FDVN giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 33/2020/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
TÓM TẮT NỘI DUNG 07 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 33/2020/AL
ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 12/2022/DS-ST ngày 16/2/2022 của Tòa án nhân dân huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau
Nội dung vụ án: Năm 1994 vợ chồng ông M và bà Th được Ban nhân dân ấp 1, xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn (Ngọc Hiển cũ), tỉnh Cà Mau (Minh Hải cũ) cấp cho một nền nhà (cấp theo chỉ đạo chung của Ủy ban nhân dân (UBND) xã Hàng Vịnh) diện tích ngang 4,5m dài 20m, tổng diện tích là 90m2; phần đất tọa lạc tại ấp 1, xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn, tỉnh Cà Mau. Việc cấp đất không có văn bản, nhưng những người cấp đất hiện còn ở địa phương làm nhân chứng. Thời điểm cấp đất vợ chồng ông bà sinh sống ở ấp xóm Lớn Ngoài, xã Hàng Vịnh, huyện Năm Căn. Sau khi được cấp đất do hoàn cảnh khó khăn nên không xây dựng nhà ở nhưng vẫn giữ gìn phần đất. Mấy năm sau phát hiện ông Ch đã lấy phần đất chuyển nhượng cho ông Nguyễn Văn Kh, ông bà có gặp ông Ch hỏi thì ông Ch nói là được cấp, không có sử dụng nên sang cho ông Kh, hiện vợ chồng ông Kh quản lý phần đất. Nay yêu cầu ông Ch trả lại phần đất mà ông Ch đã sang bán trái phép. Tòa sơ thẩm nhận định: Tại phiên tòa, ông V đại diện theo ủy quyền của ông M và bà Th đồng trình bày, năm 1999 ông Kh đến cất nhà thì vợ chồng ông M có ngăn, lúc đó có trưởng ấp chứng kiến, nhưng sau đó thỏa thuận miệng cho ông Kh cất nhà ở hết xác nhà trả lại đất, nhưng nguyên đơn cũng không chứng minh được có thỏa thuận này. Trên thực tế, ông Kh cất nhà ở đến năm 2002 nhà sập, tiếp tục cất lại nhà cũng trên phần đất này phía vợ chồng ông M cũng không phản đối, chứng tỏ ông bà biết được đất này là của vợ chồng ông Kh nhận sang nhượng mà có từ năm 1999 và cất nhà ở từ thời điểm đó đến năm 2008, nhưng vẫn không có ý kiến, đồng thời cũng không ngăn cản hay khởi kiện để đòi lại, không đăng ký kê khai QSD đất. Do đó, áp dụng Án lệ số 33/2020/AL của Tòa án nhân dân tối cao không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện đòi lại quyền sử dụng đất của vợ chồng ông Thái Bình M. Tòa án sơ thẩm tuyên: Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Thái Bình M, bà Huỳnh Thanh Th về việc kiện đòi lại quyền sử dụng đất đối với ông Trần Ngọc Ch. |
1-9 |
|
Bản án số: 05/2022/DS-ST ngày ngày 28/6/2022 của Tòa án nhân dân thị xã P, tỉnh Bình Phước
Nội dung vụ án: Năm 1976 cụ Nguyễn S cùng với các con tự khai phá đất tại Thôn L, xã T, thị xã P, tỉnh Bình Phước. Năm 2001 cụ Nguyễn S được Ủy ban nhân dân huyện P (cũ) cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất 3.851m2 ngày 23/7/2001 được đổi từ sổ trắng cũ số 10245/GCN-SB. Năm 2015 cụ Nguyễn S tặng cho con là ông Nguyễn Đình T toàn bộ diện tích đất này và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho ông Nguyễn Đình T. Năm 2020 ông T có tự đo đạc kiểm tra thực tế các cạnh trên thực tế so với giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thấy thiếu đất, nên ông T tự ý chặt phá cây do ông M, bà N trồng để lấy đất dẫn đến tranh chấp. Nay ông T yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông M, bà N trả lại phần diện tích đã lấn chiếm là 734,7m2 theo kết quả đo đạc số 255-2021, ngày 18-3-2021 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã P. Tòa sơ thẩm nhận định: Theo kết quả đo đạc: Diện tích đất thực tế ôngT sử dụng là 4.071m2 + 295,1m2 HLBV suối + 122,7m2 HLBV đường điện. Như vậy, thực tế sử dụng đất tăng hơn so với diện tích được cấp theo Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Kiểm tra, đối chiếu hồ sơ cấp đất, lời thừa nhận của các đương sự và trên thực tế thì hai thửa đất trên có ranh tiếp giáp với nhau, ranh mốc thực tế hai bên sử dụng ổn định, rõ ràng, liên tục trồng cây lâu năm, không có tranh chấp, các bên cùng sinh sống trực tiếp trên đất và không có đi khỏi địa phương hay di chuyển chỗ ở khỏi mảnh đất từ khi khai phá đến nay. Tòa án sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn ĐìnhT. |
10-18 |
|
Bản án số 23/2024/DS-ST ngày 25/01/2024 của Tòa án nhân dân huyện An Phú, tỉnh An Giang
Nội dung vụ án: Năm 2004 UBND huyện A có phê duyệt danh sách phân phối nền nhà tuyến dân cư cù lao ấp, theo Quyết định thì ông Từ Văn T5 có từ chối nhận nền nhà. Sau đó bà Lê Thị M đến UBND mua lại nền nhà của ông T 5 sống ổn định nơi cư trú và được UBND xã V đồng ý, ngày 13/5/2011 bà M đến Ngân hàng C2 mua lại nền nhà với giá 7.675.000 đồng. Bà tiếp tục xây dựng căn nhà gỗ trên nền đất ông T từ khi đó đến nay và sinh sống ổn định và đã được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Qua nhiều năm thì bà muốn cải tạo lại căn nhà nhưng bị bà C, C1, B, B1, X cản trở không cho. Nay bà khởi kiện yêu cầu những người trên chấm dứt hành vi và bồi thường thiệt hại. Tòa sơ thẩm nhận định: Từ khi được UBND xã V chấp nhận sống trên đất và có sự thống nhất của ông Từ Văn T5, bà Lê Thị M không có chỗ ở nào khác và có nhu cầu cấp thiết về nhà ở. Từ khi giao đất vào năm 2011 thì bà đã xây nhà ở ổn định, không phát sinh tranh chấp với ai và đã thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước. Cho đến năm 2019 khi thực hiện việc đăng kí kê khai thì mới phát sinh tranh chấp. Như vậy có thể xác định bà Lê Thị M đã thực hiện việc đăng kí kê khai quyền sử dụng đất liên tục, ngay tình theo Điều 180, Điều 182, Điều 183, Điều 184 BLDS 2015 và phù hợp với Án lệ số 33/2020/AL. Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần khởi kiện của bà Lê Thị M. |
19-32 |
|
Bản án số 91/2021 ngày 26/5/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Long
Nội dung vụ án: Năm 1982, cha mẹ của ông NAD là cụ NVP (chết ngày 29/9/1984) và cụ V (chết ngày 01/12/1994) cho ông NAD quyền sử dụng đất (QSD) tại thửa 594. Năm 1990, ông NAD kê khai sổ bộ địa chính. Do ông NAD bị bệnh nên gia đình đưa ông điều trị bệnh và làm ăn ở tỉnh Đồng Nai. Gia đình ông NAD nhờ cụ V quản lý, hưởng lợi và đóng thuế đối với hai thửa đất. Khi cụ V chết, ông H là con út của cụ V và là em ruột ông NAD tiếp tục quản lý, sử dụng hai thửa đất cho đến nay. Trong quá trình quản lý sử dụng, ông H xây dựng căn nhà cấp 4 và cải tạo đất trồng cây lâu năm trên hai thửa đất, nhưng do làm ăn xa nên gia đình ông NAD không biết và không ngăn cản. Năm 2000, gia đình ông NAD trở về quê đòi lại đất nhiều lần nhưng gia đình ông H không trả. Tòa sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn Nh, C, T, Tr về việc yêu cầu ông H, bà T, anh HH, anh Ha, anh CH trả QSD đất đối với thửa đất 594. Tòa phúc thẩm nhận định: Các đương sự đều thừa nhận phần đất tranh chấp tại thửa 594 (thửa mới 244) có diện tích thực đo là 6.043,7m2, loại đất trồng lúa và thửa 595 (thửa đất mới 244) có diện tích thực đo là là 2.908,4m2, loại đất trồng cây lâu năm có nguồn gốc đất là của cha, mẹ ông NAD và ông H là cụ ông NVP và cụ bà V, nên không cần phải chứng minh theo quy định tại Điều 92 BLTTDS. Theo văn bản của TTCNTTTNMT tỉnh Vĩnh Long thể hiện cụ ông NVP đứng tên theo sổ đăng kí ruộng đất năm 1982 và đến năm 1995 ghi nhận theo sổ mục kê do NVD đứng tên, nhưng trung tâm không có lưu trữ hồ sơ đăng kí QSDĐ với thửa đất 594 và 595. Xét phần đất tranh chấp tại thửa 594 (thửa mới 244) và thửa 595 (thửa mới 214), phía nguyên đơn thừa nhận sau khi cụ V chết vào năm 1994, ông H tiếp tục quản lý sử dụng đất này cho đến nay. Trong quá trình sử dụng đất, ông H đã xây dựng nhà kiên cố và trồng cây lâu năm trên đất, nhưng không có ai ngăn cản hay tranh chấp. Như vậy, ông H trực tiếp quản lý sử dụng đất công khai, ổn định, liên tục trong thời gian dài và đủ điều kiện để được xem xét cấp giấy chứng nhận QSD đất theo quy định của luật đất đai, trong khi đó ông NAD không sử dụng đất từ năm 1990. Đối với việc ông NVD (NAD) đứng tên trong sổ mục kê năm 1995 không phải là căn cứ để xác định ông NAD là chủ sử dụng đất hợp pháp tại thửa 594 và 595. Từ những nhận định trên, căn cứ Án lệ số 33/2020/AL Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của nguyên đơn về việc yêu cầu buộc bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan của phía bị đơn giao trả cho nguyên đơn phần đất tại thửa 594 (thửa mới 244) và thửa 595 (thửa mới 214). Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc yêu cầu bị đơn ông H và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, bà T, anh HH, Ha, CH trả QSD đất đối với thửa đất 594. |
32-40 |
|
Bản án số 21/2024/DS-ST ngày 11/01/2024 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An
Nội dung vụ án: Cụ Phạm Văn P có 2 người con là ông Phạm Minh T2 (chết 1996) và ông Phạm Văn T3 (chết năm 1986). Thửa đất 159 và một phần thửa đất số 85 đang tranh chấp là của cụ P. Cụ P chia đất cho con mình như sau: – Cụ T2 khoảng 2200m2 đất để trồng lúa, còn cụ T3 là khoảng 300m2 đất gòn nền để cất nhà. – Ông T3 đến năm 1986 thì có chiến tranh nên bỏ lên Tp HCM, khoảng năm 1975 thì quay lại cất nhà trên đất của mình. Năm 1975 ông T2 cho bà Đ toàn bộ phần đất lúa để bà Đ canh tác. Khoảng năm 1978 bà Lê Thị N và vợ 2 của ông Lý Văn T4 từ ngoài Bắc vào N tìm ông T4 và ông T4 dẫn bà N đến gặp ông T3 để xin đất cho ở nhờ, ông T3 cho bà N ở tạm tại phần đất nền của ông T3. Trên phần đất bà Đ được ông T2 cho thì có khoảng 1000m2 đất trồng lúa và khoảng 1500 m2 đất là lá dừa, cây bần. Bà Đ ở trên nền gò của ông T3 và xin lấy lại nên bà Đ đồng ý, còn cây bần và lá dừa thì bà Đ sử dụng đến măm 2004 do hoàn cảnh gia đình nên bà Đ lên thành phố HCM làm mướn, bà N chiếm sử dụng hết toàn bộ diện tích khoảng 2200m2 mà ông T2 cho bà Đ. Năm 2017 bà N đi đăng kí kê khai để được cấp giấy chứng nhận thì bị bà Đ phát hiện, ngăn cản, các bên xảy ra tranh chấp. Tòa sơ thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Đ về việc “tranh chấp quyền sử dụng đất” đối với bà Lê Thị N Tòa phúc nhận định: Thấy rằng, bà Đ cho rằng nguồn gốc đất là của ông bà để lại nhưng bà Đ không có gì chứng minh, tại các sổ bộ địa phương lưu trữ cũng không xác định nguồn gốc đất là của cụ P, ông T2 hay của bà Đ nên không có căn cứ chấp nhận lời trình bày của nguyên đơn. Như vậy, có đủ căn cứ chứng minh việc sổ mục kê ghi nhận thông tin chủ sở hữu quyền sử dụng đất 159 và 86 là bà Lê Thị L2 và bà Lê Thị M2 là không chính xác nên không có căn cứ sử dụng cổ mục kê để xác định chủ sử dụng đất cũng như nguồn gốc đất. Như vậy, để giải quyết phần đất tranh chấp của nguyên đơn hay bị đơn,Tòa án căn cứ vào quá trình quản lý, sử dụng đất, kê khai đăng kí cấp GCNQSDĐ. Trong quá trình giải quyết vụ án tì bà Đ thừa nhận các khu đất A, B, D từ năm 1974 hiện trạng đất là trũng, có hố bom và cây bần, lá dừa mọc ở nhiều nơi trên đất. Đất trũng, có hố bom nên bà Đ không sử dụng canh tác lúa được mà chỉ khai thác đốn lá, từ năm 1974 đến nay bà cũng chưa từng san lấp mặt bằng hay tôn tạo gì. Nguyên đơn trình bày nguồn gốc đất của gia đình nhưng không thực hiện việc kê khai, đăng kí, quản lý quyền sử dụng đất. Từ những căn cứ trên có căn cứ chứng minh bà N là người trực tiếp quản lý, sử dụng thửa đất khu A, B, D từ năm 1978 đến năm 2017 đã 39 năm mà không ai tranh chấp. Do đó, Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là phù hợp. Tòa phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Phạm Thị Đ. |
41- 58 |
LINK PDF: TỔNG HỢP 07 BẢN ÁN TÒA ÁN ÁP DỤNG ÁN LỆ SỐ 33/2020/AL ĐỂ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP
………………….
Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Tầng 2, tòa nhà Cửa Tiền Phố, đường Hồ Hữu Nhân, phường Vinh Tân, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn