Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / [NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì trong Giấy chuyển nhượng đã bị chèn thêm có dấu hiệu của tội phạm nhưng Tòa sơ thẩm không chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra giải quyết theo Điều 151 BLTTHS

[NGHIÊN CỨU LUẬT MỖI NGÀY] – Hủy án sơ thẩm vì trong Giấy chuyển nhượng đã bị chèn thêm có dấu hiệu của tội phạm nhưng Tòa sơ thẩm không chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra giải quyết theo Điều 151 BLTTHS

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:

[1] Theo lời khai của nguyên đơn ông Y, bà H thể hiện vợ chồng của nguyên đơn nợ tiền vay NGÂN HÀNG N (Chi nhánh huyện K) và được bà Vũ Tố Q2 dùng tiền của bà Q2 để trả nợ cho ngân hàng NGÂN HÀNG N thay. Sau khi bà Q2 trả nợ thay thì bà Q2 là người giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 564004 (thửa đất số 9, 10, 145, 146, 147, 178, 180, 181, 182, tờ bản đồ số 06 và số 11, tổng diện tích 25.580m2 tọa lạc tại Buôn A, thị trấn K, huyện K, tỉnh Đắk Lắk) do UBND huyện K cấp ngày 18/8/2008 cho hộ nguyên đơn.

Số tiền bà Q2 trả nợ thay cho vợ chồng nguyên đơn ông Y, bà H nêu trên đã được giải quyết tại Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 13/2016/QĐST-DS ngày 20/4/2016 của Tòa án nhân nhân huyện K; theo quyết định này thì vợ chồng nguyên đơn ông Y, bà H phải trả cho bà Q2 là 860.000.000 đồng. Quá trình thi hành án đối với Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự số 13/2016/QĐST-DS ngày 20/4/2016, vợ chồng nguyên đơn ông Y và bà H không có tiền để thi hành án cho bà Vũ Tố Q2 nên ngày 26/4/2016, vợ chồng nguyên đơn ông Y và bà H đã thỏa thuận giao toàn bộ tài sản (trong đó có diện tích 09 thửa đất đang tranh chấp) cho bà Q2 để khấu trừ số tiền phải thi hành án cho bà Q2 nhưng đến ngày 22/12/2016 thì vợ chồng nguyên đơn ông Y, bà H và bà Vũ Tố Q2 có đơn đề nghị hủy việc thỏa thuận ngày 26/4/2016 và cùng ngày 22/12/2016 bà Q2 lập giấy nhận của vợ chồng ông Y số tiền 860 triệu đồng tại cơ quan thi hành án huyện K. Như vậy, vợ chồng nguyên đơn ông Y, bà H đã thi hành án khoản tiền nợ cho bà Q2 và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 564004 ngày 18/8/2008 phải được trả lại cho vợ chồng nguyên đơn. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án này, nguyên đơn ông Y và bà H khai không rõ nguyên nhân nào mà một người có tên là Thu chiếm giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 564004 ngày 18/8/2008 của hộ nguyên đơn để ép buộc, gây áp lực vợ chồng nguyên đơn ông Y, bà H vay tiền ông Trần Đ1 và dẫn đến nguyên nhân nguyên đơn ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/8/2016. Lời khai này của nguyên đơn ông Y, bà H là một trong các chứng cứ quan trọng để xác định sự thật khách quan, nguồn gốc của vụ án và làm căn cứ xác định việc vợ chồng ông Y, bà H có bị ép buộc, lừa dối hoặc giả tạo khi ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/8/2016 nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không tiến hành đối chất, lấy lời khai của bà Vũ Tố Q2; không làm rõ việc giao, nhận giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AK 564004 ngày 24/8/2016 trong quá trình thi hành án tại Chi cục thi hành án huyện K và chưa điều tra làm rõ việc giao tiền ngày 22/12/2016 giữa vợ chồng ông Y, bà H với bà Vũ Tố Q2 có giao nhận trên thực tế không; nguồn gốc số tiền 860 triệu đồng mà vợ chồng nguyên đơn ông Y, bà H trả cho bà Q2 ngày 22/12/2016 và số tiền mà vợ chồng ông Y có liên quan đến số tiền đã nhận theo Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 8266 quyển số 08-TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/8/2016 hay không.

Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm nhận định cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/8/2016 là hợp đồng giả tạo, nhằm che dấu cho hợp đồng vay tiền 250.000.000 đồng vào ngày 19/8/2016 và 20.000.000 đồng làm thủ tục sang tên nhưng hợp đồng vay 250.000.000 đồng vào ngày 19/8/2016 là do nguyên đơn xuất trình, không có chữ ký của người cho vay là ông Đ1 và ông Đ1 cũng không thừa nhận giấy vay này (ông Đ1 khai không biết gì về hợp đồng vay này); số tiền 20.000.000 đồng không được bị đơn thừa nhận và nguyên đơn cũng không có chứng cứ chứng minh nhưng Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào lời khai của nguyên đơn để làm căn cứ giải quyết hậu quả của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất số 8266 quyển số 08-TP/CC-SCC/HĐGD ngày 24/8/2016 vô hiệu là chưa đủ cơ sở.

[2] Trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án cấp sơ thẩm đã ký hợp đồng với Công ty TNHH đo đạc TV nông lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk thực hiện công tác đo vẽ hiện trạng các thửa đất tranh chấp nhưng việc đo đạc dựa trên cơ sở từ việc tự xác định vị trí đất của các đương sự, không có chữ ký xác nhận của chính quyền địa phương, của cơ quan địa chính, các chủ sử dụng đất liền kề và kết quả đo đạc của Công ty TNHH đo đạc TV nông lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk chưa được kiểm tra, thẩm định và nghiệm thu (Công văn số 103/STNMT-DĐBĐ&VT ngày 16/01/2018 của Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đắk Lắk) là không đúng quy định tại mục 7 Quyết định số 08/QĐ-BTNMT; Thông tư số 24/2014/TT-BTNMT và Thông tư số 49/2016/TT[1]BTNMT của Bộ Tài nguyên và Môi trường; Tòa án cấp sơ thẩm căn cứ vào kết quả đo đạc của Công ty TNHH đo đạc TV nông lâm nghiệp tỉnh Đắk Lắk và cung cấp thông tin của cán bộ địa chính thị trấn K để nhận định cho rằng vị trí đất cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không đúng thực tế sử dụng để hủy các giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là chưa đủ căn cứ và không đúng pháp luật.

[3] Sau khi hoàn thành hồ sơ chuyển nhượng và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số CG 232464, CG 232465, CG 232466 ngày 19/01/2017, ông Trần Phước Đ và bà Nguyễn Thị Thu Q1 thế chấp cho Ngân hàng thương mại cổ phần P (sau đây gọi tắt là Ngân hàng P) để vay số tiền 1.200.000.000 đồng. Mặc dù, Ngân hàng thương mại cổ phần P là người thứ ba ngay tình, không có nghĩa vụ kiểm tra tính hợp pháp của các Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, theo nhận định và quyết định của bản án sơ thẩm cho rằng hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/8/2016 vô hiệu do giả tạo, nhằm che dấu hợp đồng vay tài sản đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của Ngân hàng P khi thu hồi nợ vay và việc xác định sự giả tạo của hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 24/8/2016 của bản án sơ thẩm đã thể hiện mục đích chiếm đoạt tài sản của bị đơn và người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan như nguyên đơn trình bày. Bên cạnh đó, trong quá trình giải quyết vụ án ông Y, bà H cho rằng việc ký hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất tranh chấp là do đe dọa, ép buộc và bị cưỡng bức:

“Bà Thu ép tới chuộc lại bìa đỏ bằng cách gây áp lực. Bà Thu gọi điện thoại cho vợ chồng ông Y nói đi vay tiền của ông Trần Đ1 (Tên gọi khác là Sáu), rồi đưa tiền này cho bà Thu để chuộc lại bìa đỏ. Khi đến gặp ông Đ1 và bà Thu, ông Đ1 đe dọa, ép buộc vợ chồng ông Y ra Văn phòng Công chứng ĐA để lập hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”;

“Vào ngày 23/8/2016 ông Sáu (Đ1) cùng người nhà đã gọi gia đình chúng tôi từ huyện K qua huyện C thuê phòng trọ ép chúng tôi ở đó và sáng ngày 24/8/2016 mới chở chúng tôi đến văn phòng Công chứng ĐA”

Khi ông Đ1 ra Văn phòng công chứng thì tôi không có mặt vì tôi và 02 con của tôi bị người lái xe khóa trong xe ô tô”. Đồng thời, với kết luận giám định số 469/C54-P5 ngày 12/12/2017, của Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát, kết luận: Chữ số “1 ” trong số “1.270.000.000đ” và chữ “Một tỉ” trong chữ “Một tỉ hai trăm bảy mươi triệu đồng chẵn” trong Giấy nhận tiền chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất vào ngày 24/8/2016 đã bị viết chèn thêm là có dấu hiệu của tội phạm nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chuyển hồ sơ cho cơ quan điều tra để giải quyết theo quy định tại Điều 151 Bộ luật tố tụng hình sự là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

[4] Với các sai sót nêu trên, cấp phúc thẩm không thể bổ sung được nên chấp nhận kháng cáo của và huỷ bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án cho Toà án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

[5] Do kháng cáo được chấp nhận nên những người kháng cáo không phải chịu án phí phúc thẩm.

[Nguồn: Bản án số 183/2019/DS-PT ngày 03/10/2019 của TÒA ÁN NHÂN DÂN CẤP CAO TẠI ĐÀ NẴNG]

Xem file đính kèm toàn văn Bản án số: 183/2019/DS-PT

………………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2 Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 2, số 68 Dương Đình Nghệ, phường Yên Hoà, quận Cầu Giấy, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

 

Bài viết liên quan