FDVN tiếp tục chia sẻ bộ tài liệu “TUYỂN TẬP 22 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM YÊU CẦU HỦY HỢP ĐỒNG THẾ CHẤP/BẢO LÃNH TẠI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG” do các Luật sư, Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm và tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ mục đích công tác, nghiên cứu và học tập. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích khác bất hợp pháp.
MỤC LỤC
Tổng hợp các bản án yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp/bão lãnh tại các tổ chức tín dụng
STT |
TÊN VĂN BẢN |
SỐ TRANG |
01 |
Bản án số 47/2020/DS-PT
Về tranh chấp Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Hợp đồng thế chấp Quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định cá biệt của cơ quan, tổ chức. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Lâm Đồng Cấp xét xử: Phúc thẩm Ngân hàng Thương mại cổ phần xuất nhập khẩu V (E) cho bà Lý Thị Ph vay số tiền là 200.000.000 đồng, thời hạn 9 tháng giải ngân, có tài sản bảo đảm theo hợp đồng thế chấp là quyền sử dụng đất. Trong quá trình vay vốn, bà Ph đã vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo thỏa thuận. Vì vậy Ngân hàng khởi kiện yêu cầu giải quyết buộc bà Ph trả tiền gốc và lãi, đồng thời đề nghị tiếp tục duy trì hợp đồng thế chấp. Quá trình giải quyết vụ án, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan còn có những yêu cầu khác. Tòa án cấp sơ thẩm: – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng TMCP Xuất nhậpkhẩu Việt Nam – Chi nhánh Đ – Phòng giao dịch Đ về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” với Bà Lý Thị Ph: Buộc bà Ph phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ (gốc và lãi) cho ngân hàng; Tuyên hủy một phần và tiếp tục duy trì một phần hợp đồng thế chấp đã ký giữa bà Ph và Ngân hàng. – Không chấp nhận yêu cầu độc lập của Vợ chồng ông Đơng Gur Ha N, bà Phi Srôn K’G về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông, bà với Bà Lý Thị Ph – Chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông Bon Niang H, bà Đơng Gur K’B về việc công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa Vợ chồng ông Đơng Gur Ha N, bà Phi Srôn K’G với vợ chồng ông Bon Niang H, bà Đơng Gur K’B – Không chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông Trần Bá K, bà Trần Thị Tuyết H về việc yêu cầu công nhận hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa vợ chồng ông, bà với Vợ chồng ông Đơng Gur Ha N, bà Phi Srôn K’G. Ngày 25/11/2019 Vợ chồng ông Đơng Gur Ha N, bà Phi Srôn K’G có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm: Chấp nhận yêu cầu độc lập của vợ chồng ông Đơng Gur Ha N, bà Phi SRôn K’Srăng. Đồng thời, hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ngân hàng thương mại cổ phần xuất nhập khẩu V và bà Lý Thị Ph. |
01 – 16 |
02 |
Bản án số 207/2019/DS-PT
Về Tranh chấp quyền sử dụng đất, yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Cấp xét xử: Phúc thẩm Tranh chấp quyền sử dụng đất của vợ chồng ông K, bà Đ với vợ chồng ông T, bà N, yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của vợ chồng ông T, bà N, yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp giữa vợ chồng ông T, bà N… Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của vợ chồng ông C, bà X. – Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; – Buộc vợ bị đơn trả lại các diện tích đất; – Giao quyền sở hữu nhà và tài sản; – Buộc thanh toán giá trị tài sản; – Hủy một phàn hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông T, bà N và ngân hàng TMCP A và các quyết định khác về án phí,… Ngân hàng TMCP A và bị đơn ông T, bà N kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng TMCP A, giữ nguyên bản án sơ thẩm. |
17 – 29 |
03 |
Bản án số 378/2019/DS-PT
Về việc Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng thế chấp. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp Cấp xét xử: Phúc thẩm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất là vi phạm hợp đồng chuyển nhượng giữa anh P và chị H nên hợp đồng thế chấp giữ chị H và Ngân hàng với chị H đã xâm phạm trực tiếp đén quyền và lợi ích hợp pháp của anh P. Vì vậy, anh P yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng, không yêu cầu giải quyết hậu quả của việc hủy hợp đồng. Sau đó, anh P có đơn khởi kiện bổ sung yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp này. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu của anh P về việc yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất giữa anh P và chị H, hợp đồng thế chấp thế chấp giữa chị H và Ngân hàng A. Sau khi có bản án sơ hẩm.Anh P kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của anh H, sửa bản án sơ thẩm; hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng thế chấp giữa chị H và Ngân hàng. |
30 – 44 |
04 |
Bản án số 54/2019/DS-PT
Về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất, hợp đồng thế chấp Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Nông Cấp xét xử: Phúc thẩm Chị Th khởi kiện yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp tài sản là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất giữa ông Tr, bà T với Ngân hàng A vì không được sự đồng ý của các thành viên trong hộ gia đình, yêu cầu hủy kết quả bán đấu giá tài sản và bồi thường thiệt hại phát sinh từ hành vi bán đấu giá tài sản trái pháp luật. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của chị Th về việc hủy hợp đồng thế chấp tài sản, hủy kết quản bán đấu giá tài sản, trả lại tài sản đã thế chấp, A tỉnh Đắk Nông làm thủ tục xóa thế chấp. Sau bản án sơ thẩm, A tỉnh Đắk Nông, công tu L và anh K kháng cáo, đều đề nghị sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của của A tỉnh Đắk Nông, Công ty L, anh K và kháng nghị của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Gia Nghĩa, sửa bản án dân sự sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của chị Th về việc yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp tài sản và phụ lục hợp đồng thế chấp; hủy một phần bản án sơ thẩm về việc hủy kết quả đấu giá và hợp đồng mua bán tài sản đấu giá. |
45 – 55 |
05 |
Bản án số 43/2019/DS-PT
Về việc tranh chấp “Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và chia tài sản thừa kế là nhà ở, quyền sử dụng đất” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tiền Giang Cấp xét xử: Phúc thẩm Bà H khởi kiện ông Tr, bà T với các yêu cầu: – Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH.685319 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/02/2007 cho ông Nguyễn Xuân Tr diện tích 255,8m2. – Hủy hợp đồng thế chấp tài sản số 010-201358A/HĐBL ngày 22/11/2013 mà ông Nguyễn Xuân Tr đã ký với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh khu công nghiệp M. – Chia tài sản là di sản thừa kế là nhà ở và quyền sử dụng đất nêu trên thành 09 kỷ phần, mỗi kỷ phần trị giá 166.666.666 đồng. Bà H xin nhận toàn bộ tài sản và hoàn lại giá trị cho 08 người khác. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị H về việc: Hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AH.685319 do Ủy ban nhân dân huyện C cấp ngày 13/02/2007 cho ông Nguyễn Xuân Tr diện tích 255,8m2; Hủy hợp đồng thế chấp tài sản số 010-201358A/HĐBL ngày 22/11/2013 mà ông Nguyễn Xuân Tr đã ký với Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh khu công nghiệp M; Chia tài sản di sản thừa kế là quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất nêu trên thành 09 phần, mỗi phần trị giá 166.666.666 đồng. – Không chấp nhận yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Văn O, Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị L, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Minh T, Nguyễn Xuân Tr, Nguyễn Thị Mộng T, Nguyễn Thị H2, Nguyễn Thị Ngọc L, Nguyễn Thị H3 về việc: Yêu cầu chia tài sản chung. Sau bản án sơ thẩm, nguyên đơn Nguyễn Thị H, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Nguyễn Thị Ngọc L, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị L kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm yêu cầu chấp nhận khởi kiện của nguyên đơn và yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, ngĩa vụ liên quan. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà Nguyễn Thị H, Nguyễn Thị H1, Nguyễn Thị Ngọc L, Nguyễn Thị L. Giữ nguyên bản án sơ thẩm mà cấp sơ thẩm đã tuyên. |
56 – 64 |
06 |
Bản án số 11/2019/DS-PT
Về việc tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh Cấp xét xử: Phúc thẩm Anh H1 yêu cầu bà H2 giao trả nhà và đất. Không đồng ý yêu cầu phản tố của bà H2. Đối với yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Tây Ninh, anh H1 đồng ý theo yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh H1 đối với bà Đặng Thị H2 về việc “Tranh chấp về hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Chấp nhận yêu cầu phản tố của bà Đặng Thị H2 đối với anh Nguyễn Văn H1. Tuyên bố hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa anh Nguyễn Văn H1 và bà Đặng Thị H2 là vô hiệu. Bà Đặng Thị H2 được quyền sử dụng phần nhà xây tường mái ngói. Bà Đặng Thị H2 được cấp lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà gắn liền với đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Buộc bà Đặng Thị H2 có nghĩa vụ trả cho anh Nguyễn Văn H1 số tiền vay là 386.025.000 đồng Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn Việt Nam – Chi nhánh tỉnh Tây Ninh đối với anh Nguyễn Văn H1, chị Nguyễn Thị O về việc “Tranh chấp hợp đồng tín dụng”. Tuyên hủy hợp đồng thế chấp và phụ lục hợp đồng thế chấp. Nguyên đơn H1 kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự |
65 – 72 |
07 |
Bản án số 06/2019/DS-ST
V/v “Tranh chấp về quyền sở hữu tài sản và yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp”; “Tranh chấp về thừa kế tài sản”; “Tranh chấp hợp đồng dân sự”. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Dầu Tiếng , tỉnh Bình Dương Cấp xét xử: Sơ thẩm Ông A khởi kiện yêu cầu chia phần đất trên thành 03 phần cho bà R, ông A và ông L, yêu cầu hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông L, bà M, ông O, ông I và bà B1 với Ngân hàng X. Đồng thời công nhận căn nhà tình nghĩa và phần đất khoảng 10.000 m2 đất gò để ông A kê khai đăng ký quyền sử dụng đất cho ông A. Do ông A và bà R đã cất nhà cư ngụ và trồng cao su trên phần đất tại thửa đất số 315 nên ông A yêu cầu được chia phần tài sản chung tại thửa đất này. Ông A đồng ý chia cho ông L tiếp tục sử dụng phần đất tại thửa đất số 927 tờ bản đồ số 21. Trên thửa đất số 927 có tài sản là căn nhà cấp bốn và cây trồng do ông L và bà M tạo lập nên ông A không tranh chấp. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp về tài sản” của ông A đối với ông L và bà M; Chấp nhận yêu cầu khởi kiện “Tranh chấp về thừa kế tài sản” của các ông bà B, C, D, K, B9, E, F, G, H đối với ông L và bà M – Đình chỉ xét xử đối với yêu cầu khởi kiện tranh chấp về thừa kế tài sản của ông A đối với ông L và bà M. – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện tranh chấp hợp đồng tín dụng của công ty N đối với ông L và bà M. |
73 – 92 |
08 |
Quyết định giám đốc thấm số 03/2019/GĐT-KDTM
Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng. Cấp xét xử: Giám đốc thẩm Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất, trả lại giấy chứng nhận quyền sử dụng đất” Tranh chấp hợp đồng tín dụng giữa ngân hàng thương mại cổ phần Đ, chi nhánh K và ông Nguyễn H – Giám đốc Doanh nghiệp tư nhân G, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là ông Trần Huy N, bà Lâm Thị D. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận đơn khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần Đ-Chi nhánh K, đơn đề ngày 20 tháng 7 năm 2015. Sau bản án sơ thẩm, Ngân hàng TMCP Đ, bà Lâm Thị D kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Hủy toàn bộ bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm số 04/2015/KDTM-ST ngày 17/9/2015 của Tòa án nhân dân thành phố K; Chuyển hồ sơ cho cấp sơ thẩm để giải quyết lại vụ án theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm thụ lý lại vụ án, quyết định: – Đình chỉ một phần đơn khởi kiện của Ngân hàng TMCP Đ. Chấp nhận đơn khởi kiện về việc: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” của Ngân hàng TMCP Đ, đơn đề ngày 20/7/2015. – Không chấp nhận yêu cầu độc lập của ông Trần Huy N và bà Lâm Thị D về việc “huỷ hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất số 01/2014/HĐ ngày 20/6/2014 giữa ông Trần Huy N và bà Lâm Thị D với Ngân hàng TMCP Đ, Chi nhánh K, yêu cầu trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông N, D kháng cáo toàn bộ bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Không chấp nhận đơn kháng cáo của ông N, bà D. Giữ nguyên bản án sơ thẩm. Sau bản án phúc thẩm, ông N, bà D có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm hủy Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm và Bản án kinh doanh, thương mại sơ thẩm nêu trên để giải quyết lại vì cả hai bản án này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi của Ông, Bà. Tòa án nhân dân cấp giám đốc thẩm: không chấp nhận quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, tiếp tục hiệu lực bản án phúc thẩm đã tuyên. |
93 – 101 |
09 |
Bản án số 02/2019/KDTM-PT
V/v “Tranh chấp hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế chấp QSDĐ và tài sản gắn liền với đất” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước Cấp xét xử: Phúc thẩm Ngân hàng Thương mại cổ phần S – H, chi nhánh Bình Phước cho vợ chồng ông Trương Đình L, bà Nguyễn Thị H vay số tiền gốc 1.500.000.000 đồng, thời hạn vay tính từ ngày 19- 5-2014 đến ngày 15- 01-2016 trả nợ, lãi suất trong thời hạn vay là 11,5%/năm và được điều chỉnh 03 tháng một lần, lãi suất nợ quá hạn bằng 150% của lãi suất trong thời hạn vay và lãi suất phạt chậm trả bằng 150% của lãi suất trong thời hạn vay. Mục đích vay tiền của bà H, ông L để kinh doanh thu mua mủ cao su, theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh hộ kinh doanh cá thể số 4408007210 Ngày 15-4-2009 mang tên ông Trương Đình L. Khi vay tiền của SHB Bình Phước, bà H, ông L và ông Nguyễn Đình T, ông Nguyễn Hữu N, bà Trịnh Thị N2, anh Nguyễn Hữu N3 đã thế chấp cho SHB Bình Phước các tài sản để đảm bảo nghĩa vụ trả nợ. SHB yêu cầu Tòa án nhân dân huyện B giải quyết buộc ông L, bà H trả cho SHB số tiền nợ còn lại này. Nếu bà H, ông L không trả được nợ thì xử lý các tài sản đã thế chấp để thu hồi nợ cho SHB. Người có quyền và lợi ích liên quan yêu cầu hủy bỏ một phần hợp đồng thế chấp. Sau bản án sơ thẩm, bà H, anh N3 kháng cáo Tòa án nhân dân phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị H về việc đề nghị nguyên đơn Ngân hàng Thương mại cổ phần S – H (tên viết tắt: SHB) không tính lãi phát sinh đối với khoản nợ phải trả; Chấp nhận kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Nguyễn Hữu N3 về việc hủy Hợp đồng thế chấp giữa bên nhận thế chấp Ngân hàng Thương mại cổ phần S – H; bên thế chấp ông Nguyễn Hữu N, bà Trịnh Thị N2 và bên được bảo đảm ông Trương Đình L, bà Nguyễn Thị H. |
102 – 114 |
10 |
Bản án số 633/2018/DS-PT
V/v Tranh chấp QSH tài sản; Tiền thuê nhà và HĐ tín dụng. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh Cấp xét xử: Phúc thẩm Bà Q khởi kiện khởi kiện yêu cầu công nhận căn nhà số V, đường T, phường U, quận B là tài sản của bà vì bà là người mua, trả tiền cho chủ nhà và nhận nhà nhưng bà để cho con gái là bà Đỗ Thị Tuyết M đứng tên. Bà Q yêu cầu hủy giấy chuyển nhượng quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở, xác lập chủ quyền căn nhà cho bà Q; hủy hợp đồng thế chấp đối với căn nhà và đất do bà Đỗ Thị Tuyết M đã thế chấp cho Ngân hàng TMCP A; yêu cầu Bà M trả lại tiền cho thuê nhà tính từ tháng 01/2011 đến tháng 02/2018 là 86 tháng và yêu cầu tất cả những người đang ở trong căn nhà trên phải ra khỏi nhà để trả lại nhà cho bà Q. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Vũ Thị Q. Sau khi bà Q kháng cáo thì Tòa án cấp phúc thẩm tuyên hủy bản án dân sự sơ thẩm, yêu cầu xét xử lại. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm xét xử lại: chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, hủy giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất, hủy hợp đồng thế chấp,… Sau bản án sơ thẩm, bà Q, Bà M, Ngân hàng TMCP A, Công ty TNHH X đều có đơn kháng cáo. Tòa án nhan dân cấp phúc thẩm: chấp nhận yêu cầu tháng cáo của bà Q, một phần yêu cầu kháng cáo của Ngân hàng TMCP A; Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà M, công ty TNHH X. |
115 – 135 |
11 |
Bản án số 150/2018/DS-PT
Về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy hợp đồng thế chấp”. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Đắk Lắk Cấp xét xử: Phúc thẩm Hộ gia đình ông Y B1 Niê tự ý tách thửa đất đã chuyển nhượng cho ông Y B, bà K và sau đó lại đi thế chấp vay vốn tại Ngân hàng nên ông Y B Niê khởi kiện. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận đơn yêu cầu khởi kiện và một phần yêu cầu khởi kiện bổ sung của nguyên đơn. Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Giám đốc ngân hàng B chi nhánh Bắc Đắk Lắk kháng cáo một phần bản án sơ thẩm đã tuyên. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của ngân hàng B. |
136 – 148 |
12 |
Bản án số 62/2018/DS-PT
V/v Tranh chấp quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất; Huỷ Quyết định cá biệt và tranh chấp Hợp đồng tín dụng Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Cấp xét xử: Phúc thẩm Ông N phát hiện bà T( đại diện công ty T) có hành vi gian dối, lợi dụng vào hợp đồng ủy quyền để chiếm đoạt tài sản của ông. Do vậy, để ngăn chặn hành vi trên của bà T, ngày 25/10/2011 ông đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền bằng đơn miễn tín nhiệm người được ủy quyền gửi Văn phòng Công chứng Q, đồng thời báo cho bà T biết nhưng bà T vẫn cố tình dùng hợp đồng ủy quyền để ký hợp đồng mua bán quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở cho ông Phạm Ngọc S vào ngày 28/10/2011 tại Văn phòng công chứng T, thành phố Đà Nẵng mà không báo cho ông biết. Ông N đã có đơn khởi kiện đến cơ quan có thẩm quyền. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Thanh N đối với Công ty T; Chấp nhận một phần yêu cầu độc lập của người có quyền và lợi ích liên quan (Ngân hàng A) đối với Công ty T: Hủy Hợp đồng ủy quyền công chứng, chứng thực giữa (bên ủy quyền) ông Nguyễn Thanh N và (bên được ủy quyền) bà Thái Thị Ngọc T; Hủy Hợp đồng mua bán quyền sở hữu nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Hủy Hợp đồng mua bán quyền sở hữu nhà và chuyển nhượng quyền sử dụng đất; Hủy toàn bộ quyết định chỉnh lý biến động sang tên; Hủy Hợp đồng thế chấp bằng tài sản của bên thứ ba; Công nhận nhà đất ở của ông Nguyễn Thanh N; Buộc Công ty T trả tiền cho Ngân hàng A. Sau bản án sơ thẩm, Ngân hàng A có đơn kháng cáo không đồng ý quyết định của bản án sơ thẩm về Hợp đồng thế chấp tài sản đảm bảo nợ vay tín dụng. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng A; giữ nguyên bản án sơ thẩm. |
149 – 163 |
13 |
Bản án số 41/2018/DSPT
V/v tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bạc Liêu Cấp xét xử: Phúc thẩm Hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất nêu trên bị vô hiệu là do lỗi của các bên, vì không đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất tại Cơ quan nhà nước có thẩm quyền và pháp luật chưa cho phép cá nhân thế chấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho nhau và thực tế có tài sản trên đất nhưng không thể hiện việc thế chấp tài sản gắn liền trên đất khi chứng thực tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện V, tỉnh Bạc Liêu. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lê Văn T và bà HuỳnhThị N đối với bà Trương Thị C về việc tranh chấp hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất; Hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất giữa ông T với bà C, ông S, bà L. Ông Lê Văn T và bà Huỳnh Thị N kháng cáo bản án sơ thẩm Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của ông Lê Văn T, bà Huỳnh Thị N; giữ nguyên bản án sơ thẩm mà tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên xử. |
164 – 170 |
14 |
Bản án số 34/2018/DS-ST
V/v tranh chấp hợp đồng dân sự vay tài sản. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Tịnh Biên – tỉnh An Giang Cấp xét xử: Sơ thẩm Quỹ tín dụng nhân dân B cho ông Lê Văn H và bà Trần Thị Thanh D vay số tiền 500.000.000 đồng, thời hạn vay 13 tháng, lãi suất trong hạn 1,3%/tháng, lãi suất nợ quá hạn 1.95%/tháng, thời hạn trả cuối cùng ngày 27/9/2014. Trong quá trình vay vốn phía ông Lê Văn H và bà Trần Thị Thanh D không có trả lãi và vốn cho Quỹ tín dụng, hiện còn nợ tiền vốn vay là 500.000.000 đồng và tiền lãi tính từ ngày 27/8/2013 đến ngày 18/7/2018 (ngày xét xử) là 542.533.000đ, cộng chung vốn lãi là 1.042.533.000đ (một tỷ không trăm bốn mươi hai triệu năm trăm ba mươi ba ngàn đồng). Ông Lê Văn H và bà Trần Thị Thanh D đã vi phạm hợp đồng, không thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ vay khi đến hạn và không trả tiền lãi như đã thỏa thuận, Quỹ tín dụng nhân dân B khởi kiện yêu cầu thanh toán nợ. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Quỹ tín dụng nhân dân B, buộc ông H và bà D trả tiền vay vốn và lãi. Hủy hợp đồng thế chấp tài sản của khách hàng vay vốn hoặc bảo lãnh với bên thứ ba. |
171 – 176 |
15 |
Bản án số 01/2018/KDTM-PT
V/v: “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Cấp xét xử: Phúc thẩm Ngân hàng S cho vợ chồng ông Vũ Ngọc V và bà Trịnh Thị H1 vay số tiền 3.000.000.000 đồng để góp vốn kinh doanh, thời hạn vay 12 tháng, lãi suất vay 1,8%/tháng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: – Tuyên bố hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay vô hiệu – Hủy đăng ký thế chấp quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất; – Buộc vợ chồng ông V, bà H1 phải trả cho Ngân hàng TMCP số tiền nợ gốc, bồi thường thiệt hại. Trường hợp ông V không thi hành án thì Ngân hàng có quyền yêu cầu cơ quan thẩm quyền phát mãi tài sản. – Bản án sơ thẩm chưa buộc UBND phường bồi thường thiệt hại, chưa xem xét yêu cầu của Công ty cổ ohaanf HP đã gửi trong quá trình sử dụng. Ngân hàng TMCP S kháng cáo công nhận hiệu lực của Hợp đồng tín dụng và Hợp đồng thế chấp tài sản bảo đảm nợ vay. Ông Vũ Ngọc V kháng cáo yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc Công ty cổ phần HP phải chịu trách nhiệm trả nợ cho Ngân hàng TMCP S theo cam kết bảo lãnh. Tiền phạt do hợp đồng tín dụng vô hiệu thì nguyên đơn phải chịu. Công ty cổ phần HP kháng cáo với nội dung: Yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm buộc Ngân hàng thương mại cổ phần S phải trả lại 203.700.000 đồng cho Công ty cổ phần HP và bác phần quyết định của bản án sơ thẩm đối với nghĩa vụ bảo lãnh của Công ty cổ phần HP. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn Ngân hàng TMCP S và kháng cáo của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Công ty cổ phần HP. Chấp nhận một phần kháng cáo của bị đơn ông Vũ Ngọc V và một phần Kháng nghị số 899/KNPT-KDTM ngày 04 tháng 10 năm 2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Quảng Ngãi, sửa bản án sơ thẩm. |
177 – 190 |
16 |
Bản án số 01/2018/DS-PT
V/v tranh chấp quyền sở hữu nhà và đất, hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và hủy hợp đồng thế chấp tài sản Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng Cấp xét xử: Phúc thẩm Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: – Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Đăng K và bà Ngô Thị X đối với ông Nguyễn Thanh D. – Công nhận ngôi nhà cấp 4 số 5 tại 128 đường N3, tổ 197, phường H2, quận L2, thành phố Đà Nẵng thuộc quyền sở hữu của bà Ngô Thị X và các đồng thừa kế của ông Nguyễn Đăng K gồm bà Ngô Thị X, bà Nguyễn Thị Tố L, bà Nguyễn Thị Thanh T1, bà Nguyễn Thị Mỹ V, ông Nguyễn Hòa H, ông Nguyễn Thanh C, bà Nguyễn Thị Liên H1, bà Nguyễn Thị Tường V2, ông Nguyễn Thanh D (trong đó 1/2 giá trị nhà đất thuộc sở hữu của bà Xuân và 1/2 giá trị nhà đất thuộc sở hữu của các đồng thừa kế của ông Khoa). – Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà và tài sản khác gắn liền với đất đã cấp cho ông D, bà T. – Buộc bà Ngô Thị X và các đồng thừa kế của ông Nguyễn Đăng K có nghĩa vụ liên đới thối trả cho ông Nguyễn Thanh D tổng số tiền 182.821.602 đồng. – Hủy Hợp đồng thế chấp tài sản giữa Ngân hàng N Việt Nam (Phòng giao dịch A – Chi nhánh quận S, TP Đà Nẵng) với ông Nguyễn Thanh D, bà Võ Thị Thanh T. -. Buộc ông Nguyễn Thanh D có nghĩa vụ trả cho Ngân hàng N Việt Nam (Phòng giao dịch A – Chi nhánh quận S, TP Bị đơn ông D và bà T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Sửa một phần quyết định của Bản án dân sự sơ thẩm về: công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. |
191 – 203 |
17 |
Bản án số 184/2017/DSPT
V/v tranh chấp “Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và Hợp đồng tín dụng” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân thành phố Cần Thơ Cấp xét xử: Phúc thẩm Ông E và bà F chuyển nhượng cho ông T các thửa đất tổng cộng là 6.632 m2 với giá chuyển nhượng là 6,9 lượng vàng 24 K. Đà giao cho ông T quản lý nhưng sau khi ông T mất thì xảy ra tranh chấp. Bà A (vợ ông T) cùng những người con là các đồng nguyên đơn thống nhất yêu cầu phía bị đơn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng để sang tên quyền sử dụng đất trên cho gia đình. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: – Buộc ông Nguyễn Văn E và Bà Nguyễn Thị F phải tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị A. – Buộc ông E và bà F phải trả cho Ngân hàng số nợ tính đến ngày 14/6/2017 gồm: Nợ gốc 300.000.000 đồng và tiền lãi quá hạn 489.122.877 đồng. Đồng thời bị đơn phải trả lãi phát sinh từ ngày 15/6/2017 theo các Hợp đồng tín dụng đã ký. – Hủy Hợp đồng thế chấp tài sản ngày 03/6/2009 được ký kết giữa ông E và bà F với Ngân hàng. Ngân hàng phải giao trả cho ông E Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Sau bản án sơ thẩm, Ngân hàng kháng cáo yêu cầu giữ nguyên hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất đã ký giữa Ngân hàng với ông E, bà F; ông E và bà F kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của Ngân hàng Thương mại Cổ phần ABC và kháng cáo của ông Nguyễn Văn E và bà Nguyễn Thị F. Giữ nguyên bản ánsơ thẩm. |
204 – 209 |
18 |
Bản án số 58/2017/DSPT
V/v: “Tranh chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà”. Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bình Định Cấp xét xử: Phúc thẩm Bà D khởi kiện tranh chấp quyền sử dụng đất và sở hữu nhà ở. Nhà và đất đang tranh chấp hiện vợ chồng anh Bùi A.T đang quản lý, sử dụng có diện tích 66,5m2 (theo đo đạc thực tế là 65,26m2). Trong thời gian Tòa án đang thụ lý giải quyết tranh chấp vụ án, vợ chồng chị Bùi Thị A.T chuyển nhượng quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở trên cho anh trai chị T là anh Bùi A.T. Sau đó, anh Bùi A.T thế chấp quyền sử dụng đất và quyền sở hữu nhà ở nơi đang tranh chấp cho Ngân hàng TMCP N Việt Nam – Chi nhánh P để vay số tiền 350.000.000đồng, theo hợp đồng tín dụng và hợp đồng thế chấp tài sản. Tòa án nhân đân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà D, xác nhận mảnh đất tranh chấp là tài sản hợp pháp của vợ chồng bà D. Theo đó, Tòa án quyết định hủy các hợp đồng liên quan tới ảnh đất này. Sau khi có bản án sơ thẩm, ông V.T đại diện Ngân hàng TMCP N Việt Nam kháng cáo đề nghị xem xét hợp đồng thế chấp tài sản giữa Ngân hàng với anh Bùi A.T là hợp pháp vì đã được công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Xét thầy Tòa án cấp sơ thẩm có những vi phạm trong thủ tục tố tụng và việc giải quyết vụ án, quyết định hủy bản án sơ thẩm và yêu cầu Tòa án cấp sơ thẩm xét xử lại theo đúng quy định của pháp luật. |
210 – 225 |
19 |
Bản án số 32/2017/DS-ST
V/v “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu Cấp xét xử: Sơ thẩm Tranh chấp hợp đồng chuyển nhường quyền sử dụng đất. Ông C1 khởi kiện đề nghị Tòa án: Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụngđất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất số BN 647151 do UBND thành phố V cấp ngày 07-02-2013 cho ông Nguyễn Đình T2. Yêu cầu ông T1, ông L2 tiếp tục thực hiện hợp đồng chuyển nhượng đất cho ông để ông được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Trần Ngọc C1 về việc “Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất” với ông Võ Văn T1, ông Võ Văn L2. Ông C1 được quyền sử dụng đất và hủy các hợp đồng và Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. |
226 – 239 |
20 |
Bản án số 09/2017/KDTM-PT
V/v “T/c hợp đồng vay tài sản; Yêu cầu hủy hợp đồng tín dụng, hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; Yêu cầu bồi thường thiệt hại” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tỉnh An iang Cấp xét xử: Phúc thẩm Ngân hàng TMCP Xăng Dầu P – Chi nhánh An Giang và ông Phạm Thành B, bà Phạm Thị M có ký hợp đồng tín dụng cho ông B và bà M vay 700.000.000 đồng. Ngân hàng TMCP Xăng dầu P đã giải ngân toàn bộ số tiền vay theo hợp đồng tín dụng của ông B. Trong quá trình thực hiện hợp đồng, ông Phạm Thành B và bà Phạm Thị M đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán lãi từ ngày 26/03/2012. Ngân hàng TMCP Xăng dầu P đã nhiều lần yêu cầu thanh toán nợ gốc và lãi nhưng phía ông B và bà M không thực hiện. Nay, ngân hàng TMCP P yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng Thương mại cổ phần Xăng Dầu P đối với ông Phạm Thành B, bà Phạm Thị M. Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của ông Phạm Thành B, bà Phạm Thị M đối với Ngân hàng thương mại cổ phần xăng dầu P. Hủy hợp đồng thế chấp quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất 0980.AG/HĐTC/PGB ngày 11/08/2011, giữa Ngân hàng Thương mại cổ phần Xăng Dầu P chi nhánh An Giang với ông Phạm Thành B. Sau bản án sơ thẩm, nguyên đơn và bị đơn đều kháng cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm: – Đình chỉ kháng cáo của của ông B và bà M về việc yêu cầu Ngân hàng trả tiền; – Không chấp nhận kháng cáo của ông B và bà M về việc tuyên hợp đồng tín dụng vô hiệu; – Công nhận hiệu lực của hợp đồng thế chấp giữa ông Phạm Thành B và Ngân hàng TMCP Xăng dầu P. |
240 – 253 |
21 |
Bản án số 03/2017/DS-ST
V/v: “Tranh chấp hợp đồng thế chấp QSDĐ” Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân huyện Đắk Mil – tỉnh Đắk Nông Cấp xét xử: Sơ thẩm Ngân hàng NN và PTNT Việt Nam chi nhánh tỉnh Đắk Nông, phòng giao dịch Đ với ông Bùi Xuân N và bà Ngô Thị Lệ N (là bố mẹ đẻ anh A) có ký hợp đồng thế chấp tài sản để vay số tiền 300.000.000 đồng. Khi ông N, bà N khi ký hợp đồng thế chấp, anh A vào thời điểm đó đã trên 15 tuổi nhưng không biết, không được hỏi ý kiến, không có văn bản ủy quyền ký hợp đồng thế chấp. Vì vậy anh yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng thế chấp và phụ lục hợp đồng thế chấp kèm theo hợp đồng thế chấp. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm chấp nhận đưn khởi kiện của anh A, tuyên hủy hợp đồng thế chấp và các nghĩa vụ khác. |
254 – 260 |
22 |
Quyết định giám đốc thẩm số 14/2016/KDTM-GĐT
Vụ án tranh chấp hợp đồng tín dụng Cơ quan xét xử: Tòa án nhân dân tối cao Cấp xét xử: Giám đốc thẩm Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn là Ngân hàng thương mại cổ phần V với bị đơn là Công ty TNHH thương mại dịch vụ K và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là Ngân hàng N, Công ty TNHH Đ, Công ty TNHH thương mại dịch vụ V, Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh P, ông Nguyễn Hồ T, bà Nguyễn Thị A, bà Vương Kiều Y, ông Nguyễn Văn M, bà Võ Thị B. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phúc thẩm: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng V, buộc Công ty K phải thanh toán số nợ gốc 180.451.830.105 đồng, nợ lãi trong hạn 4.358.279.752 đồng và nợ lãi quá hạn 60.744.037.022 đồng. Các nhận định và vấn đề liên quan đến nghĩa vụ bão lãnh không xem xét và có sai sót, chưa làm rõ mâu thuẫn lời khai giữa các đương sự. Tòa án nhân dân cấp giám đốc thẩm: Chấp nhận Quyết định kháng nghị số 10/2016/KN-KDTM ngày 07/3/2016 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao. Hủy toàn bộ Bản án kinh doanh, thương mại phúc thẩm và sơ thẩm. Giao hồ sơ vụ án cho Toà án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm đúng quy định của pháp luật. |
261 – 277 |
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại Quảng Ngãi:
359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi
Luật sư tại Hà Nội:
45C Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàng Kiếm, thành phố Hà Nội
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0935 643 666 – 0906 499 446
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/