Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TUYỂN TẬP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

TUYỂN TẬP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

FDVN tiếp tục chia sẻ bộ tài liệu “TUYỂN TẬP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY” do các Luật sư/Chuyên viên pháp lý của FDVN biên soạn, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích nghiên cứu, học tập và công tác. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích khác bất hợp pháp.

MỤC LỤC

Tổng hợp 22 Bản án và Quyết định Giám đốc thẩm

về các tội danh liên quan đến ma túy

STT

BẢN ÁN SỐ

TRANG

Bản án số 06/2017/HS-PT ngày 12/1/2017

Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Lường Văn P 24 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án (được trừ 14 ngày tạm giữ, tạm giam).

Sau khi tuyên án bị cáo Lường Văn P kháng cáo đối với Bản án với nội dung:

Tòa án nhân dân huyện K xử phạt bị cáo 24 tháng tù là quá nặng vì trong quá trình điều tra bị cáo đã tố giác tội phạm khác, giúp Cơ quan điều tra khám phá vụ án ma túy khác. Hơn nữa bị cáo còn có bệnh HIV giai đoạn cuối, do đó bị cáo kháng cáo yêu cầu áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ cho bị cáovà cho bị cáo được hưởng án treo theo quy định của pháp luật.

Cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Lường Văn P 12 (mười hai) tháng tù, được trừ 14 ngày tạm giữ, tạm giam thời gian còn lại 11 tháng 16 ngày bị cáo phải thi hành tiếp. Thời hạn tù tính từ ngày tự nguyện đi chấp hành án hoặc bị bắt chấp hành án.

1-5

Bản án số 12/2017/HSST ngày 23/5/2017

Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết giảm nhẹ: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự. Khi gặp tổ công tác Công an thành phố Tam Điệp bị cáo đã tự giác giao nộp 02 gói ma túy do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm o khoản 1 điều 46 Bộ luật Hình sự; Bố bị cáo là thương binh loại A, thương tật 4/4, nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 điều 46 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết tăng nặng: Năm 2014 bị cáo bị Tòa án nhân dân thành phố Ninh Bình xử phạt 27 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” chấp hành xong hình phạt tù ngày 12.05.2016. Nay bị cáo lại phạm tội mới khi chưa được xóa án do đó lần phạm tội này là tái phạm được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự

Cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo 27 (Hai mươi bẩy) tháng tù. Thời gian phạt tù tính từ ngày 13.02.2017.

6-10

Bản án số 28/2017/HSST ngày 17/5/2017

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo đã thành khẩn khai báo; bố đẻ bị cáo có thành tích xuất sắc trong chiến đấu được tặng bằng khen, huy chương – Là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Về hình sự: Xử phạt bị cáo Đỗ Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam giữ 25/02/2017.
  •  Về hình phạt bổ sung: Phạt bị cáo Đỗ Văn H 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng) nộp ngân sách Nhà nước do bị cáo phạm tội nhằm thu lợi bất chính.

11-15

Bản án số 374/2017/HS-PT ngày 24/7/2017

Về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Huỳnh Duy Tuấn K 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 19/9/2016. Buộc bị cáo Huỳnh Duy Tuấn K phải nộp phạt bổ sung số tiền 10.000.000 (mười triệu) đồng để sung quỹ nhà nước..

Cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, Xử phạt bị cáo Huỳnh Duy Tuấn K 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 19/9/2016.

16-20

Bản án số 414/2017/HS-PT ngày 07/8/2017

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Phạm Thị Lệ Th (Gái) tử hình. Bị cáo bị bắt giam từ ngày 26/01/2013. Tiếp tục tạm giam bị cáo để bảo đảm thi hành án.
  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc S tù chung thân. Bị cáo bị bắt tạm giam từ ngày 28/01/2013.
  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phong Tr (Hiền) 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 28/01/2013.
  • Xử phạt: Bị cáo Dương Ngọc Th2 (Thảo ma) 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 26/02/2013.

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đề nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Ngọc S, bị cáo Tr. Và các bị cáo có đơn kháng cáo.

Cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận đơn kháng cáo của bị cáo Phạm Thị Lệ Th (Gái) và bị cáo Dương Ngọc Th2 (Thảo Ma); chấp nhận một phần kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (mặc dù bị cáo thành khẩn khai báo, tích cực giúp Cơ quan điều tra nhanh chóng vụ án và phát hiện nhiều tội phạm khác, nhưng bị cáo Ngọc S gây hậu quả đặc biệt nguy hiểm cho xã hội); sửa một phần bản án sơ thẩm.

  • Xử phạt: Bị cáo Phạm Thị Lệ Th (Gái) tử hình; thời hạn giam tính từ ngày

26/01/2013. Tiếp tục tạm giam bị cáo Phạm Thị Lệ Th (Gái) để bảo đảm thi hành án.

  •  Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thị Ngọc S tử hình; thời hạn giam tính từ ngày 28/01/2013. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Thị Ngọc S để bảo đảm thi hành án.
  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Phong Tr (Hiền) 20 (hai mươi) năm tù. Thời hạn tù

tính từ ngày 28/01/2013. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nguyễn Phong Tr (Hiền) để bảo đảm thi hành án.

  • Xử phạt: Bị cáo Dương Ngọc Th2 (Thảo Ma) 16 (mười sáu) năm tù. Thời

hạn tù tính từ ngày 26/02/2013. Tiếp tục tạm giam bị cáo Dương Ngọc Th2 (Thảo Ma) để bảo đảm thi hành án.

21-32

Bản án số 08/2017/HS-ST ngày 26/12/2017

Về tội “Lôi kéo người khác sử dụng trái phép chất ma túy”.

Bị cáo Nguyễn Hải Q là người chuẩn bị chất ma túy, dụng cụ sử dụng chất ma túy và chủ động tìm địa điểm sử dụng chất ma túy, trực tiếp rủ rê lôi kéo bị cáo Th cùng sử dụng chất ma túy, bị cáo Q vừa là người khởi xướng vừa là người thực hành giữ có vai trò chính trong vụ án. Còn bị cáo Th vừa là người bị lôi kéo nhưng cũng là người thực hành chủ động gọi thêm người khác đến để cùng sử dụng ma túy, tính chất phạm tội ít nghiêm trọng , nên có vai trò sau bị cáo Q.

Tình tiết tăng nặng: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự Tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo Nguyễn Hải Q khi bị phát hiện đã bỏ chạy, nhưng ngay sau đó đã đến cơ quan công an đầu thú khai bào thành khẩn, nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Bị cáo Bùi Đức Th sau khi bị bắt quả tang đã thành khẩn khai báo, tại phiên tòa tỏ ra ăn năn hối cải. Bị cáo phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hải Q 12( Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt đi thi hành án, trừ đi những ngày bị tạm giữ, tạm giam (từ ngày 28/5/2017 đến ngày 16/11/2017).
  • Xử phạt: Bị cáo Bùi Đức Th 09 (Chín) tháng tù, cho hưởng án treo. Thời gian thử thách 18 (Mười tám) tháng kể từ ngày tuyên án sơ thẩm (26/12/2017).

33-39

Bản án số 87/2017/HSST ngày 12/09/2017

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thật thà khai báo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa tỏ rõ được sự ăn năn hối hận. Gia đình bị cáo là gia đình có công với cách mạng, có bố và ông nội đều tham gia kháng chiến, hiện đang thờ cúng liệt sỹ nên bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ.

Cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt Bị cáo Nguyễn Đức T: 7( bảy) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/3/2017.

40-45

Bản án số 295/2018/HS-PT ngày 06/6/2018

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt: Bị cáo Vũ Xuân N tù chung thân, thời hạn tù tính từ ngày 29/10/2014; phạt bổ sung 100.000.000đ (một trăm triệu đồng);
  • Xử phạt: Bị cáo Lê Đức T tù chung thân, thời hạn tù tính từ 28/10/2014, phạt bổ sung 100.000.000d (một trăm triệu đồng).
  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế M 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2014; phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng);
  • Xử phạt: Bị cáo Đào Mạnh H 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/10/2014; phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị đề nghị tăng hình phạt lên tử hình đối với hai bị cáo Vũ Xuân N, Lê Đức T. Và các bị cáo có đơn kháng cáo.

Cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện Trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hồ Chí Minh (do Tòa án cấp sơ thẩm xác định sai hàm lượng ma túy); sửa một phần bản án sơ thẩm.

  • Xử phạt: Xử phạt bị cáo Vũ Xuân N tử hình, bị cáo bị bắt giam ngày 29/10/2014, tiếp tục tạm giam bị cáo theo lệnh giam ngày 06/6/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh;
  • Xử phạt: Bị cáo Lê Đức T tù chung thân, thời hạn tù tính từ 28/10/2014;
  • Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Thế M 17 (mười bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 28/10/2014;
  • Xử phạt: Bị cáo Đào Mạnh H 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 29/10/2014; phạt bổ sung 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng).

46-57

Bản án số 54/2018/HS-ST ngày 28/09/2018

Về tội “Sản xuất trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo thật thà khai báo, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa tỏ rõ được sự ăn năn hối hận. Bị cáo chưa có tiền án, tiền sự. Thời giant ham gia nghĩa vụ quân sự được giấy khen của Viện Y học Hải Quân. Có bố đẻ được tặng huân chương kháng chiến. Bị cáo khai sản xuất cần sa chỉ để sử dụng cho bản thân để phòng chống bệnh ung thư vì bản thân bị cáo được đào tạo về y sỹ tại Viện Y học Hải quân.

Cấp sơ thẩm tuyên: xử phạt bị cáo Đỗ Xuân H 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ, ngày 03-5-2018.

58-65

Bản án số 432/2018/HS-PT ngày 28/6/2018

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt: Bị cáo Hạng A D tử hình.
  • Xử phạt: Bị cáo  Hạng A P tù chung thân. Hạn tù tính từ ngày 24/9/2017.

Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

66-71

Bản án số 68/2019/HS-PT ngày 22/01/2019

Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:  Xử phạt Bị cáo Phan Anh T 30 tháng tù; Thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giam, tạm giữ 16/3/2016 đến ngày 06/9/2016 và thời gian áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh từ ngày 06/9/2016 đến ngày 19/7/2018.

Bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tòa phúc thẩm cho rằng hình phạt đối với bị cáo mà cấp sơ thẩm tuyên là có phần nghiêm khắc. Toà án cấp sơ thẩm có thiếu sót khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ cho bị cáo đó là áp dụng thiếu tình tiết người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, cần rút kinh nghiệm.

Cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Phan Anh T 28 tháng 06 ngày tù trừ thời gian tạm giam, tạm giữ từ ngày 16/3/2016 đến ngày 06/9/2016 và thời gian áp dụng biện pháp bắt buộc chữa bệnh từ ngày 06/9/2016 đến ngày 19/7/2018. Xác nhận bị cáo đã chấp hành xong hình phạt tù.

72-78

Bản án số 35/2019/HS-PT ngày 22/02/2019

Về tội “Mua bán dụng cụ dùng vào việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:  Xử phạt bị cáo Nguyễn Th M 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo để thi hành án.

Bị cáo kháng cáo xin hưởng án treo.

Tòa phúc thẩm cho rằng mặc dù bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tuy nhiên việc bị cáo không chấp hành hình phạt tù sẽ gây ảnh hưởng đến công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm tại địa phương, đặc biệt là các tội phạm về ma túy đang gia tăng và diễn biến phức tạp.

Cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

19-83

Bản án số 115/2019/HSPT ngày 13/03/2019

Về tội “Vận chuyển trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:  Xử phat bị cáo Ngô Tuấn ̣ A tử hình.

Bị cáo giữ nguyên kháng cáo, đề nghị được xem xét giảm hình phạt từ tử hình xuống tù chung thân.

Khi quyết định hình phạt tù, Tòa án cấp sơ thẩm đã đánh giá tính chất đặc biệt nghiêm trọng về hành vi phạm tội của bị cáo, trọng lượng chất ma túy bị cáo vận chuyển; xem xét nhân thân, áp dụng tình tiết giảm nhẹ để xử phạt bị cáo tử hình là có căn cứ pháp luật. Tại phiên tòa phúc thẩm, xét bị cáo không có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt nào mới nên không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo.

Cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Ngô Tuấn A tử hình. Tiếp tục tạm giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

84-88

Bản án số 09/2019/HS-ST ngày 19/03/2019

Về tội “Trồng cây cần sa”.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa. Bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nên bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự.

Cấp sơ thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Trương Minh T 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 17-10-2018).

89-93

Bản án số 231/2019/HS-PT ngày 23/04/2019

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:  Xử phat bị cáo Nguyễn Đình S tử hình

Mặc dù bị cáo có tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng nhưng khối lượng chất ma túy Heroin thu giữ trong vụ án là 09 bánh, tương đương 2.428,7 gam (Hai nghìn bốn trăm hai mươi tám phẩy bẩy gam) Heroin tinh chất, gấp hơn 24 lần định lượng quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì vậy, mức hình phạt tử hình mà bản án sơ thẩm áp dụng với bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình S hình phạt tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

94-98

Bản án số 330/2019/HS-PT ngày 07/08/2019

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên:  Xử phat bị cáo Nguyễn Đình S tử hình

Mặc dù bị cáo có tình tiết giảm nhẹ, không có tình tiết tăng nặng nhưng khối lượng chất ma túy Heroin thu giữ trong vụ án là 09 bánh, tương đương 2.428,7 gam (Hai nghìn bốn trăm hai mươi tám phẩy bẩy gam) Heroin tinh chất, gấp hơn 24 lần định lượng quy định tại điểm b khoản 4 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999. Vì vậy, mức hình phạt tử hình mà bản án sơ thẩm áp dụng với bị cáo là phù hợp, tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đình S hình phạt tử hình. Tiếp tục giam bị cáo để đảm bảo thi hành án.

99-103

Bản án số 17/2019/HS-ST ngày 06/09/2019

Về tội “Tội mua bán trái phép chất ma túy” và tội “Chiếm đoạt chất ma túy”.

Về tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa các bị cáo thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình nên được hưởng 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51/BLHS năm 2015; bị cáo T có bác ruột là Đường Văn T4 được Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tặng thưởng huy chương chiến sĩ vẻ vang nên được hưởng thêm 01 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt Nguyễn Văn C 08 (tám) năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/02/2019.
  • Xử phạt bị cáo Đường Văn T 07 (bảy) năm tù về “Tội mua bán trái phép chất ma túy” và 01 (một) năm tù về “Tội Chiếm đoạt chất ma túy”. Thời hạn tù tính từ ngày 19/02/2019.

104-118

Bản án số 58/2019/HS-ST ngày 27/11/2019

Về tội “Tội mua bán trái phép chất ma túy”.

Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo Trương Văn Q phải chịu tình tiết “Phạm tội 02 lần trở lên” quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS vì đã nhiều lần thực hiện việc mua ma túy từ P và S, giao ma túy cho Đ để bán lại và bán lại ma túy cho L. Về tình tiết giảm nhẹ: Các bị cáo cùng được hưởng tình tiết giảm nhẹ: “Thành khẩn khai báo” quy định tại s khoản 1 Điều 51 BLHS; Hoàng Đình Đ và 6 Trương Văn L đã khai nhận hành vi bán ma túy cho các đối tượng nghiện nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ là: “Tự thú” quy định tại điểm r khoản 1 Điều 51 BLHS. Bị cáo Q và L có mẹ là người được tặng Huân chương kháng chiến là tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS. Trương Văn L là bị cáo có vai trò thấp nhất, có nhiều tình tiết giảm nhẹ lại có hoàn cảnh gia đình khó khăn, 03 con đang còn nhỏ vì vậy, cần xem xét áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để xem xét xử phạt bị cáo dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề để tạo cơ hội cho bị cáo phấn đấu, tu dưỡng sớm trở về với cộng đồng để cùng vợ chăm sóc, nuôi dưỡng các con.

Cấp sơ thẩm tuyên:

  • Xử phạt bị cáo Trương Văn Q: 15 (mười lăm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/3/2019.
  • Xử phạt bị cáo Hoàng Đình Đ: 07 (bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/3/2019.
  • Xử phạt bị cáo Trương Văn L: 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/3/2019.

119-126

Bản án số 771/2019/HS-PT ngày 28/11/2019

Về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

Cấp sơ thẩm tuyên: xử phạt Nguyễn Thị H: 42 (bốn mươi hai) tháng tù.

Hạn tù tính từ ngày 17/11/2018.

Bị cáo kháng cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Tòa án cấp sơ thẩm đã xử phạt bị cáo 42 tháng tù là có phần nghiêm khắc. Tại cấp phúc thẩm bị cáo cung cấp tài liệu gia đình có ông ngoại có công với cách mạng. Để đảm bảo sự công bằng về hình phạt đối với các bị cáo khác trong vụ án; Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo H

Cấp phúc thẩm tuyên: Xử phạt Nguyễn Thị H 30 (ba mươi) tháng tù. Hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam ngày 17/11/2018.

127-132

Quyết định Giám đốc thẩm số 04/2019/HS-GDT ngày 21/01/2019

Về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào Biên bản bắt người phạm tội quả tang ngày 23/01/2018, Bản tự khai của Sùng Nủ D, Bản tự khai của Đào Văn T, Biên bản hỏi cung bị can Sùng Nủ D ngày 02/02/2018, Biên bản ghi lời khai của Sùng Nủ D ngày 23/01/2018, thể hiện việc bị cáo Sùng Nủ D đã sử dụng nhà riêng thuộc quyền quản lý của mình để cho Đào Văn T sử dụng trái phép chất ma túy. Hành vi đó của bị cáo D đã phạm vào tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 256 BLHS năm 2015, cấp sơ thẩm không xem xét là bỏ lọt tội.

Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định:

Chấp nhận Kháng nghị giám đốc thẩm số 118/QĐ-VC2 ngày 16/10/2018 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 26/2018/HS-ST ngày 13/6/2018 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Đắk Lắk và Quyết định số 29/2018/HSPT-QĐ ngày 31/8/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh ĐăkLăk để điều tra lại đối với bị cáo Sùng Nủ D, theo hướng truy cứu bổ sung tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định tại Điều 256 Bộ luật hình sự.

133-136

Quyết định Giám đốc thẩm số 43/HS-GDT ngày 23/12/2013

Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Trong phiên xét xử sơ thẩm, Tòa án cấp sơ thẩm đã tổng hợp một tội cho hai lần là không đúng quy định của pháp luật. Trong vụ án này Phạm Thị Hương Giang bị Công an huyện Thanh Trì bắt tạm giam ngày 11/01/2012 và được thay đổi biện pháp ngăn chặn ngày 18/01/2012, nhưng Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội không trừ thời gian tạm giam này cho bị cáo là thiếu sót.

Tòa Hình sự Tòa án nhân dân tối cao quyết định:

Hủy bản án hình sự sơ thẩm số 06/2013/HSST ngày 08/01/2013 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội đối với Phạm Thị Hương Giang về phần quyết định: “Tổng hợp hình phạt này với hình phạt 03 năm tù tại bản án số 126 ngày 8.9.2011 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Trì, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung cho cả hai bản án là 21 (hai mốt) năm tù” để tiến hành việc tổng hợp hình phạt của nhiều bản án đối với Phạm Thị Hương Giang theo đúng quy định của pháp luật.

137-140

Quyết định Giám đốc thẩm số 05/2016/HS-GDT ngày 16/06/2016

Về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng”.

Trong vụ án này, Nguyễn Ngọc A bị kết án về hai tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Tòa án cấp phúc thẩm chỉ nhận định về việc ra quyết định trưng cầu giám định hàm lượng chất ma túy đối với tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, nhưng lại quyết định hủy bản án sơ thẩm về hai tội “Mua bán trái phép chất ma túy” và “Tàng trữ trái phép chất ma túy” đối với bị cáo Nguyễn Ngọc A là không đúng.

Tòa án nhân dân tối cao quyết định:

Hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 140/2015/HSPT ngày 28-10-2015 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về phần quyết định đối với Nguyễn Ngọc A; chuyển 4 hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

141-144

LINK TẢI TÀI LIỆU: TUYỂN TẬP 22 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÁC TỘI PHẠM VỀ MA TÚY

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

45C Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàng Kiếm, thành phố Hà Nội

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan