Feel free to go with the truth

Trang chủ / BÀI VIẾT & ẤN PHẨM CỦA FDVN / MIỄN TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP Ở VIỆT NAM

MIỄN TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP Ở VIỆT NAM

MIỄN TRÁCH NHIỆM PHÁP LÝ KHI VI PHẠM HỢP ĐỒNG TRONG TÌNH TRẠNG KHẨN CẤP Ở VIỆT NAM

Luật sư Nguyễn Thị Hải Nhi[1]

Phan Đức Huỳnh[2]

Tóm tắt: Tình trạng khẩn cấp hay còn gọi hoàn cảnh khẩn cấp là khái niệm được xuất hiện, ra đời từ khá sớm và được sử dụng ở nhiều quốc gia trên thế giới dưới mọi chế độ chính trị. Tình trạng khẩn cấp cho phép chính quyền sử dụng các biện pháp cấp thiết để đối phó với các tình huống đặc biệt, nhằm bảo vệ lợi ích chung của cộng đồng, dân tộc và quốc gia. Khi áp dụng tình trạng khẩn cấp, thường dẫn đến việc hạn chế hoặc cấm một số quyền và tự do cơ bản của công dân, nhằm đối phó với các tình huống khẩn cấp như thảm họa lớn hoặc dịch bệnh nguy hiểm. Việc hạn chế hoặc cấm các quyền này cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện các hợp đồng của các bên liên quan, do phải tuân thủ các chính sách và quy định pháp luật của chính phủ.

Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả sẽ điểm qua một số quy định pháp luật, thực tiễn ở nước ta hiện nay và một số vấn đề đặt ra đối với việc xây dựng, hoàn thiện pháp luật về quy định miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp.

Từ khoá: “Tình trạng khẩn cấp”, “Vi phạm hợp đồng”, “Miễn trách nhiệm pháp lý”.

LIABILITY EXEMPTION FOR CONTRACT BREACH IN EMERGENCY SITUATIONS IN VIETNAM

Summary: The concept of an emergency, also known as an urgent situation, has appeared early on and is used in many countries in the world under various political regimes. Under an emergency situation, the government has been allowed to use urgent measures to deal with special circumstances to protect the common interests of the community, nation, and country. Applying an emergency situation often leads to the restriction or prohibition of certain fundamental rights and freedoms of citizens to address emergencies such as severe disasters or dangerous epidemics. These restrictions or prohibitions also affect the execution of contracts by the parties involved, as they must comply with government policies and regulations.

In this article, the authors will review legal perspectives and current reality in our country, as well as some issues concerning the establishment and improvement of laws regarding the exemption of liabilities for contract breaches during emergencies.

Keywords: “Emergency situation,” “Contract breach,” “Liability exemption.”

Đặt vấn đề

Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu ngày càng phức tạp và khó lường, những tình huống khẩn cấp này không chỉ tác động tiêu cực đến các bên tham gia hợp đồng mà còn đặt ra nhiều thách thức pháp lý đối với việc thực hiện và tuân thủ các cam kết hợp đồng. Câu hỏi đặt ra là trong những hoàn cảnh này, các bên tham gia hợp đồng có thể được miễn trách nhiệm như thế nào và dựa trên những cơ sở pháp lý nào? Bài viết không chỉ giúp hiểu rõ hơn về tình trạng áp dụng pháp luật hiện nay mà còn đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện khung pháp lý, đảm bảo sự minh bạch và công bằng trong giải quyết các tranh chấp hợp đồng trong bối cảnh đặc biệt này.

  1. Tình trạng khẩn cấp và điều kiện xác định tình trạng khẩn cấp

Xét về nguồn gốc, “tình trạng khẩn cấp” được hình thành trong luật La Mã, từ quy định về justitiumm – Nó liên quan đến việc đình chỉ hoạt động kinh doanh dân sự, thường bao gồm tòa án, ngân khố và Thượng viện và được ra lệnh bởi các quan tòa cấp cao của La Mã[3].

Hiện nay, khái niệm tình trạng khẩn cấp được sử dụng rộng rãi ở nhiều quốc gia và nhiều chế độ chính trị khác nhau. Theo đó, khi xảy ra các hiện tượng thiên nhiên (thiên tai, dịch bệnh,…), hoặc do con người tạo ra (chiến tranh, bạo động lật đổ chính quyền, …) gây nên và xảy ra trên thực tế và trực tiếp làm thay đổi trạng thái bình thường của đời sống xã hội loài người cũng như hoạt động của Nhà nước. Từ đó tạo nên những tình huống đặc biệt đòi hỏi phải có biện pháp ứng phó đặc biệt nhằm ngăn chặn, hạn chế, khắc phục hậu quả, để giảm thiểu những thiệt hại về tính mạng, tài sản của cá nhân, tổ chức, nhà nước, xã hội. Dựa trên tác động thực tế của những hiện tượng thiên nhiên hoặc do con người thực hiện, khi đó các nhà nước có thể đưa ra một số chỉ thị, quyết định có thể tạm ngưng một số chức năng bình thường của chính quyền cũng như của xã hội, tại một khu vực hoặc trên toàn lãnh thổ của quốc gia đó.

Tại Việt Nam, thuật ngữ “tình trạng khẩn cấp” được đề cập trong nhiều văn bản khác nhau như: Hiến pháp năm 2013, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000, Luật An ninh quốc gia năm 2004, Luật Phòng, chống thiên tai năm 2013, Luật Quốc phòng năm 2018…. Trong đó, Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000 và Văn bản hướng dẫn liên quan là những văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nhất về tình trạng khẩn cấp, tuy nhiên Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp 2000 có nội dung bí mật nhà nước nên người dân không thể tiếp cận trong khi đó các quy định tại Nghị định số 71/2000/NĐ-CP, Luật Quốc Phòng 2018, Luật An ninh quốc gia 2004, Luật Phòng, chống thiên tai 2013 hay Nghị định số 160/2018/NĐ-CP chưa được quy định rõ ràng. Từ các quy định này hiện chỉ đang làm rõ được các dạng của tình trạng khẩn cấp, gồm: (1) Tình trạng khẩn cấp về thảm họa lớn, (2) Tình trạng khẩn cấp về dịch bệnh nguy hiểm, (3) Tình trạng khẩn cấp về quốc phòng, (4) Tình trạng khẩn cấp về thiên tai, (5) Tình trạng khẩn cấp về an ninh quốc gia[4].

Các kết quả nghiên cứu hiện nay chỉ ra các đặc điểm cơ bản của tình trạng khẩn cấp: (1) Tình trạng khẩn cấp có thể xảy ra bất kì không gian, thời gian nào và không có khả năng nhìn thấy trước, và gắn liền với quyền lực của nhà nước; (2) Tình trạng khẩn cấp thường hạn chế hoạt động kinh tế và các quyền của con người; (3) Tình trạng khẩn cấp không chỉ gây ra thiệt hại tức thời mà còn có thể để lại hậu quả lâu dài trên nhiều khía cạnh khác nhau. Hình thức ban bố tình trạng khẩn cấp gồm: Nghị quyết, lệnh và quyết định. Theo Hiến pháp năm 2013 thì Quốc hội là chủ thể duy nhất ban hành tình trạng khẩn cấp[5]. Khi quy định về tình trạng khẩn cấp thì “Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định về tình trạng khẩn cấp[6]. Trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không ban bố kịp, nhưng vì tính cấp bách nên Luật cũng đã quy định cho Chủ Tịch nước có quyền “công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước hoặc ở từng địa phương trong trường hợp Ủy ban Thường vụ Quốc hội không thể họp được[7]. Khi đó Chủ tịch nước “ban hành Lệnh, quyết định để tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp căn cứ vào nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội…”[8].

Trong các văn bản pháp luật điều chỉnh các giao dịch dân sự, hợp đồng thương mại là Bộ luật Dân sự năm 2015 và Luật Thương mại năm 2005 cũng có đề cập đến tình trạng khẩn cấp. Bộ Luật Dân sự 2015 chỉ đề cập tới vấn đề tình trạng khẩn cấp liên quan đến vấn đề Bảo vệ quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản tại Điều 163 như sau: (1) Không ai có thể bị hạn chế, bị tước đoạt trái luật quyền sở hữu, quyền khác đối với tài sản. (2) Trường hợp thật cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh hoặc vì lợi ích quốc gia, tình trạng khẩn cấp, phòng chống thiên tai, Nhà nước trưng mua hoặc trưng dụng có bồi thường tài sản của tổ chức, cá nhân theo giá thị trường. Hay Luật Thương mại năm 2005 quy định về việc áp dụng biện pháp khẩn cấp đối với hàng hóa lưu thông trong nước cụ thể: Hàng hóa đang được lưu thông hợp pháp trong nước bị áp dụng một hoặc các biện pháp buộc phải thu hồi, cấm lưu thông, tạm ngừng lưu thông, lưu thông có điều kiện hoặc phải có giấy phép khi xảy ra tình trạng khẩn cấp.

Nghiên cứu quy định pháp luật Việt Nam có thể thấy, tình trạng khẩn cấp là một thuật ngữ không còn xa lạ nhưng để hiểu đầy đủ định nghĩa của khái niệm tình trạng khẩn cấp và xác định có hay không được miễn trừ các trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng khi rơi vào tình trạng khẩn cấp thì pháp luật hiện hành Việt Nam chưa có quy định rõ.

  1. Cơ sở pháp lý và thực trạng quy định pháp luật về miễn trách nhiệm pháp lý do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp

Như đã nêu trên, tình trạng khẩn cấp thường d o các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ban hành, công bố và áp dụng các biện pháp đặc biệt để khắc phục. Vậy vấn đề đặt ra ở đây là liệu “tình trạng khẩn cấp” có phải sự kiện bất khả kháng được quy định tại Bộ luật Dân sự 2015. Bởi theo quy định tại khoản 1 Điều 156 Bộ luật dân sư 2015“Sự kiện bất khả kháng là sự kiện xảy ra một cách khách quan không thể lường trước được và không thể khắc phục được dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và khả năng cho phép”. Xét về bản chất tình trạng khẩn cấp là một sự kiện khách quan xảy ra không theo ý chí hay phát sinh do lỗi chủ quan của một cơ quan, cá nhân nào và nằm ngoài dự đoán của các bên liên quan. Ngoài ra, trước khi tình trạng khẩn cấp được ban hành thì các cơ quan Nhà nước hay các bên trong quan hệ hợp đồng đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết và trong khả năng cho phép nhưng không thể khắc phục được hậu quả của những sự kiện đó. Theo đó, tình trạng khẩn cấp hoàn toàn có thể được xem là một sự kiện bất khả kháng theo quy định của pháp luật dân sự 2015. Trong khi đó, hiện nay, hầu hết trong các hợp đồng giao dịch liên quan đến dân sự hay thương mại, các bên thường đưa điều khoản bất khả kháng để làm cơ sở miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng.

Cùng với đó, tại điểm d, khoản 1, Điều 294 Luật Thương mại 2005 quy định, hành vi vi phạm hợp đồng của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng được xem là một căn cứ miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng. Vậy câu hỏi được đặt ra ở đây là tình trạng khẩn cấp có được xem là trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền hay không? Trong thời gian đại dịch Covid 19 diễn ra với diễn biến phức tạp tại các quốc gia trên thế giới cũng như Việt Nam đe dọa trực tiếp đến sức khỏe tính mạng của người dân. Trước tình hình đó, ngày 31/3/2020, Thủ tướng chính phủ đã ban hành hỏa tốc Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, trong đó yêu cầu thực hiện cách ly xã hội trên phạm vi toàn quốc. Ví dụ đối với các hợp đồng mua bán hàng hóa có điều khoản giao hàng bằng đường hàng không hay bằng đường bộ lúc này sẽ không thể thực hiện được việc giao hàng do hoạt động vận tải bị tạm dừng hai chiều theo Chỉ thị số 16. Khi đó Chỉ thị số 16/CT-TTg là một quyết định của cơ quan nhà nước và có hiệu lực thi hành ngay nên các bên trong quan hệ hợp đồng không thể dự đoán trước hoặc kiểm soát được tình hình thực hiện hợp đồng dẫn đến việc vi phạm. Trong trường hợp này tình trạng khẩn cấp do quyết định của cơ quan Nhà nước nước có thẩm quyền được xem là trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng.

Những nội dung phân tích nêu trên có thể thấy, tình trạng khẩn cấp có thể biểu hiện ở hình thức là sự kiện bất khả kháng hoặc quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, nếu cho rằng tình trạng khẩn cấp chính là sự kiện bất khả kháng hay quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền là chưa thật sự đầy đủ bởi tình trạng khẩn cấp mang nghĩa bao quát, rộng hơn 02 phạm trù khái niệm nêu trên. Do vậy, theo nhóm tác giả, việc quy định miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp là cần thiết.

Rà soát pháp luật Việt Nam quy định về miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp thì thấy:

Thứ nhất, pháp luật Việt Nam hiện nay chưa có quy định cụ thể về miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp.

Trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay cụm từ “ tình trạng khẩn cấp” chỉ được nhắc đến trong Hiến pháp năm 2013; Pháp lệnh Tình trạng khẩn cấp năm 2000; Luật An ninh quốc gia năm 2004; Luật Phòng, chống bệnh truyền nhiễm năm 2007; Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Luật Tổ chức Chính phủ năm 2015; Luật Thú y năm 2015; Luật Quốc phòng năm 2018,…và các văn bản luật có liên quan. Chỉ yếu quy định về thẩm quyền ban bố, công bố, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp, nội dung ban bố, phương tiện đưa tin trong tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt được áp dụng trong tình trạng khẩn cấp,…nhưng chưa ghi nhận việc áp dụng miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp.

Tại Điều 351 Bộ Luật Dân sự 2015 đã đề cập đến vấn đề miễn trách nhiệm trong trường hợp xảy ra sự kiện bất khả kháng, và tại Điều 294 Luật thương mại 2005 quy định về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm như sau:

“Điều 294. Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm

Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:

a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận;

b) Xảy ra sự kiện bất khả kháng

c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia;

d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng”.

Quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 294 Luật Thương mại năm 2005 được hiểu theo nghĩa rộng, không chỉ bao gồm các loại văn bản hành chính nói chung, mà còn bao hàm các quyết định cá biệt, các nghị quyết cá biệt hay các văn bản hành chính khác như công văn, thông báo. Nghị quyết hay quyết định cá biệt (còn được gọi là văn bản áp dụng quy phạm pháp luật) là các văn bản  được ban hành theo trình tự hình thức thủ tục do pháp luật quy định nhằm áp dụng các quy phạm pháp luật vào từng trường hợp cụ thể có hiệu lực áp dụng một lần đối với một hoặc một số đối tượng cụ thể về một vấn đề cụ thể. Điều quan trọng là các văn bản này phải tác động một cách trực tiếp vào khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên có hành vi vi phạm hợp đồng[9].

Trong điều Luật nêu trên có quy định về hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không biết được. Tuy nhiên, chưa rõ và chưa thể áp dụng ngay khi có tình trạng khẩn cấp, quyền lợi của các bên chưa được bảo đảm. Do đó, dự thảo Luật tình trạng khẩn cấp cần có quy định cụ thể hoặc dẫn chiếu áp dụng quy định nào, ở đâu nhằm có cơ chế áp dụng ngay lập tức để tránh xảy ra tranh chấp, ảnh hưởng quyền lợi của các bên khi thực hiện hợp đồng. Bởi lẽ việc quy định chi tiết và riêng biệt sẽ nhằm áp dụng đúng đối tượng, trong từng trường hợp, bản chất của tình trạng khẩn cấp cũng tương tự như trường hợp bất khả kháng. Tình trạng này ban bố bởi một cơ quan có thẩm quyền dựa trên những biến động tức thời do đó đảm bảo tính khách quan và sự kiện không thể lường trước. Tuy nhiên, cần có quy định rõ ràng để tránh chồng chéo, giảm thiểu mâu thuẫn trong việc giải thích và áp dụng pháp luật.

Thứ hai, pháp luật chưa có quy định xác định khoảng thời gian bắt đầu và kết thức việc miễn trách nhiệm pháp lý trong tình trạng khẩn cấp

Trên thế giới việc nói chung và Việt Nam nói riêng việc ban bố tình trạng khẩn cấp đối với một vấn đề là không hiếm gặp. Tuy nhiên, pháp luật lại chưa quy định rõ ràng về mốc thời gian xác định việc miễn trách nhiệm pháp lý để áp dụng trên thực tế. Ví dụ trong Đại dịch Covid vừa qua, các mốc ban hành văn bản như sau:

  • Ngày 27/3/2020, Thủ tướng Chính phù ban hành Chỉ thị số 15/CT-TTg về quyết liệt thực hiện đợt cao điểm phòng chống dịch Covid-19.
  • Ngày 31/3/2020, Thủ tướng chính phủ ban hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc thực hiện các biện pháp cấp bách phòng, chống dịch Covid-19, trong đó yêu cầu thực hiện cách ly xã hội trên phạm vi toàn quốc trong thời hạn 15 ngày từ 0 giờ ngày 01/4 đến hết ngày 15/4/2020.
  • Ngày 01/4/2020, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 447/QĐ-TTg về việc công bố dịch Covid-19 trên toàn quốc, thời gian xảy ra dịch là từ ngày 23/01/2020.

Quan điểm thứ nhất cho rằng, thời điểm bắt đầu và kết thúc sự kiện bất khả kháng là kể từ ngày Chính phủ công bố bắt đầu xảy ra dịch Covid-19 (ngày 23/01/2020) cho đến ngày được Chính phủ công bố là hết dịch bệnh. Quan điểm thứ hai cho rằng, thời điểm bắt đầu và kết thúc sự kiện bất khả kháng là từ khi Chính phủ ban hành các biện pháp cấm, hạn chế các hoạt động tụ họp đông người (Chỉ thị 15/CT-TTg) hoặc thực hiện cách ly xã hội (Chỉ thị 16/CT-TTg) cho đến khi các biện pháp này được dỡ bỏ[10].

Việc pháp luật quy định không rõ ràng khiến việc áp dụng trên thực tế rất phức tạp để xác định liệu bên có nghĩa vụ có được miễn trách nhiệm pháp lý trong khoảng thời gian đó hay không. Việc dịch bệnh đã xác định ca mắc bệnh đầu tiên vào ngày 23/01/2020 nhưng các hoạt động khác vẫn đang diễn ra bình thường trong thời gian đó, mãi đến chỉ thị 16 ban hành thực hiện cách ly xã hội mới thực sự là một sự kiện làm tê liệt toàn bộ hoạt động. Vậy thì, thời gian nào sẽ được miễn trách nhiệm, khoảng thời gian nào xác định không được miễn trách nhiệm, đó lỗ hổng mà sau đại dịch covid, pháp luật cần hoàn thiện làm rõ hơn để tránh xảy ra các tranh chấp.

  1. Hướng hoàn thiện pháp luật về miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, pháp luật cần bổ sung các quy định để làm rõ khái niệm về tình trạng khẩn cấp trong Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại

Như đã phân tích ở trên hiện nay pháp luật nước ta chưa có một khái niệm hoàn chỉnh về tình trạng khẩn cấp và các trường hợp nào được xem là tình trạng khẩn cấp. Xuất phát từ nhu cầu trên nhóm tác giả nhận thấy cần bổ sung quy định pháp luật cụ thể về khái niệm tình trạng khẩn cấp trong Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại là các văn bản pháp luật điều chỉnh các giao dịch. Từ đó trong giao dịch thực tế diễn ra, các bên có thể dễ dàng xác định một sự kiện xảy ra có phải là tình trạng khẩn cấp hay không và có được xem xét là cơ sở để áp dụng miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng.

Thứ hai, cần quy định rõ tình trạng khẩn cấp là một trong những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng

Về bản chất tình trạng khẩn cấp có thể được xem là một sự kiện bất khả kháng và là một trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng do có quyết định của Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, thực tế cả Bộ luật Dân sự 2015 hay Luật Thương mại 2005 lại chưa có một quy định rõ ràng, cụ thể nào nhằm xác định trình trạng khẩn cấp là một trong những trường hợp miễn trách pháp lý khi vi phạm hợp đồng. Trong thời gian đại dịch Covid 19 diễn ra, thực hiện các Chỉ thị của Chính phủ về việc cách ly xã hội khiến hoạt động giao thương, đi lại, sinh hoạt trên cả nước bị tạm ngưng dẫn đến việc không ít doanh nghiệp vi phạm hợp đồng về thời gian giao hàng hay thực hiện hợp đồng… Khi giải quyết tranh chấp hầu hết các cơ quan tiến hành tố tụng đều cho rằng trong thời gian áp dụng các Chỉ thị cách ly xã hội Covid 19 là một trường hợp bất khả kháng mà không phải là một tình trạng khẩn cấp. Nhận định này hoàn toàn phù hợp, thế nhưng, trường hợp này cũng có thể được xem là một tình trạng khẩn cấp và vẫn thuộc trường hợp miễn trách nhiệm pháp lý nếu pháp luật có quy định thể. Do đó, cần có một điều khoản quy định rõ tình trạng khẩn cấp là một trong những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng.

Thứ ba, cần bổ sung điều kiện áp dụng tình trạng khẩn cấp để được miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng

Ngoài việc, đưa khái niệm và quy định tình trạng khẩn cấp là một trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng cụ thể trong các văn bản pháp luật như Bộ luật Dân sự, Luật Thương mại để làm cơ sở giúp bên vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp xác định việc miễn trách nhiệm pháp lý. Thì việc bổ sung quy định về điều kiện áp dụng tình trạng khẩn cấp để được miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng cũng là một nội dung không thể thiếu. Bởi nếu chỉ có khái niệm và quy định tình trạng khẩn cấp là một trong những trường hợp được miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng thôi là chưa đủ, việc này sẽ khiến bên vi phạm cũng như các cơ quan giải quyết tranh chấp khó khăn trong việc xác định có hay không việc đủ điều kiện để áp dụng quy định này.

  1. Kết luận

Việc miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng trong tình trạng khẩn cấp ở Việt Nam là một vấn đề quan trọng và cần được quan tâm đúng mức. Sự rõ ràng trong quy định pháp luật và tính chủ động của các bên trong hợp đồng sẽ giúp giảm thiểu các tranh chấp và bảo vệ quyền lợi của các bên trong bối cảnh các sự kiện bất khả kháng. Những ý kiến hoàn thiện này sẽ giúp đảm bảo tính minh bạch, công bằng và hiệu quả trong việc miễn trách nhiệm pháp lý khi vi phạm hợp đồng do tình trạng khẩn cấp.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hiến pháp 2013
  2. Quốc Hội (2015), Bộ Luật Dân sự 2015
  3. Quốc Hội (2005), Luật Thương mại 2005
  4. Quốc Hội (2015), Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật
  5. Nguyễn Văn Hùng (2020), Miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng do phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 07 (455), tháng 04/2022
  6. Cao Vũ Minh (2021) Thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong tình trạng khẩn cấp và những vấn đề cần hoàn thiện, Nhà nước và pháp luật số 2/2021, https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/313831/CVv225S22021003.pdf, truy cập ngày 01/05/2024
  7. Phạm Thị Hiền, Tác động của đại dịch covid-19 đối với vấn đề miễn trách nhiệm trong hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, tcdcpl.moj.gov.vn, truy cập ngày 01/05/2024
  8. Lý Minh Hằng (2014), Miễn trách nhiệm bồi thường thiệt hại hợp đồng theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.48 – 49
  9. Trương Nhật Quang & Ngô Thái Ninh – Công ty luật TNHH YKVN, Vấn đề miễn trách nhiệm dân sự do vi phạm nghĩa vụ thanh toán trong trường hợp bất khả kháng–covid.19, http://www.lapphap.vn/Pages/tintuc/tinchitiet.aspx?tintucid=210450, truy cập ngày 01/05/2024
  10. Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) (2020), Ấn phẩm Covid-19, Nhận định thị trường – pháp lý và lưu ý cho doanh nghiệp, https://www.viac.vn/images/Resources/Publications/An-pham-Covid-4-2020/Pub_An-pham-mua-Covid-19_VIAC_Dot-1.pdf, truy cập ngày 05/01/2024
  11. Lê Đình Vinh, ThS. Nguyễn Thanh Hà, Dịch Covid-19 có phải là sự kiện bất khả kháng để doanh nghiệp được miễn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng?, https://lsvn.vn/dich-covid-19-co-phai-la-su-kien-bat-kha-khang-de-doanh-nghiep-duoc-mien-thuc-hien-nghia-vu-theo-hop-dong1627401077.html, truy cập ngày 01/05/2024
  12. Tham khảo bài viết tại: https://www.sorainen.com/publications/coronavirus-as-force-majeure-how-to-do-business-with-china-in-an-emergency-situation/, truy cập ngày: 01/05/2024

TÀI LIỆU TRÍCH DẪN

[1] Luât sư thuộc Công ty Luật FDVN, địa chỉ 99 Nguyễn Hữu Thọ, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Điện thoại: 0384550444; Email: hainhinguyenthi76@gmail.com;

[2] Chuyên viên pháp lý thuộc Công ty Luật Hợp danh FDVN; địa chỉ 99 Nguyễn Hữu Thọ, phường Hòa Thuận Tây, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng; Điện thoại:0976422304, Email: dhuynh1712@gmail.com;

[3] https://en.wikipedia.org/wiki/Justitium#cite_note-:0-1

[4] TS. Cao Vũ Minh, Thẩm quyền của cơ quan nhà nước trong tình trạng khẩn cấp và những vấn đề cần hoàn thiện, Nhà nước và pháp luật số 2/2021, https://sti.vista.gov.vn/tw/Lists/TaiLieuKHCN/Attachments/313831/CVv225S22021003.pdf, truy cập ngày 01/05/2024

[5] Khoản 13 Điều 70 Hiến pháp 2013: “Quyết định vấn đề chiến tranh và hòa bình; quy định về tình trạng khẩn cấp, các biện pháp đặc biệt khác bảo đảm quốc phòng và an ninh quốc gia”.

[6] Điểm d khoản 2 Điều 15 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 quy định: “Quốc hội ban hành nghị quyết để quy định về tình trạng khẩn cấp”.

[7] Khoản 5 Điều 88 Hiến pháp 2013

[8] Khoản 1 Điều 17 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015

[9] ThS. Nguyễn Văn Hùng, Miễn trách nhiệm đối với vi phạm hợp đồng do phải thực hiện quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp số 07 (455), tháng 04/2022

[10] TS. Lê Đình Vinh, ThS. Nguyễn Thanh Hà, Dịch Covid-19 có phải là sự kiện bất khả kháng để doanh nghiệp được miễn thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng? https://lsvn.vn/dich-covid-19-co-phai-la-su-kien-bat-kha-khang-de-doanh-nghiep-duoc-mien-thuc-hien-nghia-vu-theo-hop-dong1627401077.html, truy cập ngày 01/05/2024

…………….

Luật sư tại Đà Nẵng

Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan