FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 15 bản án về tranh chấp thừa kế theo di chúc chung của vợ chồng” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 15 bản án về tranh chấp thừa kế theo di chúc chung của vợ chồng
STT |
NỘI DUNG
|
TRANG |
1 |
Bản án số: 47/2017/DS-ST ngày 08/9/20217 của Tòa án nhân dân huyện Hải Hậu. tỉnh Nam Định
Vụ án: “Kiện chia di sản thừa kế”
Nội dung vụ án:
Trước đây nguồn gốc thửa đất là tài sản riêng của bà L nhưng khi bà kết hôn với ông S bà đã tự nguyện nhập vào làm tài sản chung từ năm 1978, trước đây tại bản đồ 299 có diện tích 163 m2 nhưng đến bản đồ năm 1998, tại sổ mục kê, sổ địa chính diện tích chỉ còn lại 100 m2 mất đi 63 m2 do mở đường giao thông nên có
thể xác định tài sản chung hợp pháp của bà L và ông S chỉ còn lại diện tích là 100 m2 tại bản đồ số 21, số thửa 68 của xã Hải Giang
Vì thửa đất được cấp GCNQSDĐ vào ngày 8/7/1998, ông S cũng thừa nhận đó là tài sản chung có vợ chồng ông Văn S bà L.
Bà Vũ Thị L nguyên đơn yêu cầu chia di sản thừa kế của ông Nguyễn Văn S đang nằm trong khối tài sản chung với bà Vũ Thị L là một nửa thửa đất tại tờ bản đồ số 21, số thửa 68 của xã Hải Giang theo quy định của pháp luật. Ông Nguyễn Quang S không đồng ý chia di sản thừa kế của ông S, với lý do để sau này làm nơi thờ cúng cho ông S và bà L.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định:
Thời điểm mở thừa kế là ngày 22/5/2003, căn cứ tại điều 623 BLDS 2015 thì thời hiệu khởi kiện chia thừa kế của ông S vẫn còn nằm trong thời hiệu khởi kiện.
Trước khi ông S chết ông có nhờ ông Mai Văn Đông viết hộ di chúc chung của vợ chồng, sau đó cả hai vợ chồng ông, bà cùng ký vào và có đưa đến UBND xã Hải Giang xác nhận là hoàn toàn hợp pháp, vì đã thể hiện đúng được ý trí, nguyện vọng của người có di sản để lại nên chia di sản thừa kế của ông S theo di chúc và theo pháp luật.
Hàng thừa kế thứ nhất của ông S gồm: Bà Vũ Thị L; ông Nguyễn Quang S. Mặc dù trong nội dung của bản di chúc ông S không cho bà L được hưởng phần di sản của ông S nhưng theo quy định tại Điều 644 BLDS 2015 bà L vẫn được hưởng hai phần ba suất của một người thừa kế theo pháp luật. Phần di sản còn lại sẽ được chia hết cho ông S. Bà L có nguyện vọng xin được quản lý, sử dụng cả diện tích 100 m2 và có trách nhiệm thanh toán giá trị kỷ phần cho ông S. Xét thấy diện tích đất này đang do bà L quản lý, sử dụng, bà đã có công trông coi quản lý từ khi ông S chết cho đến nay. Bản thân bà L đã già yếu hơn 80 tuổi đang hưởng chế độ trợ cấp xã hội người cao tuổi, lại neo đơn không có con cháu, bà không còn chỗ ở nào khác nên giao toàn bộ thổ đất cho bà L được tiếp tục quản lý, sử dụng và cần buộc bà L phải có trách nhiệm thanh toán giá trị cho ông S.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện chia di sản thừa kế của bà Vũ Thị L, yêu cầu chia di sản thừa kế cho ông Nguyễn Văn S để lại là hợp pháp.
– Chia cho bà L được quyền quản lý, sử dụng diện tích 100m2 đất ở tại thửa số 68, tờ bản đồ số 21. Nhưng Bà Vũ Thị L phải có trách nhiệm thanh toán cho ông Quang S 38.000.000đ và liên hệ cơ quan có thẩm quyền làm thủ tục cấp GCNQSĐ.
– Bà L có trách nhiệm liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để làm thủ tục cấp GCN QSD đất. |
|
1-6
|
2 |
Bản án số: 28/2017/DS-ST ngày 21/8/2017 của Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau
Vụ án: “Tranh chấp chia thừa kế quyền sử dụng đất”
Nội dung vụ án:
Cha bà (Nguyễn Mỹ Nh) là ông Nguyễn Hữu Th và mẹ là Lê Thị Kh có 01 phần đất diện tích 37.800m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau và 01 ngôi nhà bán cơ bản. Phần đất được UBND huyện Cái Nước (nay là huyện Phú Tân) cấp quyền sử dụng đất số 10531, ngày 10/01/1995. Ngày 30/7/2009, cha mẹ bà có làm di chúc cho bà toàn bộ số tài sản của cha mẹ. Di chúc được UBND xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau chứng thực. Ông Th chết ngày 09/02/2013, phần đất hiện nay do anh trai là ông Nguyễn Quốc V và mẹ là bà Kh quản lý, cánh tác. Bà Kh thì đồng ý giao toàn bộ tài sản cho bà theo di chúc nhưng ông V không đồng ý giao đất. Phần nhà, đất và những loại tài sản trong nhà là tài sản chung của cha mẹ bà, theo di chúc cho toàn bộ cho bà. Hiện nay, bà Kh vẫn còn sống nên phần thừa kế của bà Kh chưa được mở thừa kế. Vì vậy, di sản của ông Th là ½ trong di chúc, còn lại ½ là của bà Kh. Bà yêu cầu giao ½ phần di sản là đất với diện tích là 18.900m2, ½ tài sản còn lại là nhà và vật dụng trong nhà bà thống nhất để cho bà Kh quản lý, sử dụng, định đoạt.
Bà yêu cầu Tòa án giải quyết buộc bà Lê Thị Kh và ông Nguyễn Quốc V giao cho bà phần đất với diện tích là 18.900 m2 và chia theo chiều xẽ dọc từ tiền đến hậu đất. Ngày 24/5/2017, giữa bà và bà Kh thống nhất thỏa thuận vị trí, ranh giới, diện tích bà Kh giao cho bà là 12.258,2m2. Ngày 27/7/2017, trong quá trình làm việc tại Tòa án giữa bà và bà Kh có thống nhất thỏa thuận ½ di sản theo di chúc là phần đất có diện tích 18.900m2, ½ tài sản (nhà và vật dụng trong nhà). Bà yêu cầu bà Kh giao cho bà phần đất có diện tích 12.258,2m2, phần diện tích đất còn lại là 6.641,8m2 và ½ di sản căn nhà theo phần của ông Th bà thống nhất cho lại cho bà Kh toàn quyền sử dụng, định đoạt.
Nhận định của Tòa án sơ thẩm:
Có đủ cơ sở chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nh và bà Kh là bà Kh giao phần đất có diện tích 12.258,2m2 tọa lạc tại ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau cho bà Nguyễn Mỹ Nh theo di chúc ngày 30/7/2009 của ông Nguyễn Hữu Th để lại. Phần diện tích đất còn lại theo ½ di chúc của ông Th là 6.641,8m2 và ½ tài sản còn lại bà Nh từ chối nhận, thống nhất giao lại bà Kh nên không đặt ra xem xét. Do bà Kh là vợ ông Th nên bà Kh là người được `hưởng thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc, tuy nhiên bà Kh đã từ chối nhận di sản nên không đặt ra xem xét.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên
– Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của bà Nguyễn Mỹ Nh về việc yêu cầu chia thừa kế quyền sử dụng đất theo di chúc.
– Bà Kh giao cho bà Nh phần đất có tổng diện tích là 12.258,2m2 theo di chúc thuộc thửa đất số 27, 28 tờ bản đồ số 8 do ông Nguyễn Hữu Thu đứng tên quyền sử dụng đất số C 052480 tọa lạc ấp V, xã P, huyện Phú Tân, tỉnh Cà mau theo di chúc. |
|
7-12
|
3 |
Bản án số: 94/2017/DS-ST ngày 14/12/20217 của Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Vụ án: “Tranh chấp về thừa kế tài sản”
Nội dung vụ án:
Nguyên ngôi nhà ở tại địa chỉ 38B Đoàn Thị Điểm, phường Hải Châu 2, quận Hải Châu, Tp. Đà Nẵng có nguồn gốc là của ông K (sinh năm 1922) và bà D (sinh năm 1932).
Ngày 06/8/1997, ông K và bà D đã đến Phòng công chứng số 01 Tp. Đà Nẵng lập di chúc số 66HV34 ngày 06/8/1997 và đã được công chứng viên chứng thực bản di chúc, nội dung bản di chúc để lại toàn bộ ngôi nhà trên cho bà Bùi Thị H được toàn quyền sở hữu sau khi ông bà chết.
Ngày 29/12/2000, ông K và bà D được UBND Tp. Đà Nẵng cấp GCN quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Ông K và bà D có 03 người con chung là ông Bùi H, bà Bùi Thị L và bà Bùi Thị H; bà D có 01 người con riêng là bà Tống Thị T nhưng có quan hệ chăm sóc và nuôi dưỡng từ nhỏ. Bà Bùi Thị H khởi kiện yêu cầu công nhận di chúc hợp pháp, giao nhà đất là di sản thừa kế cho bà sở hữu.
Nhận định của tòa án sơ thẩm:
Xét di chúc được lập vào ngày 06/8/1997 là thời kỳ thi hành BLDS 1995. Căn cứ vào quy định tại các Điều 655,656 của BLDS 1995 (tương ứng là Điều 652, 653 của BLDS 2005; Điều 630, 631 của BLDS 2015) thấy rằng nội dung và hình thức của bản di chúc do ông K và bà D lập hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật; là di chúc được lập tại Văn phòng công chứng của Nhà nước có chứng thực của công chứng viên theo quy định tại Điều 661 BLDS L1995 (tương ứng là Điều 658 của BLDS 2005; Điều 636 BLDS 2015); tại thời điểm ông K và bà D lập di chúc không có ai thuộc diện người thừa kế không phụ thuộc vào nội dung di chúc theo quy định tại Điều 672 BLDS 1995 (tương ứng là Điều 669 BLDS 2005; Điều 644 BLDS 2015); ngoài bản di chúc này thì không còn một bản di chúc nào khác.
Tòa án xác định đây là di chúc hợp pháp phát sinh hiệu lực kể từ thời điểm mở thừa kế (tức là từ thời điểm ông Khiêm chết vào ngày 27/5/2014) theo quy định tại khoản 1 Điều 670 BLDS 1995 (tương ứng là khoản 1 Điều 667 BLDS 2005.
Tòa án xác định di sản thừa kế ông K và bà D để lại chính là căn nhà và đất tại địa chỉ K25/2 Đoàn Thị Điểm, phường Hải Châu 2, quận Hải Châu, Tp. Đà Nẵng.
Từ những nhận định trên, Tòa án nhận thấy yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị H là có căn cứ pháp luật cần được chấp nhận: Công nhận bản di chúc số 66HV34 ngày 06/8/1997 do ông Bùi K và bà Nguyễn Thị D lập tại Phòng công chứng số 01 TP. Đà Nẵng là di chúc hợp pháp; Giao toàn bộ nhà và đất ở trên cho bà Bùi Thị H toàn quyền sở hữu, sử dụng; Bà Bùi Thị H có quyền và nghĩa vụ liên hệ với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để lập thủ tục đứng tên sở hữu đối với tài sản trên.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Bùi Thị H. Tuyên xử:
1.1. Công nhận nhận bản di chúc số 66HV34 ngày 06/8/1997 do ông Bùi K và bà Nguyễn Thị D lập tại Phòng công chứng số 01 TP. Đà Nẵng là di chúc hợp pháp .
1.2. Giao cho bà Bùi Thị H được toàn quyền sở hữu, sử dụng: Nhà và đất ở tại thửa đất số 320, tờ bản đồ số 6 tọa lạc tại địa chỉ K25/2 Đoàn Thị Điểm, phường Hải Châu 2, quận Hải Châu, Tp. Đà Nẵng; diện tích đất 24,30m2; kết cấu nhà ở: tường xây, mái ngói, sàn đúc, số tầng 2, diện tích xây dựng 24,30m2, diện tích sử dụng 54,62m2 theo GCN quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 3401020592, số hồ sơ gốc 19679 do UBND Tp. Đà Nẵng cấp ngày 29/12/2000 hiện đang đứng tên ông Bùi K và bà Nguyễn Thị D (đã chết), giá trị nhà và đất là 221.377.980 đồng.
– Bà Bùi Thị H có quyền và nghĩa vụ liên hệ với các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để xác lập quyền sở hữu, sử dụng đối với nhà đất trên. |
|
13-21
|
4 |
Bản án số: 11/2018/DS-ST ngày 23/4/20218 của Tòa án nhân dân huyện Đơn Dương, tỉnh Lâm Đồng
Vụ án: “Tranh chấp về di chúc”
Nội dung vụ án:
Ông Nguyễn văn Đ và bà Nguyễn Thị Th là vợ chồng. Hai người có 7 người con chung là NLQ1; Nguyễn Văn H; NLQ2; NLQ5; NLQ4; NLQ6; NLQ3. Vợ chồng ông Đ và Th đã có 1 số tài sản chung như sau: Thửa đất số 2, tờ bản đồ số 14 thị trấn Th, diện tích 201m2 đất đô thị, GCNQSDĐ số ADD 830913, trên dất có nhà cấp 4; thửa đất 1142 tờ bản đồ số 16 thị trấn Th, diện tích 280m2 đất trồng cây hằng năm GCNQSDĐ số DD312079 và thửa đất số 2 tờ bản đồ số 16 thị trấn Th diện tích 1000m2 đất nông nghiệp, GCNQSDĐ số M516151 mang tên bà Th; Thửa đất số 445 tờ bản dồ số 12 thị trấn Th diện tích 850m2 đất nông nghiệp GCNQSDĐ số AP777212 mang tên ông Đ.
Ngày 6/6/2011, ông Đ và bà Th có lập di chúc chia 1 phần tài sản cho các con, phần còn lại 2 ông bà để lại làm ăn và sinh sống. Nội dung di chúc như sau: thửa đất 2 tờ bản đồ số 14, thửa đất số 1141 tờ bản đồ số 16 và thửa đất 445 tờ bản đồ số 17 chia đều cho NLQ4; NLQ6; NLQ3; NLQ5; NLQ2; ông Nguyễn Văn H (diện tích đất ngang 4m; dài 20m, trong đó có 15m2 đất đô thị); NLQ1 được chia diện tích đất ngang 7m chạy thẳng xuống vường, đường đi vào cầu ông Thiều và 3m đất mặt tiền con lại để làm đường đi. Bản di chúc được chứng thực ngày 9/6/2011 tại UBND thị trấn Th chứng thực.
Ngày 7/11/2013, ông Đ chết, bà Th nhận thấy bản di chúc chung nói trên không thể hiện được vì không thể chia theo thực tế. Ngày 6/5/2016 cụ Th đã đến UBND thị trấn Th để hủy bỏ phần di chúc của mình trong bản di chúc lập cung với ông Đ.
Bà Th yêu cầu Tòa án tuyên bố phần di chúc chung của 2 vợ chồng ông bà ngày 6/6/2021 được UBND thị trấn Th chứng thực 9/6/2011 là vô hiệu và hủy phần di chúc này để bà Th và các con thỏa thuận phân chia tài sản cho phù hợp với thực tế.
Tòa án cấp sơ thẩm nhận định
Cả cụ Đ và cụ Th đều ký và điểm chỉ trong bản di chúc, trong đơn khởi kiện cụ Th ký và ghi rõ họ tên của mình; các đương sự đều thừa nhận khi còn sống cụ Đ nghe, nói bình thường. Mặt khác, không đương sự nào có ý kiến phản đối với lời trình bày của bà Tr về việc chứng thực di chúc của UBND thị trấn Th. Như vậy, có thể khẳng định trình tự, thủ tục chứng thực của UBND thị trấn Th và hình thức của bản di chúc chung giữa cụ Đ, cụ Th lập ngày 06/6/2011, chứng thực ngày 09/6/20011 là đúng quy định của pháp luật.
Bản di chúc chung giữa cụ Đ, cụ Th lập ngày 06/6/2011, chứng thực ngày 09/6/20011 đã bị cụ Th hủy bỏ phần di chúc của cụ vào ngày 06/5/2016. Việc hủy bỏ này đã được UBND thị trấn Th chứng thực và đến nay không một ai có ý kiến gì đối với phần di chúc của cụ Th đã bị hủy bỏ này. Như vậy, theo phần di chúc còn lại của cụ Đ thì các ông bà NLQ2, NLQ4, NLQ3, NLQ5, NLQ6 mỗi người chỉ còn được hưởng là 40m2, trong đó có 7,5m2 đất ở đô thị (chiều ngang 02m đất mặt tiền, chiều sâu 20m) ông H chỉ còn được hưởng là 50m2, trong đó có 7,5m2 đất ở đô thị (chiều ngang 2,5m đất mặt tiền, chiều sâu 20m) và NLQ1 chỉ còn được hưởng diện tích đất có chiều ngang 3.5m mặt tiền.
Như vậy, phần nội dung còn lại của di chúc chung giữa cụ Đ, cụ Th lập ngày 06/6/2011 được UBND thị trấn Th chứng thực vào ngày 09/6/2011 đã trái pháp luật, trái với quy định về diện tích tối thiểu được tách thửa đất do UBND tỉnh Lâm Đồng ban hành.
Tại điểm b khoản 1 Điều 652 Bộ luật Dân sự năm 2005 về điều kiện của di chúc hợp pháp quy định: “Nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội, hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật”.
Từ những nhận định trên, căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ và quá trình tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử thấy rằng cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ Nguyễn Thị Th, tuyên bố phần di chúc của cụ Nguyễn Văn Đ trong bản di chúc chung vợ chồng ngày 06/6/2011, được UBND thị trấn Th chứng thực ngày 09/6/2011 là vô hiệu và hủy phần di chúc này.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên:
Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn cụ Nguyễn Thị Th đối với bị đơn ông Nguyễn Văn H: Tuyên bố phần di chúc của cụ Nguyễn Văn Đ trong bản di chúc chung vợ chồng với cụ Nguyễn Thị Th lập ngày 06/6/2011, được UBND thị trấn Th, huyện Đ chứng thực ngày 09/6/2011 là vô hiệu và hủy phần di chúc này.
…xem thêm tại file PDF |
|
22-29
|
Link PDF: Tổng hợp 15 bản án về tranh chấp thừa kế theo di chúc chung của vợ chồng
……………..
Luật sư tại Đà Nẵng:
Tầng 2, Tòa nhà Thư Dung Plaza, 87 Nguyễn Văn Linh, phường Nam Dương, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn