Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hôn nhân và GĐ / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LY HÔN VÌ LÝ DO BẠO LỰC GIA ĐÌNH

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LY HÔN VÌ LÝ DO BẠO LỰC GIA ĐÌNH

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LY HÔN VÌ LÝ DO BẠO LỰC GIA ĐÌNH” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

STT

Nội dung vụ án

Trang

1

Bản án số 79/2022/HNGĐ-ST ngày 06/12/2022 của Tòa án nhân dân huyện Việt Yên tỉnh Bắc Giang về “tranh chấp hôn nhân và gia đình”.

Nội dung vụ án:

Chị T và anh Dương Văn S kết hôn năm 1995 trên cơ sở tự nguyện, chị không cung cấp được giấy chứng nhận đăng ký kết hôn cho Tòa án vì đã bị thất lạc. Sau khi kết hôn vợ chồng về chung sống với nhau bình thường, nhưng sau đó thường xuyên phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm sống, anh S có quan hệ với người phụ nữ khác và thường xuyên đánh chị. Hai vợ chồng chị ly thân nhau khoảng gần 01 năm, nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt được nên chị xin ly hôn anh S và đề nghị Tòa án giải quyết hôn nhân của chị theo quy định của pháp luật.

Về con chung: Vợ chồng chị có 03 con chung. Hiện 02 con chung cháu Mai, cháu Thảo đã trưởng thành chị không yêu cầu giải quyết, chị nhận nuôi dưỡng cháu Linh, không yêu cầu anh S phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Vợ chồng chị tự thỏa thuận, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Giữa chị T và anh S xác lập quan hệ hôn nhân là tự nguyện, hai bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật hôn nhân và gia đình. Chị T và anh S có một thời gian chung sống bình thường thì phát sinh mâu thuẫn do vợ chồng bất đồng quan điểm sống. Tại phiên tòa chị T khai chị xác định mâu thuẫn của hai vợ chồng gia đình hai bên đều biết và can thiệp hòa giải nhưng anh S vẫn đánh chị. Anh S xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đồng ý ly hôn với chị T.

Chị T, anh S khai có đăng ký kết hôn nhưng không cung cấp được giấy tờ chứng minh việc kết hôn, UBND xã Hồng Thái kiểm tra hồ sơ lưu trữ thì không có tên đăng ký kết hôn giữa chị T và anh S nên không có căn cứ gì khẳng định việc chị T, anh S có đăng ký kết hôn.

Việc chị T và anh S sống với nhau như vợ chồng, chị T có đơn yêu cầu giải quyết hôn nhân thì xác định không công nhận chị T, anh S là vợ chồng. Do vậy, Hội đồng xét xử thấy cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị T, không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị T và anh S là phù hợp với quy định.

Về con chung: anh S nhận nuôi dưỡng con chung là cháu Linh và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con. Tại bản tự khai, cháu Linh khai có nguyện vọng xin được ở với bố. Xét thấy anh S có thu nhập, có chỗ ăn ở, đủ điều kiện chăm sóc và nuôi dưỡng cháu Linh, chị T đồng ý để anh S nuôi dưỡng nên Hội đồng xét xử thấy cần giao cho anh S nuôi dưỡng con chung cháu Linh.

Về tài sản chung, tài sản riêng, nghĩa vụ chung của vợ chồng: Chị T, anh S xác định tự thỏa thuận, không yêu cầu nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Tuyên bố không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Thân Thị T và anh Dương Văn S.

Về con chung: Giao cho anh Dương Văn S nuôi dưỡng con chung là Dương Ái Linh. Vấn đề cấp dưỡng: Chị T và anh S không yêu cầu nên không đặt ra xem xét.

1-5

2

Bản án số 73/2022/HNGĐ-ST ngày 29/09/2022 của Tòa án nhân dân huyện Diên Khánh tỉnh Khánh Hòa về “Ly hôn,, tranh chấp nuôi con”.

Nội dung vụ án:

Bà (Nguyễn Thị D) và ông Nguyễn Thành T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Diên Sơn ngày 26/5/2014. Quá trình chung sống, vợ chồng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn, kình cãi do tính tình không hợp. Ông T thường xuyên ăn nhậu và có hành vi bạo lực gia đình. Do lo sợ hành vi bạo lực của ông T nên từ năm 2017, bà không còn ở chung với ông T mà chuyển về nhà cha mẹ ruột sinh sống cho tới nay.

Nay bà xác định không còn tình cảm với ông T, mâu thuẫn đã trầm trọng và không thể hàn gắn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông T.

Về con chung: Vợ chồng có một con chung tên Nguyễn Anh T1, hiện nay đang sống chung với ông T. Khi ly hôn, bà có nguyện vọng được trực tiếp chăm sóc, nuôi con đến khi con đủ 18 tuổi; không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định

Ngày 26/5/2014, bà Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Thành T tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Diên Sơn và được cấp giấy chứng nhận kết hôn nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Bà D xác định vợ chồng không còn tình cảm; mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể tiếp tục duy trì mối quan hệ hôn nhân nên kiên quyết yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn ông T. Ông T vắng mặt tại phiên tòa, nhưng tại biên bản lấy lời khai, ông T khai vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn, kình cãi; từ năm 2017, vợ chồng không còn chung sống với nhau; ông không còn tình cảm với bà D nên đồng ý ly hôn. Như vậy, có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà D và ông T đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình, cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện ly hôn của nguyên đơn.

Về con chung: Xét thấy, theo biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã Diên Sơn và biên bản xác minh tại Trường tiểu học Diên Sơn  thì trong thời gian cháu T1 ở với ông T; ông T không chăm sóc con tốt, không tạo điều kiện thuận lợi cho con được học hành; bản thân ông T không có nghề nghiệp, công việc ổn định; là người nghiện ma túy, có nhân thân xấu; từng bị Công an xã Diên Sơn xử phạt vi phạm hành chính về hành vi xâm hại sức khỏe đối với con ruột là Nguyễn Anh T1. Cháu Nguyễn Anh T1 có nguyện vọng được ở với mẹ. Vì vậy, để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho con, khi ly hôn cần giao con chung cho bà D trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Bà D không yêu cầu ông Tân cấp dưỡng nuôi con nên không xét.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Bà Nguyễn Thị D được ly hôn ông Nguyễn Thành T.

Về con chung:

2.1. Giao con chung Nguyễn Anh T1, cho bà Nguyễn Thị D trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi đủ 18 tuổi. Ông Nguyễn Thành T không cấp dưỡng nuôi con chung. Ông Nguyễn Thành T có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

Quá trình nuôi con chung, bà Nguyễn Thị D, ông Nguyễn Thành T có quyền yêu cầu Tòa án có thẩm quyền giải quyết về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn; thay đổi cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Bà Nguyễn Thị D và ông Nguyễn Thành T xác định không có tài sản chung, không có nợ chung nên không giải quyết.

6-10

3

Bản án số 22/2022/HNGĐ-ST ngày 28/10/2022 của Tòa án nhân dân huyện Krông Bông tỉnh Dắk lắk về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

Nội dung vụ án:

Bà T và ông Đặng Ngọc T1 chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Y, huyện K, tỉnh Đắk Lắk vào năm 2013. Trong thời gian chung sống vợ chồng hầu như không có hạnh phúc, ông T1 thường xuyên rượu chè say xỉn, không làm chủ được bản thân, gây sự vô cớ, xúc phạm, đánh đập bà, dọa giết bà nhiều lần khiến bà luôn sống trong lo sợ, sợ hãi. Nay bản thân bà không còn tình cảm gì với ông T1, cuộc sống chung không có hạnh phúc, luôn căng thẳng, mệt mỏi nên bà xin được ly hôn.

Về con chung: Ông bà có 02 con chung. Về cấp dưỡng nuôi con, tài sản chung và nợ chung: Bà không yêu cầu Toà án giải quyết. Khi ly hôn, bà có nguyện vọng nuôi cả hai con chung.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Nguyên đơn Trần Thị T vắng mặt, có đơn xin xét xử vắng mặt. Bị đơn ông Đặng Ngọc T1 vắng mặt lần thứ 2 không có lý do dù đã được triệu tập hợp lệ. Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn, bị đơn theo quy định.

Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự và các tài liệu đã được thu thập, có đủ cơ sở xác định: Ông Đặng Ngọc T1 và bà Trần Thị T chung sống với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn.

Bà T trình bày bà và ông T1 chung sống không có hạnh phúc, thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do ông T1 bài bạc, rượu chè về mắng chửi, đánh đập vợ con là phù hợp với lời khai của cháu Đặng Thị Anh Th và những người làm chứng.

Ông T1 không đồng ý ly hôn vì cho rằng ông còn yêu thương vợ, các con còn nhỏ cần có cha mẹ đầy đủ nhưng khi Tòa án triệu tập để hòa giải thì ông không tham gia, không thể hiện thiện chí mong muốn đoàn tụ. Mặt khác, ông T1 thừa nhận mình có đánh bài xuyên đêm đến 1- 2 giờ sáng mới về, có uống rượu 3- 4 lần/tuần và khi nóng nảy có to tiếng với bà T, đập xoong (nồi).

Xét thấy giữa ông T1 và bà T đã không còn tình cảm, ông T1 đã có hành vi mắng chửi, xúc phạm bà T và cháu Th, đây là hành vi bạo lực gia đình về tinh thần, gây tâm lý hoang mang, lo sợ cho các thành viên trong gia đình và làm ảnh hưởng đến sự phát triển tâm, sinh lý của các con chưa thành niên nên cần chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

Về con chung: Trong thời gian chung sống, ông bà có 02 con chung. Đối với cháu Đặng Thị Anh Th là con gái, đang ở lứa tuổi dậy thì cần sự quan tâm, chăm sóc, dạy dỗ của người mẹ, cháu có nguyện vọng được ở với mẹ. Đối với cháu Đặng Ngọc T2 là con trai, cháu hợp với bố và được ông Đặng Ngọc T1 yêu thương, cháu có nguyện vọng được ở với bố. Vì vậy, cần chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, giao cháu Đặng Thị Anh Th cho bà Trần Thị T và giao cháu Đặng Ngọc T2 cho ông Đặng Ngọc T1 trực tiếp nuôi dưỡng, dạy dỗ, phù hợp với nguyện vọng của các cháu, phù hợp với quy định pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Về quan hệ hôn nhân: Bà Trần Thị T được ly hôn với ông Đặng Ngọc T1.

Về con chung: Giao cháu Đặng Thị Anh Th, cho bà Trần Thị T trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu Đặng Ngọc T2, cho ông Đặng Ngọc T1 trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi các cháu đủ 18 tuổi hoặc đến khi có sự thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

11-17

4

Bản án số 135/2022/HNGĐ-ST ngày 21/09/2022 của Tòa án nhân dân huyện Trảng Bom tỉnh Đồng Nai về “tranh chấp ly hôn, nuôi con chung”.

Nội dung vụ án:

Chị Phạm Thị Th và anh Nguyễn Tam T tự nguyện chung sống vợ chồng có đăng ký kết hôn vào năm 2012.

Chị và anh T thường xuyên xảy ra cãi vã, anh T còn đánh đập chị nhiều lần nhưng không để lại thương tích gì. Khoảng 04 năm nay, chị và anh T sống ly thân, chị Th xác định tình cảm của chị dành cho anh T không còn nữa, hôn nhân không thể kéo dài nên đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh T.

Về con chung: Chị Th và anh T có 01 con chung Nguyễn Thị Minh T, sinh ngày 26/01/2016, hiện đang ở cùng với chị Th. Chị Th đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung, tạm thời tạm thời không yêu cầu anh T phải cấp dưỡng tiền cho chị Th nuôi con chung.

Tài sản chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định:

Quan hệ hôn nhân giữa chị Phạm Thị Th và anh Nguyễn Tam T là hôn nhân hợp pháp.

Quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án đã kêu gọi chị Phạm Thị Th đoàn tụ với anh T nhưng chị Th vẫn cương quyết ly hôn vì cho rằng mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng. Tòa án đã tống đạt trực tiếp các văn bản tố tụng cho anh Nguyễn Tam T nhưng anh T từ chối không nhận văn bản, cố tình vắng mặt mà không có lý do chính đáng, chứng tỏ anh T cũng không có thiện chí đoàn tụ, hàn gắn hôn nhân.

Như vậy, có đủ căn cứ xác định mâu thuẫn giữa chị Phạm Thị Th và anh Nguyễn Tam T đã xảy ra trong thời gian dài, đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, cần chấp nhận cho chị Phạm Thị Th được ly hôn với anh Nguyễn Tam T.

Về con chung: Chị Phạm Thị Th đề nghị được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng con chung. Anh Nguyễn Tam T không có tranh chấp về việc ai là người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn. Chị Th có thu nhập ổn định, do đó, tiếp tục giao cho chị Th được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung theo quy định.

Chị không yêu cầu anh Nguyễn Tam T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định:

Về quan hệ hôn nhân: Chị Phạm Thị Th được ly hôn với anh Nguyễn Tam T.

Về con chung: Giao cho chị Phạm Thị Th trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung; Tạm thời, chị không yêu cầu anh Nguyễn Tam T phải cấp dưỡng tiền nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Các đương sự không có tranh chấp nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

… xem thêm tại file PDF

18 – 22

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN LY HÔN VÌ LÝ DO BẠO LỰC GIA ĐÌNH

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan