía người bị kiện bồi thường khoản tiền trên. Xét thấy sự tự nguyện của đương sự là phù hợp với quy định của pháp luật và không làm ảnh hưởng tới ngân sách của địa phương nên được Hội đồng xét xử chấp nhận Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty Cổ phần T. – Hủy Quyết định số 399/QĐ-UBND ngày 28/02/2017 của Ủy ban nhân dân tỉnh Phú Yên “Về việc thu hồi một phần diện tích dự án Khu Resort T của Công ty Cổ phần T và giao cho Trung tâm phát triển quỹ đất thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường quản lý”; Thông báo số 168/TB-UBND ngày 20/3/2017 của UBND tỉnh Phú Yên “V/v Điều chỉnh nội dung đầu tư dự án Khu Resort T”; Quyết định số 722/QĐ-UBND ngày 17/5/2019 của Chủ tịch UBND tỉnh Phú Yên “V/v giải quyết đơn khiếu nại (lần 2) của Công ty Cổ phần T”. Hủy Quyết định số 2280/QĐ-UBND ngày 28/5/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T về việc cưỡng chế thu hồi đất; Hủy Quyết định số 5023/QĐ-UBND ngày 07/11/2018 của Chủ tịch UBND thành phố T, tỉnh Phú Yên “V/v Giải quyết đơn khiếu nại của bà Võ Thị T, địa chỉ: 03 Hải Dương, xã Bình Ngọc, thành phố T (lần đầu)” để Công ty được tiếp tục triển khai thực hiện dự án Khu Resort T. Vì hiện nay Công ty đã tìm có đối tác để hợp tác đầu tư dự án khu Resort T. Ghi nhận sự tự nguyện của Công ty Cổ phần T: Không buộc Chủ tịch UBND thành phố T bồi thường cho Công ty Cổ phần T các hạng mục theo Chứng thư thẩm định giá số: CT 601/20/TĐ ngày 19/10/2020 của Công ty Cổ phần Thẩm định – Giám định C, số tiền 8.626.844.000 đồng (Tám tỷ, sáu trăm hai mươi sáu triệu, tám trăm bốn mươi bốn nghìn). |
18 |
|
Bản án số 91/2021/HC-PT ngày 30 tháng 3 năm 2021 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý nhà nước về đầu tư” Tóm tắt nội dung vụ án Công ty TNHH HH ( gọi tắt là Công ty HH) được UBND tỉnh Thái Nguyên cấp giấy chứng nhận đầu tư số 17121000036 cho Công ty HH thực hiện dự án trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH trên khu đất tại tổ 23, phường TV, thành phố TN, tỉnh Thái nguyên vào ngày 04/6/2012 trên khu đất tại tổ 23, phường TV, thành phố TN, tỉnh Thái nguyên. Ngày 22/8/2013, UBND tỉnh Thái Nguyên điều chỉnh nội dung Giấy chứng nhận đầu tư lần thứ nhất về tiến độ thực hiện Dự án: Khởi công xây dựng tháng 10/2013, hoàn thành đi vào hoạt động tháng 10/2016. Lý do điều chỉnh: Nhà đầu tư vẫn chưa được bàn giao đất thực hiện dự án. Ngày 30/08/2013, UBND tỉnh Thái Nguyên ra Quyết định số 1699/QĐ- UBND về việc thu hồi 1.312,6 m2 đất tại phường TV, thành phố TN giao cho Công ty HH thuê diện tích 1.228,0m2/1312,6 m2 để thực hiện dự án theo thời gian điều chỉnh Giấy chứng nhận đầu tư ngày 28/09/2013, thời hạn thuê đất 50 năm. Diện tích 84,6 m2 còn lại giao cho UBND thành phố TN quản lý theo quy hoạch. Trên cơ sở các thủ tục pháp lý trên, Công ty HH đã hoàn tất các thủ tục bồi thường giao nhận toàn bộ mặt bằng 1.228m2 đất. Ngày 19/02/2014, UBND tỉnh Thái Nguyên ra Văn bản số 282/UBND-TH về việc giải phóng mặt bằng cửa hàng xe máy Honda để giao diện tích 240 m2 cho công ty HH để khởi công xây dựng. Ngày 10/3/2014, UBND tỉnh Thái Nguyên ban hành Văn bản số 451/UBND-TH về việc dừng thực hiện giải phóng mặt bằng cửa hàng xe máy Honda theo Văn bản 282/UBND-TH để chờ ý kiến của Thường trực Tỉnh ủy theo Thông báo số 984-TB/TU ngày 27/9/2013 và yêu cầu giữ nguyên hiện trạng diện tích đất dự án vì lý do an ninh chính trị như đồng chí Giám đốc Công an tỉnh báo cáo (Công ty không được biết Thông báo số 984-TB/TU). Ngày 04/8/2017, UBND tỉnh Thái Nguyên có Thông báo số 136/TB- UBND về Kết luận của Chủ tịch UBND tỉnh ông Vũ Hồng Bắc tại buổi làm việc với các ngành về phương án giải quyết dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH. Theo đó, UBND tỉnh thống nhất thực hiện các thủ tục, quy trình thu hồi dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH của Công ty HH theo đề xuất của Sở Kế hoạch và Đầu tư tại văn bản số 1814/SKHĐT-ĐKKD ngày 04/08/2017. Ngày 11/8/2017, UBND tỉnh Thái Nguyên ra Quyết định số 2409/QĐ- UBND về thu hồi và chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đầu tư số 1712000036 cấp ngày 04/06/2012, điều chỉnh lần 01 ngày 22/8/2013 đã cấp cho Công ty HH thực hiện dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH, với lý do: Dự án không còn phù hợp. ông ty HH khởi kiện yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Thái Nguyên hủy Quyết định số 2409/QĐ-UBND ngày 11/8/2017 của UBND tỉnh Thái Nguyên về thu hồi và chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đầu tư số 1712000036 cấp ngày 04/06/2012, điều chỉnh lần 01 ngày 22/8/2013 đã cấp cho Công ty HH thực hiện dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH. Đề nghị xem xét những thiệt hại của công ty HH trong thời gian không khởi công từ tháng 10/2013 đến khi xét xử sơ thẩm, bao gồm: Chi phí hình thành dự án; Chi phí xây dựng; chi phí giải phóng mặt bằng và các chi phí khác với tổng số tiền là: 32.988.867.193 đồng. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH HH đề nghị hủy Quyết định số 2409/QĐ-UBND ngày11/8/2017 của UBND tỉnh Thái Nguyên về thu hồi và chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đầu tư số 1712000036 cấp ngày 04/06/2012, điều chỉnh lần 01 ngày 22/8/2013 đã cấp cho Công ty TNHH HH thực hiện dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH. Tách yêu cầu bồi thường thiệt hại của Công ty TNHH HH để giải quyết sau bằng một vụ án dân sự khác theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự. Sau khi xét xử sơ thẩm, Công ty TNHH HH có đơn kháng cáo yêu cầu sửa toàn bộ bản án sơ thẩm và chấp nhận yêu cầu khởi kiện của công ty về việc tuyên hủy Quyết định số 2409/QĐ-UBND ngày 11/8/2017 của UBND tỉnh Thái nguyên về việc thu hồi và chấm dứt hiệu lực giấy chứng nhận đầu tư số 17121000036 cấp ngày 04/6/2012, điều chỉnh lần 1 ngày 22/8/2013 đã cấp cho công ty HH và buộc UBND tỉnh Thái nguyên bồi thường thiệt hại cho Công ty HH số tiền 32.998.867.193 đồng với lý do: Ủy ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên thu hồi dự án của Công ty HH với lý do an ninh chính trị là không có căn cứ, làm ảnh hưởng đến uy tín của Công ty. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Sau khi cấp giấy chứng nhận đầu tư thực hiện dự án cho Công ty HH, Thủ tướng chính phủ đã có Quyết định số 2486/QĐ- TTg ngày 20/12/2016 về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố TN đến năm 2035. Trong đó có nêu: “Phát triển thêm một số tuyến đường chính đô thị, chính khu vực, đường kết hợp với đê sông C để tạo kết nối liên thông hoàn chỉnh mạng lưới giao thông thành phố” nên việc đầu tư mở rộng các tuyến đường hai bên bờ sông C là phù hợp quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mặt khác, theo Đề án xây dựng cấp bách hệ thống lũ lụt sông C kết hợp với hoàn thiện hạ tầng đô thị hai bên sông C đã được UBND tỉnh Thái Nguyên phê duyệt thì Dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH không còn phù hợp với quy hoạch của thành phố TN đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt là: “Giữ nguyên hiện trạng sử dụng đất đối với các khu dân cư hiện có, đã hình thành ổn định theo quy hoạch chi tiết phê duyệt trước năm 2005, tiến hành chỉnh trang, nâng cấp hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội…Phát triển thêm một số tuyến đường chính đô thị, chính khu vực, đường kết hợp với đê sông C để tạo kết nối liên thông hoàn chỉnh mạng lưới giao thông thành phố”. Vì vậy, ngày 11/8/2017, UBND tỉnh đã ban hành Quyết định số 2409/QĐ- UBND về thu hồi và chấm dứt hiệu lực Giấy chứng nhận đầu tư số 17121000036 cấp ngày 04/6/2012, điều chỉnh lần 01 ngày 22/8/2013 đã cấp cho Công ty HH thực hiện Dự án Trung tâm thương mại, dịch vụ, khách sạn HH với lý do “ Dự án không còn phù hợp với quy hoạch theo Quyết định số 2486/QĐ- TTg về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chung thành phố TN, tỉnh Thái Nguyên đến năm 2035. Đề án xây dựng cấp bách hệ thống lũ lụt sông C kết hợp với hoàn thiện hạ tầng đô thị hai bên sông C theo ý kiến chỉ đạo của Thường trực tỉnh ủy tại các Thông báo số 984/TB-TU ngày 27/9/2013, số 767/CV/TU ngày 28/4/2014, số 1964/TB/TU ngày 28/8/2015, số 2116/TB/TU ngày 23/10/2015” là có căn cứ, phù hợp quy định tại điểm đ, khoản 1 Điều 48 của Luật đầu tư. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của Công ty HH về việc hủy Quyết định 2409/QĐ-UBND ngày 11/8/2017 của UBND tỉnh Thái Nguyên là phù hợp quy định của pháp luật. Kháng cáo của Công ty HH không đồng tình lý do thu hồi dự án vì “an ninh chính trị” được nêu trong quyết định thu hồi và chấm dứt hiệu lực giấy chứng nhận đầu tư dự án đã cấp cho công ty HH thì công ty có quyền đề nghị UBND tỉnh và Tỉnh ủy Thái nguyên giải thích và làm rõ. Đối với việc tách việc giải quyết về yêu cầu bồi thường thiệt hại ( kể cả thiệt hại trực tiếp và gián tiếp) của Công ty TNHH HH bằng một vụ án dân sự khác (nếu có tranh chấp) là có căn cứ, phù hợp quy định của pháp luật về tố tụng dân sự và đảm bảo quyền lợi chính đáng của công ty HH. Theo đó, kháng cáo của Công ty HH là không có cơ sở chấp nhận. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận toàn bộ kháng cáo của Công ty TNHH HH và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 18/2019/HC-ST ngày 26/11/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái nguyên. |
39 |
|
Bản án số 01/2019/HC-PT ngày 08 tháng 01 năm 2019 của Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội
Về việc: “Khiếu kiện quyết định quản lý về đầu tư” Tóm tắt nội dung vụ án Công ty TNHH liên doanh V được cấp giấy chứng nhận kinh doanh theo quy định pháp luật với ngành nghề: Đúc sắt, thép;chi tiết: Mua bán, đức nấu luyện, cán , kéo thép, phôi thép, các sản phẩm thép. Vào ngày 26/7/20005,Chủ tịch UBND tỉnh B chấp thuận đầu tư xây dựng “Nhà máy cơ khí và mạ kẽm nhúng nóng” tại Khu công nghiệp Đ, tỉnh B theo công văn số 1073/CT-CN. Ngày 23/11/2005, Trưởng ban quản lý các KCN tỉnh B ban hành Quyết định số 59/QĐ-KCN chấp thuận đầu tư bổ sung cho Công ty V đầu tư bổ sung dây chuyền luyện, cán thép tại nhà máy cơ khí và mạ kẽm nhúng nóng của Công ty V trong khu công nghiệp, theo các nội dung: Đổi tên dự án: “Nhà máy cơ khí và mạ kẽm nhúng nóng” thành “Nhà máy cơ khí luyện, cán thép mạ kẽm nhúng nóng”. Ngày 27/3/2006, Công ty V được Chủ tịch UBND tỉnh B cấp Giấy chứng nhận ưu đãi đầu tư số 512/GCN-UBND. Sau một thời gian hoạt động, Công ty V đã tìm đối tác liên doanh nhằm tránh phá sản là Công ty cổ phần may xuất khẩu G (sau đây viết tắt là Công ty G) để cùng liên doanh sản xuất bao bì carton và kho nguyên liệu phụ để phục vụ cho ngành may. Ngày 26/01/2015, Công ty G đã có đơn gửi Chủ tịch UBND tỉnh B và Ban quản lý các KCN tỉnh B nhưng không được chấp thuận bởi Công văn số 506/KCN-ĐT ngày 28/7/2015 của Ban quản lý các KCN. Ngày 03/8/2015, Trưởng Ban quản lý các KCN tỉnh B ban hành Quyết định số 43/QĐ-KCN về việc chấm dứt hoạt động dự án đầu tư của Công ty V và Quyết định số 44/QĐ-KCN về việc thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của Công ty V. Ngày 22/4/2016, Trưởng ban quản lý các KCN tỉnh B cấp Giấy chứng nhận đầu tư mã số dự án 9835384345 cho Công ty F tại các lô C12, C13, C14 khu công nghiệp Đ, xã Hoàng N, huyện Y, tỉnh B mà trước đó đã cấp cho Công ty V. Ngày 01/7/2016, Công ty trách nhiệm hữu hạn liên doanh V khởi kiện, sau đó khởi kiện bổ sung đề nghị Tòa án nhân dân tỉnh B: Hủy Quyết định số 43/QĐ-KCN về việc chấm dứt hoạt động dự án đầu tư của Công ty V và Quyết định số 44/QĐ-KCN về việc thu hồi Giấy chứng nhận đầu tư của Công ty V. Trả lại địa vị pháp lý cho Công ty V. Bồi thường thiệt hại cho Công ty V theo quy định của pháp luật. Hủy Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mã số 9835384345 đã cấp cho Công ty F. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH Liên doanh V (do ông Nguyễn Kiêm T – đại diện theo pháp luật, ông Nguyễn Thành K đại diện theo ủy quyền) về việc yêu cầu Tòa án: Hủy bỏ các Quyết định số 43/QĐ-KCN và Quyết định số 44/QĐ-KCN ngày 03/8/2015 của Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh B; trả lại địa vị pháp lý cho Công ty TNHH liên doanh V; Hủy Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mã số 9835384345 đã cấp cho Công ty TNHH F Việt Nam. Đình chỉ yêu cầu Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh B phải bồi thường thiệt hại cho Công ty TNHH Liên doanh V theo quy định pháp luật của người khởi kiện. Ngày 11/10/2017, ông Nguyễn Kiêm T – người đại diện pháp luật của Công ty V có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Đã quá thời hạn hoàn thành nhiều năm, Công ty V không có khả năng thực hiện tiến độ đăng ký với cơ quan đăng ký đầu tư, vi phạm quy định của pháp luật về đầu tư; không thực hiện theo Kết luận thanh tra và không khắc phục để đưa dự án vào hoạt động. Do đó, Quyết định số 43/QĐ-KCN ngày 03/8/2015 chấm dứt hoạt động dự án đầu tư là có căn cứ theo quy định tại Điều 48 Luật đầu tư năm 2014. Dự án đầu tư chấm dứt thì giấy chứng nhận đăng ký đầu tư phải được thu hồi nên Quyết định số 44/QĐ-KCN ngày 03/8/2015 thu hồi giấy chứng nhận đầu tư của Công ty V là đúng theo quy định tại Điều 41 Luật đầu tư năm 2014. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty V hủy Quyết định số 43/QĐ-KCN; Quyết định số 44/QĐ-KCN và trả lại địa vị pháp lý cho Công ty V là có căn cứ. Các vấn đề liên quan đến bồi thường (bao gồm cả tài sản trên đất), Công ty V đã tự nguyện rút yêu cầu khởi kiện, không đề nghị giải quyết trong cùng vụ án này, nếu chứng minh được thiệt hại thì Công ty V có quyền khởi kiện vụ án khác. Do vậy, việc Ban quản lý KCN cấp giấy chứng nhận đầu tư cho Công ty F không làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Công ty V (nếu có); các thủ tục thu hồi đất, thu hồi giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của Công ty V đang được Công ty hạ tầng tiếp tục thực hiện theo thẩm quyền và kiến nghị cơ quan có thẩm quyền thực hiện. Do đó, không có cơ sở chấp nhận kháng cáo của Công ty V đề nghị hủy Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư mã số dự án 9835384345 đã cấp cho Công ty F. heo qui định tại Điều 190 Luật Tố tụng hành chính năm 2015 thì Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án. Công ty V kháng cáo cho rằng đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh B vi phạm nghiêm trọng điều 160 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 là không có cơ sở. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Bác kháng cáo của người khởi kiện – Công ty trách nhiệm hữu hạn liên doanh V; giữ nguyên quyết định của Bản án hành chính sơ thẩm số 14/2017/HC-ST ngày 03 tháng 10 năm 2017 của Tòa án nhân dân tỉnh B. |
49 |
|
Bản án số 230/2020/HC-PT ngày 26 tháng 6 năm 2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh
Về việc: “Khiếu kiện quyết định chấm dứt hoạt động dự án đầu tư” Tóm tắt nội dung vụ án Công ty TNHH H được UBND tỉnh Bến Tre chấp thuận dự án nhà máy điện gió số 1. Tuy nhiên trong thời gian hoạt động và thực hiện dự án thì Công ty H chưa đảm bảo được tiến độ thực hiện dự án. Do đó Sở Kế hoạch đầu tư tỉnh Bến Tre đã ra quyết định số 126/QĐ-SKHĐT ngày 04/10/2018 về việc chấm dứt hoạt động của dự án đầu tư đối với Công ty TNHH H. Không đồng ý với Quyết định trên, Công ty TNHH H đã khởi kiện yêu cầu huỷ quyết định số 126/QĐ-SKĐT ngày 04/10/2018. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Bác yêu cầu khởi kiện của Công ty trách nhiệm hữu hạn H, về việc yêu cầu hủy Quyết định số 126/QĐ-SKHĐT ngày 04/10/2018 của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bến Tre. Ngày 25 tháng 10 năm 2019, Công ty TNHH H kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Công ty đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa bản án sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Công ty. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Tại Điều 8 của Quyết định số 935/QĐ-UBND và Quyết định số 2975/QĐ- UBND quy định rõ tiến độ thực hiện dự án từ quý III/2016 đến quý IV/2019, trong đó cuối quý IV/2017 (tức cuối tháng 12/2017) phải hoàn thành giai đoạn 1 và cuối quý I/2018 (tức cuối tháng 3/2018) phải triển khai giai đoạn 2 của dự án. Trên thực tế, tính đến ngày 04/10/2018 – ngày ban hành Quyết định số 126/QĐ- SKHĐT, Công ty chỉ mới thực hiện việc xây dựng tháp đo gió, có văn bản gửi EVN về việc đấu nối lưới điện khi hoàn thành dự án. Điều này chứng minh Công ty không có năng lực, vi phạm tiến độ thực hiện dự án theo quy định tại Điều 8 Quyết định số 935/QĐ-UBND và Quyết định số 2975/QĐ-UBND. Phía Công ty cho rằng có văn bản gửi Sở KH-ĐT xin giãn tiến độ thực hiện dự án nhưng Sở KH-ĐT không nhận là không có căn cứ để chấp nhận, vì Công ty không xuất trình được chứng cứ để chứng minh. Do đó, Sở KH-ĐT ban hành Quyết định số 126/QĐ-SKHĐT là có căn cứ theo quy định tại các điểm d, đ, e, g và h khoản 1 Điều 48 Luật Đầu tư năm 2014. Từ những phân tích nêu trên, xét thấy bản án sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu của Công ty là có căn cứ, đúng pháp luật. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty TNHH H. Giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 36/2019/HC-ST ngày 15 tháng 10 năm 2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre. |
63 |
|
Bản án số 30/2019/HC-ST ngày 12 tháng 9 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Bắc Giang
Về việc: “Khiếu kiện quyết định hành chính” Tóm tắt nội dung vụ án Doanh nghiệp tư nhân HL (viết tắt là Doanh nghiệp tư nhân HL) do Bà Nguyễn Thị L chủ doanh nghiệp là giám đốc được Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Giang cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh lần đầu ngày 01/4/2003, đăng ký thay đổi lần thứ 8 ngày 26/10/2010. Ngày 21/12/2004, tại Công văn số 2223/CV-CT, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Bắc Giang chấp thuận cho Doanh nghiệp tư nhân HL đầu tư dự án: “Khu dịch vụ thương mại- Ẩm thực, văn hóa thể thao và vui chơi giải trí”. Quá trình doanh nghiệp đang thực hiện dự án, ngày 17/2/2006 UBND thành phố H ban hành Quyết định số 21/QĐ-UBND “Điều chỉnh quy hoạch chi tiết Công viên trung tâm”. Đất doanh nghiệp được chấp thuận đầu tư, đã giải phóng mặt bằng từ chỗ là đất tại “Quy hoạch chi tiết tiểu khu dân cư quanh Công viên thị xã BG” bị điều chỉnh trở thành đất tại “Quy hoạch chi tiết Công viên trung tâm thành phố H”. Tức là đất dự án của Doanh nghiệp tư nhân HL ngoài công viên bị đưa vào thành đất công viên trung tâm thành phố H. Tháng 2 năm 2008 Doanh nghiệp tư nhân HL có văn bản xin điều chỉnh dự án đầu tư từ đất ngoài công viên thành đầu tư đất thuộc công viên (mặc dù vẫn trên diện tích đất doanh nghiệp đã đền bù giải phóng mặt bằng, được chấp thuận là đầu tư trên đất khu dân cư trước đây) và xin cấp giấy chứng nhận dầu tư theo quy định của Luật đầu tư năm 2005. Ngày 04/02/2008, UBND tỉnh Bắc Giang cấp cho Doanh nghiệp tư nhân HL giấy chứng nhận đầu tư số: 20121000088. Ngày 19/8/2008, UBND tỉnh Bắc Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng cho Doanh nghiệp tư nhân HL với diện tích đất sử dụng: 29.289,3 m² theo Quyết định số:1351/QĐ-UBND ngày 19/8/2008 của UBND tỉnh Bắc Giang. Do không thể tiếp tục thực hiện dự án vì Quyết định số: 21/QĐ-UBND ngày 17/02/2006 của UBND thành phố H điều chỉnh quy hoạch nên Doanh nghiệp khiếu nại quyết định này tới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, đề nghị điều chỉnh Quyết định 21 nêu trên cho phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp theo quy định của pháp luật. Ngày 01/9/2009, Sở kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang cấp giấy chứng nhận đầu tư điều chỉnh cho Doanh nghiệp. Tháng 9/2010, Doanh nghiệp nộp lại hồ sơ xin cấp phép xây dựng tại Sở xây dựng tỉnh Bắc Giang. Ngày 05/10/2010, Sở Xây dựng tỉnh Bắc Giang trả lời không cấp giấy phép xây dựng cho Doanh nghiệp vì “Dự án của Doanh nghiệp nằm trong khu vực Hội đồng nhân dân tỉnh Bắc Giang đang kiểm tra, do vậy tạm thời chưa có kết quả”. Không được thực hiện dự án theo giấy chứng nhận đầu tư Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang cấp ngày 01/9/2009 nên ngày 22/11/2010, Doanh nghiệp đã gửi văn bản số 46/CV-HL đề ngày 16/11/2010 xin gia hạn tiến độ thực hiện dự án tới Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Bắc Giang. Doanh nghiệp đã nhiều lần gửi công văn xin gia hạn dự án, nhưng không được xem xét giải quyết. Doanh nghiệp đã có đơn khiếu nại gửi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng không được giải quyết thoả đáng, không đúng theo quy định pháp luật. Ngày 25/6/2014, UBND tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 379/QĐ- UBND Về việc chấm dứt hoạt động dự án “Khu dịch vụ thương mại-Ẩm thực-Văn hóa thể thao và vui chơi giải trí của Doanh nghiệp tư nhân HL”. Lý do chấm dứt hoạt động của dự án: Doanh nghiệp tư nhân HL không triển khai dự án; vi phạm quy định tại điểm a, khoản 2 Điều 68 Nghị định 108/2006/NĐ-CP ngày 22/9/2006 của Chính phủ. Ngày 25/7/2014, UBND tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 472/QĐ- UBND “Về việc: Thu hồi giấy chứng nhận đầu tư dự án: Khu dịch vụ thương mại- Ẩm thực-Văn hóa thể thao và vui chơi giải trí của Doanh nghiệp tư nhân HL”. Với lý do: “Kể từ khi được cấp Giấy chứng nhận dầu tư đến nay đã quá 12 tháng nhưng Doanh nghiệp tư nhân HL không triển khai dự án, vi phạm khoản 2 Điều 64 Luật Đầu tư”. Ngày 19/8/2014, doanh nghiệp đã khiếu nại các quyết định trên, yêu cầu UBND tỉnh Bắc Giang huỷ bỏ các quyết định trên. Tuy nhiên chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang khôn chấp nhận khiếu nại của doanh nghiệp và giữ nguyên các quyết định trên. Tiếp theo đó, ngày 02/12/2014, UBND tỉnh Bắc Giang ra quyết định số 808/QĐ-UBND “Về việc thu hồi 29.289.3m2 đất đã cho Doanh nghiệp tư nhân HL thuê tại Công viên HHT, thành phố H”. Quyết định này được ban hành hoàn toàn trái quy định pháp luật, thể hiện sự chèn ép, bức bách Doanh nghiệp của UBND tỉnh Bắc Giang. gày 23/12/2014, Doanh nghiệp tư nhân HL khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 379/QĐ-UBND ngày 25/6/2014 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc: “Chấm dứt hoạt động dự án Khu dịch vụ thương mại-Ẩm thực-Văn hóa thể thao và vui chơi giải trí” của Doanh nghiệp tư nhân HL; Quyết định số 472/QĐ-UBND ngày 25/7/2014 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc “Thu hồi giấy chứng nhận đầu tư dự án: Khu dịch vụ thương mại-Ẩm thực- Văn hóa thể thao và vui chơi giải trí” của Doanh nghiệp tư nhân HL; Quyết định số 808/QĐ-UBND ngày 02/12/2014 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc “Thu hồi 29.289,3 m² đất đã cho Doanh nghiệp tư nhân HL thuê tại Công viên HHT, thành phố H; Quyết định số 1658/QĐ-UBND ngày 22/10/2014 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang về việc giải quyết đơn khiếu nại của Bà Nguyễn Thị L – giám đốc Doanh nghiệp tư nhân HL; Quyết định số 3425/QĐ-UBND ngày 18/11/2011 của UBND thành phố H về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch chi tiết (tỷ lệ 1/500) Công viên HHT, thành phố H. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Căn cứ tài liệu có trong hồ sơ vụ án, lời khai của đương sự, căn cứ quy định của pháp luật, Hội đồng xét xử xác định Quyết định 379 và Quyết định 472 được ban hành không đúng quy định của pháp luật. Việc khiếu nại của Bà Nguyễn Thị L chủ Doanh nghiệp tư nhân HL đối với Quyết định 379 và Quyết định 472 của UBND tỉnh Bắc Giang là có căn cứ. Do vậy, Quyết định số 1658 của Chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang không chấp nhận khiếu nại của Bà Nguyễn Thị L, giữ nguyên Quyết định số 379 và quyết định số 472 là không đúng quy định pháp luật, ảnh hưởng tới quyền lợi ích hợp pháp của Doanh nghiệp tư nhân HL do Bà Nguyễn Thị L chủ doanh nghiệp là giám đốc. Căn cứ điểm b khoản 2 Điều 193 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Doanh nghiệp tư nhân HL do Bà Nguyễn Thị L là chủ doanh nghiệp đại diện, hủy Quyết định số 1658/QĐ-UBND ngày 22/10/2014 của chủ tịch UBND tỉnh Bắc Giang về việc giải quyết đơn khiếu nại của Bà Nguyễn Thị L – Chủ Doanh nghiệp tư nhân HL. Như vậy, trong trường hợp này kể cả việc Doanh nghiệp tư nhân HL “không đưa đất vào sử dụng hoặc chậm đưa đất vào sử dụng” vi phạm quy định tại điểm i khoản 1 Điều 64 Luật đất đai, thì Doanh nghiệp tư nhân HL vẫn được gia hạn sử dụng đất với thời gian 24 tháng (mà không bị thu hồi đất), thời hạn gia hạn tính từ ngày 01/7/2014. Do vậy, việc UBND tỉnh Bắc Giang ban hành Quyết định số 808/QĐ – UBND ngày 02/12/2014 thu hồi đất của Doanh nghiệp tư nhân HL và hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AM 934284 đã cấp cho Doanh nghiệp tư nhân HL tại Quyết định số 1351/QĐ-UBND ngày 19/8/2008 của Chủ tịch UBND tỉnh là không đúng quy định pháp luật, ảnh hưởng tới quyền sử dụng đất hợp pháp của Doanh nghiệp tư nhân HL. Căn cứ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 193 Luật tố tụng hành chính, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Doanh nghiệp tư nhân HL do Bà Nguyễn Thị L chủ doanh nghiệp đại diện, hủy số Quyết định số 808/QĐ-UBND ngày 02/12/2014 của UBND tỉnh Bắc Giang về việc thu hồi 29.289,3 m² đất UBND tỉnh Bắc Giang đã cho Doanh nghiệp tư nhân HL thuê tại Công viên HHT, thành phố H. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Doanh nghiệp tư nhân HL do Bà Nguyễn Thị L chủ doanh nghiệp đại diện |
70 |
|
Bản án số 102/2021/HC-PT ngày 16 tháng 3 năm 2021 Toà án án nhân dân cấp cao tại TP.HCM
Về việc: “ Khiếu kiện quyết định hành chính Tóm tắt nội dung vụ án Ông Vũ Xuân D nguyên là cổ đông sở hữu 10.998 cổ phần phổ thông,tương đương 109.980.000 đồng vốn điều lệ của Công ty Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu (Mã số doanh nghiệp: 3500774367; đăng ký lần đầu 26/12/2006). Ngày 29/6/2018, ông D ký 03 Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần tại Công ty Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu cho các cá nhân sau: Ông Vũ Xuân H (100 cổ phần), bà Vũ Hạnh L (9.000 cổ phần), bà Lê Hồng X (100 cổ phần). Các Hợp đồng chuyển nhượng cổ phần này đều được Văn phòng công chứng Vượng Phát, thành phố Hà Nội công chứng, với các số công chứng 0567.2018/HĐCN, 0568.2018/HĐCN, 0569.2018/HĐCN; Quyển số: 02/TP/CCSCC/HÐGD. Việc chuyển nhượng cổ phần của ông D cho ông H, bà L, bà X là hoàn toàn hợp pháp, phù hợp với quy định tại khoản 1, 2 Điều 126 Luật Doanh nghiệp, hợp đồng đã được công chứng. Đến ngày 07/8/2018, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh BR-VT cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cho Công ty TNHH Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu (chuyển đổi từ Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu). Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp này được cấp dựa trên cơ sở biên bản họp đại hội đồng cổ đông, nghị quyết đại hội đồng cổ đông trái pháp luật, dựa trên hồ sơ do công ty nộp không có chữ ký xác nhận của ông D, hơn nữa ông D cũng có văn bản ngày 05/7/2018 gửi Sở Kế hoạch đầu tư phản đối việc chuyển đổi loại hình doanh nghiệp và đề nghị công ty cấp sổ cổ đông cho các cá nhân nhận chuyển nhượng. Ông D đã 04 lần gửi Đơn khiếu nại đến Giám đốc và Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh BR-VT vào các ngày 31/8/2018; 23/10/2018; 02/01/2019; 20/3/2019 và Tỉnh Ủy, UBND tỉnh BR-VT đề nghị tiến hành xem xét, giải quyết khiếu nại của ông D, trả lời cho ông D bằng văn bản, đến nay đã hết thời hiệu trong thời hạn luật định, phù hợp quy định tại Điều 28, Điều 31 Luật Khiếu nại năm 2011, ông D vẫn chưa nhận được kết quả giải quyết khiếu nại. Ông D khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 3500774367 đăng ký thay đổi lần thứ 13 ngày 07/8/2018 cấp cho Công ty TNHH Nhà máy bia Heineken Việt Nam-Vũng Tàu ( Gọi là Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp số 3500774367) chuyển đổi loại hình từ công ty cổ phần thành công ty TNHH hai thành viên; Buộc Công ty Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam-Vũng Tàu thực hiện cấp sổ cổ đông cho ông H, bà L, bà X. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận toàn bộ khởi kiện của ông Vũ Xuân D yêu cầu hủy Giấy chứng nhận Đăng ký doanh nghiệp Công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; Mã số doanh nghiệp 3500774367 đăng ký thay đổi lần thứ 13 ngày 07/8/2018 cấp cho Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà máy bia Heineken Việt Nam-Vũng Tàu. Không chấp nhận yêu cầu buộc Công ty Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam-Vũng Tàu thực hiện cấp sổ cổ đông cho ông Vũ Xuân H, bà Vũ Hạnh L và bà Lê Hồng X. Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo. Ngày 21/11/2019, người khởi kiện ông Vũ Xuân D kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Cuộc họp Đại hội đồng cổ đông bất thường của Công ty Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu đã được tổ chức và thực hiện đúng theo quy định tại Điều 139, 141 và 142 Luật Doanh nghiệp 2014 và Nghị quyết của Công ty Cổ phần Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu đã được thông qua đúng theo quy định tại các Điều 143, 144 của Luật Doanh nghiệp 2014. Trong Nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông thông qua ngày 29/6/2018, tên Công ty TNHH Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu đã được Đại hội đồng cổ đông thông qua. Công ty TNHH Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu cũng đã có Văn bản đề ngày 06/8/2018 thông báo do sơ suất trong đánh máy thiếu chữ “HEINEKEN” trong giấy đề nghị thành lập Doanh nghiệp, nên đã đính chính và điều chỉnh lại nội dung là “Công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà máy bia Heineken Việt Nam – Vũng Tàu”, như vậy là đảm bảo đúng thủ tục đăng ký. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của người khởi kiện ông Vũ Xuân D; Sửa bản án hành chính sơ thẩm về phần tố tụng. |
119 |
LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 08 bản án về khiếu kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đầu tư
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn