FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng được hưởng án treo” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 20 bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng được hưởng án treo
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số 06/2023/HSST ngày 09 tháng 02 năm 2023 Toà án nhân dân huyện Lộc Hà, tỉnh Hà Tĩnh về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Từ ngày 24/7/2022 đến ngày 04/8/2022 Trần Văn A, Nguyễn Trung H và Nguyễn Ngọc P đã dùng thủ đoạn gian dối nhiều lần chiếm đoạt tài khoản Facebook của người khác, mạo danh chủ tài khoản Facebook và đã 06 lần lừa đảo chiếm đoạt tài sản của những người bị hại gồm: chị Trương Thị Mỹ H số tiền 2.000.000 đồng; chiếm đoạt của anh Rơ Châm N số tiền 3.000.000 đồng; chiếm đoạt của chị Phan Hồng N trú số tiền 2.000.000 đồng; chiếm đoạt của chị Phan Thị Khánh H số tiền 3.000.000 đồng và chiếm đoạt của anh Phạm Xuân H số tiền 35.000.000 đồng; chiếm đoạt của anh Lê P số tiền 1.000.000đ. Tổng số tiền các bị cáo đã lừa đảo chiếm đoạt được xác định là 46.000.000 đồng (trong đó có 05 lần đủ các yếu tố truy cứu trách nhiệm hình sự với tổng số tiền đã lừa đảo chiếm đoạt là 45.000.000đ). Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Trong vụ án này, các bị cáo Trần Văn A, Nguyễn Trung H đã 05 lần thực hiện hành vi lừa đảo (lần thức hiện ít nhất là 2.000.000đ và lần nhiều nhất là 35.000.000đ) nên Tòa xét thấy cần áp dụng tình tiết “phạm tội 02 lần trở lên” được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52- BLHS. Ngoài ra, bị cáo Trần Văn A đã rủ rê lôi kéo bị cáo Nguyễn Ngọc P thực hiện hành vi phạm tội khi bị cáo P chưa đủ tròn 18 tuổi nên bị cáo A phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “xúi dục người dưới 18 tuổi phạm tội” được quy định tại khoản 1, Điều 52-BLHS. Do đó Tòa cần xem xét khi quyết định hình phạt. Tòa xét thấy cần cách ly các bị cáo Trần Văn A, Nguyễn Trung H ra khỏi đời sống xã hội một thời gian mới đủ điều kiện để giáo dục các bị cáo thành người có ích cho xã hội. Còn bị cáo Nguyễn Ngọc P thời điểm phạm tội chưa đủ tuổi thành niên nên cần áp dụng Điều 65, 91-BLHS cho bị cáo được hưởng án treo cũng đủ điều kiện giáo dục bị cáo thành người có ích cho xã hội. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Văn A, Nguyễn Trung H, Nguyễn Ngọc P phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt Trần Văn A 16 (mười sáu) tháng tù nhưng được trừ thời gian tạm giữ tạm giam từ ngày 18/8/2022 đến ngày 17/11/2022. Thời hạn tù còn lại tình từ ngày bị cáo đi chấp hành án; Xử phạt Nguyễn Ngọc P 10 (mười) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 20 (Hai mươi) tháng tình từ ngày tuyên án sơ thẩm. |
1 |
|
Bản án số 08/2023/HS-ST ngày 31 tháng 3 năm 2023 của Toà án nhân dân huyện Triệu Phong tỉnh Quảng Trị về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Tóm tắt nội dung vụ án: Vào ngày 23/8/2022, Lê Thị M đã có hành vi sử dụng tài khoản Facebook “Hoa Duong Thai” của ông Dương Văn H để mạo danh ông H đòi tiền công của ông Nguyễn Văn Đ còn nợ ông Hòa 7.000.000 đồng (Bảy triệu đồng). Sau khi nhận được tin nhắn từ tài khoản Facebook “Hoa Duong Thai”, nghĩ là ông H đang nhắn tin với mình, nên ông Đ đã nhắn tin nhờ người chuyển khoản vào số tài khoản 100873800251 ngân hàng Viettinbank mang tên Lê Thị M để thanh toán số tiền trên cho ông H. Sau khi chiếm đoạt được số tiền trên, bị cáo M đã chuyển vào tài khoản của chồng là Nguyễn Văn Đ, sinh năm 1994 số tiền 6.000.000 đồng, số tiền còn lại bị cáo đã tiêu xài cá nhân hết. Hành vi của bị cáo là đưa ra thông tin gian dối làm cho ông Đ tin tưởng để nhằm chiếm đoạt tài sản của ông Đ. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Lê Thị M là người có sức khỏe để tự lao động nuôi sống bản thân mình nhưng vì hám lợi, đã mạo danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác với mục đích tiêu xài cá nhân. Bị cáo biết rõ việc mạo danh để lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Hành vi của bị cáo không những xâm phạm vào quyền sở hữu tài sản của ông Đ mà còn ảnh hưởng đến uy tín và xâm phạm đến quyền riêng tư của ông H. Vì vậy, Hội đồng xét xử nhận thấy cần phải xử lý nghiêm khắc mới đảm bảo tính răn đe, giáo dục đối với bị cáo và phòng ngừa chung. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử bị cáo đã tự khai nhận hành vi phạm tội của mình; tự nguyện khắc phục hậu quả; tỏ thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, i và s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự. Ngoài ra cần áp dụng thêm khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo vì: Tại phiên tòa bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Lê Thị Mai phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” xử phạt bị cáo Lê Thị M 12 (mười hai) tháng tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 24 (hai mươi bốn) tháng tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 31/3/2023. |
14 |
|
Bản án số 108/2023/HSST ngày 08 tháng 5 năm 2023 Toà án nhân dân TP. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk về tội “ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng 16 giờ 30 phút ngày 15/01/2019, tại địa chỉ phường T, thành phố B, tỉnh Đắk Lắk; Lương Xương N đã dùng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt của anh Đỗ Trường H 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda SH150D, màu đỏ đen, biển kiểm soát XXX trị giá 135.000.000 đồng, rồi cầm cố cho anh Bùi Thanh A thì bị phát hiện xử lý. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; sau khi phạm tội bị cáo đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho người bị hại và người liên quan; được người bị hại làm đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; do đó cần áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự để xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo, nhằm thể hiện chính sách nhân đạo, khoan hồng của pháp luật Nhà nước ta. Bà Hồ Thị Ngọc Q, có hành vi cho bị cáo mượn chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave S, màu vàng đen, biển số XXX, nhưng bà Q không biết việc bị cáo sử dụng chiếc xe mô tô vào việc phạm tội, nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Buôn Ma Thuột không đề cập xử lý Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Lương Xương N phạm tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Xử phạt bị cáo Lương Xương N 03 (Ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (Năm) năm kể từ ngày tuyên án sơ thẩm; |
19 |
|
Bản án số 62/2023/HS-ST ngày 25 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân TP. N tỉnh Ninh Bình về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 15, 16 và 17/9/2022, Hà Minh Q và Nguyễn Thị T đã dùng thủ đoạn gian dối bằng cách lập tài khoản Facebook ảo, lên mạng đăng bán bưởi da xanh với mục đích tìm người mua sau đó chiếm đoạt tài sản, các bị cáo đã chiếm đoạt của chị Vũ Thị T1 tổng cộng số tiền 56.100.000 đồng, cụ thể: – Ngày 15/9/2022, chị T1 đã liên lạc, trao đổi và thỏa thuận đặt mua 33 thùng bưởi da xanh Bến Tre của T và Q với số tiền là 17.550.000 đồng. Chị T1 đã chuyển số tiền 17.550.000 đồng vào tài khoản ngân hàng cho T và Q. – Ngày 16/9/2022, chị Thịnh liên lạc đặt mua 35 thùng bưởi da xanh Bến Tre với số tiền 18.450.000 đồng. T và Q đồng ý nên chị T1 đã chuyển số tiền 18.450.000 đồng vào tài khoản ngân hàng cho T và Q. – Ngày 17/9/2022, chị T1 tiếp tục đặt mua 40 thùng bưởi da xanh Bến Tre với số tiền 20.100.000 đồng. T và Q đồng ý và chị T1 đã chuyển khoản qua ngân hàng lần thứ nhất với số tiền 14.100.000 đồng và tiếp tục dùng một tài khoản khác của mình (số tài khoản 3302205109731) để chuyển lần thứ hai với số tiền 6.000.000 đồng vào tài khoản ngân hàng cho T và Q. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Các bị cáo đã viết đơn đầu thú hành vị phạm tội của mình; Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo có thái độ khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải; Đối với số tiền 56.100.000 đồng T và Q chiếm đoạt của chị T1 đã được ông Q1 (bố đẻ của Q) khắc phục hậu quả, chị T1 không có yêu cầu đề nghị gì khác, đồng thời có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho T và Q; Các bị cáo chung sống với nhau như vợ chồng, đã tổ chức đám cưới nhưng chưa đăng ký kết hôn, điều kiện hoàn cảnh gia đình khó khăn (hiện tại bị cáo T một mình nuôi con chung và các con riêng còn nhỏ, trong đó có cháu Hà Đăng K là người khuyết tật đặc biệt nặng), có xác nhận của chính quyền địa phương. Do đó, cần cho các bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 BLHS. Đối với bị cáo Hà Minh Q cần cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian để bị cáo học tập, cải tạo thành người có ích cho gia đình và xã hội. Đối với bị cáo Nguyễn Thị T, xét thấy không cần thiết phải bắt chấp hành hình phạt tù vì có khả năng tự cải tạo và việc cho bị cáo hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội, không gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, an toàn xã hội; do đó cần áp dụng Điều 65 BLHS giao bị cáo cho chính quyền địa phương nơi bị cáo cư trú giám sát, giáo dục và ấn định thời gian thử thách đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Các bị cáo Hà Minh Q và Nguyễn Thị T đều phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”; Xử phạt bị cáo Hà Minh Q 21 (Hai mươi mốt) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 17/12/2022, xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 21 (Hai mươi mốt) tháng tù nhưng cho hưởng án treo thời gian thử thách là 42 (Bốn mươi hai) tháng, thời hạn tính từ ngày tuyên án sơ thẩm 25/5/2023 (Bị cáo đã bị tạm giữ từ ngày 17/12/2022 đến ngày 26/12/2022). Giao bị cáo cho UBND xã T, huyện M, thành phố Hà Nội theo dõi giám sát giáo dục trong thời gian chấp hành án. Gia đình bị cáo có trách nhiệm phối hợp với UBND xã T, huyện M, thành phố Hà Nội trong việc giám sát giáo dục bị cáo. |
25 |
|
Bản án số 31/2023/HS-ST ngày 28 tháng 02 năm 2023 của Toà án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, TP. Hà Nội về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 27/9/2022, tại phòng trọ ở nhà số 2 ngõ 20 đường Đông Thắng, phường Đông Ngạc, quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội, bị cáo Nguyễn Hương T đã dùng thủ đoạn gian dối qua việc ký hợp đồng cho thuê lại phòng trọ không thuộc quyền quản lý của mình để chiếm đoạt của anh Nguyễn Quang H số tiền 4.000.000 đồng. Hiện bị cáo T đã bồi thường khắc phục hậu quả xong. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; tài sản bị cáo chiếm đoạt, bị cáo đã bồi thường khắc phục hậu quả, bị cáo phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trong, người bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt; bị cáo có nơi cư trú rõ ràng và đang nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi. Vì vậy xét cho bị cáo được hưởng án treo cải tạo ngoài xã hội để bị cáo nuôi con và có cơ hội cải tạo thành công dân có ích cho gia đình và xã hội. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Hương T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài, xử phạt bị cáo Nguyễn Hương T 9 (chín) tháng tù nhưng cho hưởng án treo, hạn thử thách 18 (mười tám) tháng tính từ ngày Tòa tuyên án. Giao bị cáo về UBND phường Thụy Phương, quận Bắc Từ Liêm, TP Hà Nội giám sát giáo dục trong thời gian thử thách. |
33 |
|
Bản án số 61/2023/HS-ST ngày 22 tháng 02 năm 2023 của Toà án nhân dân TP. Thủ Đức, TP. HCM về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng 22 giờ 00 phút ngày 24/8/2022, Nguyễn Thế B đã thực hiện hành vi dùng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản là 01 máy tính xách tay hiệu Acer Nitro 5, trị giá 4.833.000 đồng của anh Thiều Đăng Q, tại địa chỉ số 40/8/2, đường N, khu phố m, phường B, thành phố Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh. Toà án cấp sơ thẩm nhận định: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Điểm i, s Khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Ngoài các tình tiết giảm nhẹ đã nêu cũng xem xét thêm bị cáo có nhân thân tốt, có nơi ở ổn định rõ ràng; từ khi được tại ngoại đến nay không có vi phạm gì, có khả năng tự cải tạo trong môi trường xã hội cụ thể để hoàn lương, không cần thiết cách ly bị cáo ra khỏi xã hội, áp dụng Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo hưởng án treo cũng đủ tác dụng cải tạo, giáo dục và tạo điều kiện để bị cáo sửa chữa lỗi lầm của mình. Toà án cấp sơ thẩm quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Thế B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thế B 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 01 (một) năm 06 (sáu) tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. |
40 |
|
Bản án số 12/2023/HS-PT ngày 23 tháng 02 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Bình Thuận về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Tóm tắt nội dung vụ án: Vào tháng 11/2021, con gái bà Trần Thị Kim A là cháu Huỳnh Trần H bị Nguyễn Trung H1 xâm hại tình dục. Vụ việc này đang do Cơ quan điều tra – Công an tỉnh Bình Thuận thụ lý giải quyết. Châu Minh B là hàng xóm của bà Trần Thị Kim A, có đưa thông tin không đúng sự thật đối với bà A, là phía Nguyễn Trung H1 đã đưa cho ông Nguyễn D – trợ giúp viên pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cháu Huỳnh Trần H số tiền 200.000.000 đồng (Hai trăm triệu đồng) nhằm để giúp H1 được hưởng án treo hoặc tha tù. Khi tiếp nhận được thông tin này, bà A lo sợ con mình không được bảo vệ nên đã nhờ Châu Minh B làm đơn từ chối sự trợ giúp của Trợ giúp viên pháp lý Nguyễn D. Sau đó, Châu Minh B yêu cầu bà A đưa số tiền 4.500.000 đồng (Bốn triệu năm trăm nghìn đồng) để đi vào Phan Thiết gặp một số người có liên quan hỏi thăm tình hình. Khi đi Phan Thiết về, Châu Minh B gặp bà A nói sẽ nói giúp bà A được bồi thường số tiền 01 tỷ đồng và xử phạt nặng đối tượng gây án nên yêu cầu bà A đưa số tiền 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) để lo lót vụ này và đưa trước 80% là 40.000.000 đồng (Bốn mươi triệu đồng), số tiền còn lại sẽ thanh toán sau khi có bản án của Tòa. Vì tin tưởng vào lời nói của Châu Minh B nên bà A đã đưa cho ông B tổng cộng 46.500.000 đồng (Bốn mươi sáu triệu năm trăm nghìn đồng) gồm: Số tiền 4.500.000 đồng để ông B đi Phan Thiết gặp những người liên quan; đưa số tiền 10.000.000 đồng tại nhà ông B và chuyển khoản số tiền 30.000.000 đồng vào ngày 25-01-2022; đưa số tiền 2.000.000 đồng để ông B cho người vào Phan Thiết xem xét tình hình. Mục đích bà A đưa tiền cho ông B để ông B lo lót vụ việc ông H1 đi tù và gia đình bà A sẽ được bồi thường số tiền 01 tỷ đồng. Do bà A không muốn “lo lót” vụ việc này mà để Tòa án xét xử nên bà A đến gặp ông B xin nhận lại số tiền đã đưa nhưng ông B không trả và cũng không nói rõ lý do nên bà A đã tố cáo hành vi của ông B đến cơ quan chức năng. Châu Minh B không thừa nhận hành vi của mình, cho rằng chỉ nhận số tiền 30.000.000 đồng (Ba mươi triệu đồng) từ bà A thông qua việc chuyển khoản là do bà A nhờ ông thuê Luật sư giúp. Sau đó ông đã liên hệ với người quen ở thành phố Hồ Chí Minh thuê luật sư tên P3 tại địa chỉ 35A Lê Trọng Tấn, phường Tây Thạnh, quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh và ông đưa cho người quen này số tiền 7.000.000 đồng, người này đưa cho luật sư P3 số tiền 3.000.000 đồng để làm 03 lá đơn theo đề nghị của bà A. Quá trình điều tra, Châu Minh B đã nộp lại số tiền 30.000.000 đồng để giao trả lại cho bà A. Toà án cấp sơ thẩm tuyên: Bị cáo Châu Minh B phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Châu Minh B 01 (một) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đi chấp hành án. Ngày 30 tháng 11 năm 2022, bị cáo Châu Minh B kháng cáo kêu oan. Đến ngày 15/02/2023 bị cáo có văn bản thay đổi nội dung kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được hưởng án treo. Toà án cấp phúc thẩm nhận định: Trong vụ án “Hiếp dâm người dưới 13 tuổi” mà con gái bị hại là nạn nhân, bị cáo B đã đưa ra các thông tin không đúng về vụ án làm cho bị hại lo sợ con mình sẽ không được bảo vệ; bị cáo tư vấn cho bị hại đưa ra yêu cầu bồi thường thiệt hại 01 tỷ đồng và cần phải lo lót cho cơ quan có thẩm quyền nên bị hại đã đưa cho bị cáo 30.000.000đ để nhờ bị cáo thuê Luật sư và soạn thảo các đơn gửi quan có thẩm quyền, yêu cầu được bồi thường số tiền 01 tỷ đồng. Khi bà A rút lại đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại số tiền 01 tỷ đồng và đòi bị cáo trả lại số tiền trên thì bị cáo không trả lại. Với hành vi nêu trên, Tòa án cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 174 của Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Bị cáo đã nhận thức rõ sai phạm, tỏ rõ ăn năn hối cải và cung cấp thêm các tài liệu thể hiện bị cáo có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác (được tặng Bằng khen, kỷ niệm chương vì sự nghiệp văn hóa, thể thao và du lịch của Liên đoàn Võ thuật cổ truyền Việt Nam và của Bộ trưởng Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch), đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s, v khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, số tiền bị cáo chiếm đoạt không lớn và bị cáo đã trả lại cho bị hại, đây là các tình tiết giảm nhẹ trách trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b, i khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét thấy, bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng, bị cáo có nhân thân tốt, có nơi cư trú rõ ràng, đủ điều kiện áp dụng điều 65 Bộ luật Hình sự. Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của bị cáo, cho bị cáo được hưởng án treo như đề nghị của Đại diện Viện kiểm sát. Toà án cấp phúc thẩm quyết định: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Châu Minh B. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 167/2022/HS-ST ngày 18 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện P. … xem thêm tại file pdf… |
45 |
LINK TÀI LIỆU: Tổng hợp 20 bản án về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản nhưng được hưởng án treo
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn