Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / VỢ CỦA AI KHI ĐÃ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI KHÁC MÀ NGƯỜI CHỒNG TRƯỚC BỊ TÒA ÁN TUYÊN BỐ LÀ ĐÃ CHẾT TRỞ VỀ?

VỢ CỦA AI KHI ĐÃ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI KHÁC MÀ NGƯỜI CHỒNG TRƯỚC BỊ TÒA ÁN TUYÊN BỐ LÀ ĐÃ CHẾT TRỞ VỀ?

   VỢ CỦA AI KHI ĐÃ KẾT HÔN VỚI NGƯỜI KHÁC MÀ NGƯỜI CHỒNG TRƯỚC BỊ TÒA ÁN TUYÊN BỐ LÀ ĐÃ CHẾT TRỞ VỀ?

Vợ chồng tôi kết hôn hợp pháp năm 2005. Vào năm 2010, chồng tôi đi làm ăn xa và biệt tích nhiều năm không về. Tôi thực hiện áp dụng đầy đủ các biện pháp thông báo, tìm kiếm theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự nhưng vẫn không có tin tức xác thực về việc chồng tôi còn sống hay đã chết. Năm 2017 (tức là sau 7 năm) gia đình tôi đã yêu cầu Tòa án tuyên bố chồng tôi đã chết và quyết định này đã có hiệu lực pháp luật. Tài sản do người chồng trước để lại đã được chia thừa kế cho tôi và bố mẹ chồng theo quy định của pháp luật về thừa kế. Vào tháng 01/2018, tôi kết hôn hợp pháp với một người khác, nhưng đến tháng 08/2018 thì người chồng trước của tôi (người bị tòa án tuyên bố là đã chết) trở về và yêu cầu Tòa án hủy bỏ quyết định tuyên bố chồng tôi đã chết.

   Vậy tôi muốn hỏi quý công ty, quan hệ hôn nhân của tôi với người chồng trước hay người chồng sau có hiệu lực pháp luật? Tài sản mà chúng tôi nhận thừa kế có phải trả lại cho người chồng trước không?

Cảm ơn Quý Khách đã gửi câu hỏi đến Công ty Luật FDVN (FDVN). Đối với các yêu cầu tư vấn của Quý Khách, sau khi nghiên cứu các quy định pháp luật liên quan, FDVN có một số trao đổi như sau:

Theo quy định tại khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự 2015, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố một người là đã chết khi thuộc một trong các trường hợp sau:

  1. a) Sau 03 năm, kể từ ngày quyết định tuyên bố mất tích của Tòa án có hiệu lực pháp luật mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
  2. b) Biệt tích trong chiến tranh sau 05 năm, kể từ ngày chiến tranh kết thúc mà vẫn không có tin tức xác thực là còn sống;
  3. c) Bị tai nạn hoặc thảm họa, thiên tai mà sau 02 năm, kể từ ngày tai nạn hoặc thảm hoạ, thiên tai đó chấm dứt vẫn không có tin tức xác thực là còn sống, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác;
  4. d) Biệt tích 05 năm liền trở lên và không có tin tức xác thực là còn sống; thời hạn này được tính theo quy định tại khoản 1 Điều 68 của Bộ luật dân sự 2015;

Trong trường hợp này, Tòa án đã ra Quyết định chồng chị đã chết thuộc quy định tại điểm d khoản 1 Điều 71 Bộ luật Dân sự nêu trên. Khi đó,

 [1] Quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản của người bị tuyên bố là đã chết

Điều 72 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định như sau: Khi quyết định của Tòa án tuyên bố một người là đã chết có hiệu lực pháp luật thì quan hệ về hôn nhân, gia đình và các quan hệ nhân thân khác của người đó được giải quyết như đối với người đã chết.

  1. Quan hệ tài sản của người bị Tòa án tuyên bố là đã chết được giải quyết như đối với người đã chết; tài sản của người đó được giải quyết theo quy định của pháp luật về thừa kế.

Cụ thể:

  1. Về quan hệ hôn nhân gia đình: Theo quy định tại Điều 65 Luật Hôn nhân Gia đình 2014, thì quan hệ hôn nhân giữa Chị và người chồng bị Tòa án tuyên bố đã chết chấm dứt với thời điểm chấm dứt được xác định theo ngày chết được ghi trong bản án, quyết định của Tòa án.
  2. Đối với phân chia tài sản chung của vợ chồng, Luật Hôn nhân Gia đình 2014 tại Điều 66 đã quy định bên còn sống quản lý tài sản chung của vợ chồng trừ những trường hợp có thỏa thuận khác từ những người thừa kế. Phần tài sản của người chết sẽ được chia thừa kế theo quy định của Bộ luật dân sự.

[2]. Quan hệ nhân thân, tài sản khi chồng bị tuyên bố là đã chết mà trở về

Trong trường hợp người chồng bị tuyên bố đã chết quy trở về thì theo yêu cầu của người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố người đó là đã chết [Khoản 1 Điều 73 Bộ luật Dân sự 2015].

Khi đó, quan hệ nhân thân, tài sản của người đã được hủy bỏ quyết định tuyên bố chết được giải quyết như sau:

  1. Quan hệ nhân thân

Theo đó, khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên bố một người là đã chết mà vợ hoặc chồng của người đó chưa kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được khôi phục kể từ thời điểm kết hôn. Trong trường hợp vợ, chồng của người đó đã kết hôn với người khác thì quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật [Khoản 1 Điều 67 Luật Hôn nhân Gia đình 2014].

Như vậy, đối với trường hợp của chị, khi người chồng trở về nhưng chị đã kết hôn hợp pháp với người khác, cho nên đối với quan hệ hôn nhân với người chồng trước lúc này kết thúc, còn quan hệ hôn nhân được xác lập sau có hiệu lực pháp luật. Theo đó, lúc này chị là vợ hợp pháp với người chồng sau.

  1. Quan hệ tài sản

Đối với quan hệ tài sản được giải quyết theo tình trạng hôn nhân hiện tại của người vợ, được quy định tại Khoản 2 Điều 67 Luật Hôn nhân Gia đình 2014:

– Trong trường hợp hôn nhân được khôi phục thì quan hệ tài sản được khôi phục kể từ thời điểm quyết định của Tòa án hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực. Tài sản do vợ, chồng có được kể từ thời điểm quyết định của Tòa án về việc tuyên bố chồng, vợ là đã chết có hiệu lực đến khi quyết định hủy bỏ tuyên bố chồng, vợ đã chết có hiệu lực là tài sản riêng của người đó;

Trong trường hợp hôn nhân không được khôi phục thì tài sản có được trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên bố vợ, chồng là đã chết có hiệu lực mà chưa chia được giải quyết như chia tài sản khi ly hôn.

Đối với trường hợp trên, quan hệ hôn nhân của chị với người chồng trước không được khôi phục do đó tài sản trước khi quyết định của Tòa án về việc tuyên người chồng trước là đã chết có hiệu lực thì tài sản đó được coi là tài sản chung của vợ chồng và được giải quyết như việc chia tài sản khi anh chị ly hôn.

  1. Tài sản đã được chia thừa kế

Khoản 3 Điều 73 Bộ luật dân sự 2015 quy định: Người bị tuyên bố là đã chết mà còn sống có quyền yêu cầu những người đã nhận tài sản thừa kế trả lại tài sản, giá trị tài sản hiện còn.

Trường hợp này, nếu như tài sản của người chồng trước của chị đã được chia thừa kế, nếu như người chồng này có đơn yêu cầu các thừa kế trả lại tài sản đã nhận thừa kế cho mình thì các đồng thừa kế phải trả lại tài sản đã được nhận cho người này.

Trên đây là ý kiến tư vấn của FDVN liên quan đến yêu cầu tư vấn của Quý Khách trên cơ sở nghiên cứu các quy định pháp luật. Hy vọng ý kiến tư vấn của FDVN sẽ hữu ích cho Quý Khách.

                                                                                              Nguyễn Thị Thảo – Công ty Luật FDVN

……………………………………………………………………………………………………………………………

Luật sư tại Đà Nẵng: 

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Phú Quốc:

65 Hùng Vương, thị trấn Dương Đông, huyện đảo Phú Quốc.

Website: www.fdvn.vn    www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Bài viết liên quan