TRANH CHẤP DI SẢN THỪA KẾ LIÊN QUAN ĐẾN ĐẤT KHÔNG CÓ GIẤY CHỨNG NHẬN QUYỀN SỬ DỤNG?
Ban án thực tế về tranh chấp di sản thừa kế liên quan đến đất không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; Bản án số 23/2017/DS-PT ngày 25/09/2017 về việc tranh chấp di sản thừa kế của tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 29/9/2014 và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn là bà Đào Thị Đ, ông Đào Xuân H, bà Đào Thị H, ông Đào Xuân T (ông T còn là người đại diện theo ủy quyền cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Hoàng Trung D và anh Hoàng Kim S) trình bày:
Cụ Đào Văn Đ, sinh năm 1917, chết ngày 28/9/1987 và cụ Lê Thị B, sinh năm 1921, chết ngày 14/9/2013. Cụ B và cụ Đ chết không để lại di chúc. Cụ Đ và cụ B sinh được 08 người con gồm: Đào Xuân T1; Đào Thị Đ; Đào Xuân T; Đào Thị L; Đào Thị N; Đào Xuân H; Đào Mạnh H; Đào Thị H. Bà Đào Thị L chết ngày 29/8/2003 có chồng là ông Hoàng Trọng D, chết ngày 23/8/1999 và ba con là: Hoàng Thị H, chết ngày 25/5/2008; Hoàng Trung D; Hoàng Kim S.
Về nguồn gốc đất tranh chấp: Khoảng năm 1965 cụ Đ và cụ B có mua của ông Nguyễn Văn M 01 thửa đất ở tại thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hưng Yên, diện tích khoảng 1.500 m2, có chiều dài phía đông dài khoảng 20m; phía tây dài khoảng 20m, phía nam dài khoảng 80m; phía bắc dài khoảng 80 m. Thửa đất này được thể hiện tại thửa 96, bản đồ số 6, bản đồ 299 năm 1987.
Năm 1987, cụ Đ chết, cụ B tiếp tục quản lý toàn bộ thửa đất đó. Bà N không đi lấy chồng nên ở với cụ B. Khoảng năm 2000, cụ B và bà N phá nhà cũ của cụ Đ và cụ B đi và xây hai gian nhà mới để hai mẹ con ở.
Năm 2004, cụ B cho vợ chồng ông T một phần đất ở. Đến năm 2006 vợ chồng ông T đã xây nhà và năm 2009 xây tường bao. Hiện nay vợ chồng ông T vẫn đang quản lý, sử dụng phần diện tích đất cụ B đã cho. Ngoài việc cho vợ chồng ông T đất ở, cụ B còn cho ông H (K) một phần đất giáp đất nhà ông T, không nói rõ diện tích bao nhiêu. Khi ông H (K) đổ đất thì ông T1 không đồng ý nên anh em từ đó phát sinh mâu thuẫn.
Năm 2008, cụ B làm giấy cho đất cho 06 người con là ông T, ông H(K), bà N, bà H, ông H, ông T1. Diện tích đất cụ thể cho mỗi người bao nhiêu không ghi rõ. Do anh em có mâu thuẫn với nhau nên chưa ai làm thủ tục sang tên đất.
Năm 2013, cụ B chết, phần đất ở do bà N và ông T1 quản lý, sử dụng.
Ngoài ra, cụ B còn có hai sào đất nông nghiệp tại cánh Mạ Cả thôn A, xã B, huyện C, Tỉnh Hưng Yên.
Ngày 05/5/2016, ông T có đơn sửa đổi bổ sung đơn khởi kiện yêu cầu: Chia toàn bộ di sản của cụ Đào Văn Đ và cụ Lê Thị B để lại gồm có: một ngôi nhà cấp 4 lợp ngói thuộc bản đồ số 299, thửa số 96, tờ bản đồ số 6, tổng diện tích đất bao gồm đất ở, đất nông nghiệp và tài sản gắn liền với đất 03 hộ đang sử dụng là 2814,7 m2, cụ thể: hộ ông Đào Xuân T sử dụng 386,7m2; bà Đào Thị N sử dụng 530,9m2, hộ ông Đào Xuân T1 sử dụng 1897,1m2.
Bà Đ, ông T, ông H (K), bà H đề nghị Tòa án chia thừa kế toàn bộ tài sản cụ Đ và cụ B để lại gồm 01 thửa đất ở tại thửa số 96, tờ bản đồ số 6, bản đồ 299, do ông T1, ông T, bà N đang quản lý và hai sào đất nông nghiệp do anh G con trai ông T1 đang quản lý cho 08 người con của cụ Đ và cụ B. Đối với bà L hiện đã chết thì chia kỷ phần của bà L được hưởng thừa kế cho các con bà L là anh D và anh S được hưởng. Đối với hai gian nhà và các công trình khác do cụ B và bà N xây, bà Đ không yêu cầu chia thừa kế mà để cho bà N được sử dụng toàn bộ.
Bị đơn là ông Đào Xuân T1 và bà Đào Thị N xác định: Bố mẹ ông, bà đã mất, sinh thời các cụ sinh được tám người con như nguyên đơn trình bày. Cụ Đ, cụ B chết không để lại di chúc, không tặng cho và cũng không chuyển nhượng đất cho ai.
– Bà N trình bày: Diện tích đất mà bà đang quản lý, sử dụng là cụ Đ và cụ B mua của ông M, bà không biết diện tích và chiều dài các cạnh của thửa đất. Sau khi khai sông Tân Hưng, UBND xã B đã chia đất cho cụ Đ và cụ B ở trong thôn A, xã B. Bà và cụ B đã vào trong đó ở một thời gian, sau đó hai mẹ con lại về ở tại thửa đất do cụ Đ và cụ B đã mua của ông M. Hai cụ có tạo lập được một số tài sản gồm hai gian nhà cấp 4 lợp ngói trên tổng diện tích khoảng 100m2 đất, còn bà đã tạo lập được 644m2 đất như hiện nay. Trước đây bố mẹ bà có hai gian nhà xây gạch bằng bùn, do nhà bị hư hỏng nên bà đã xây hai gian nhà cấp 4 lợp ngói. Nay anh chị em trong gia đình yêu cầu chia di sản thừa kế bà không nhất trí vì diện tích đất này là do bà tạo lập, nếu bà không ở thì nhà nước đã thu hồi chứ không còn như hiện nay. Hiện nay thửa đất đang tranh chấp đã đứng tên bà trên sổ sách, bản đồ của xã. Hai sào đất nông nghiệp của cụ B tại cánh Mạ Cả, thôn A, khoảng năm 2009 cụ B cho cháu trưởng là Đào Xuân G, có văn bản giấy tờ gì hay không bà không biết.
– Ông T1 xác nhận quá trình cụ Đ và cụ B mua đất của ông M và đã sử dụng thửa đất này từ khoảng năm 1960 và hai cụ được chia một thửa đất tại thôn thôn A, xã B như trình bày của bà N. Sau khi nhận đất ở trong làng, do là đất thùng vũng còn phải vượt lập nên cụ Đ và cụ B, bà N vẫn ở tại mảnh đất cũ của các cụ không vào trong làng. Cuối năm 1986, thì cụ Đ và cụ B cho ông Đào Mạnh H thửa đất ở trong làng và ông Đào Mạnh H ở từ đó đến nay. Năm 1987, cụ Đ chết, cụ B ở cùng bà N. Cụ B và bà N có cho ông Đào Xuân T một phần đất ở của bà N (không biết diện tích bao nhiêu m2). Ông T đã làm nhà để ở, khi ông T xây tường bao cụ B và bà N không đồng ý nhưng ông T vẫn xây dựng.
Về đất ở: Bố mẹ ông khi chết không còn đất ở, đất ở đang yêu cầu chia thừa kế là của bà N. Về đất nông nghiệp: mẹ ông có 1,7 sào ruộng tại cánh Mạ Cả và đã cho anh G nên khi chết mẹ ông không để lại tài sản gì. Việc các em ông yêu cầu chia thừa kế đất ở và đất ruộng ông không đồng ý.
Người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:
– Ông Đào Mạnh H xác nhận về nguồn gốc đất thổ cư và diện tích đất nông nghiệp như trình bày của nguyên đơn là đúng. Quan điểm của ông H đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
– Anh Đào Văn G trình bày: Anh là con của ông T1, cụ B là bà nội anh. Khi còn sống cụ B cho anh hai sào đất nông nghiệp tại cánh đồng Mạ Cả, thôn A, xã B, huyện C, tỉnh Hưng Yên, hiện nay anh đang quản lý, sử dụng diện tích đất nông nghiệp này. Khi cho anh đất nông nghiệp cụ B chỉ công bố bằng miệng chứ không thiết lập giấy tờ. Anh là không đồng ý chia thừa kế hai sào đất nông nghiệp trên theo yêu cầu của các nguyên đơn.
– Bà Vũ Thị X trình bày: Năm 2004 vợ chồng bà được mẹ chồng bà là cụ Lê Thị B cho một phần diện tích đất thùng vũng. Khi cho chỉ nói bằng miệng, không có văn bản giấy tờ gì. Vợ chồng bà đã tôn tạo, xây nhà và các công trình trên đất được sự ủng hộ của anh em trong gia đình.
Người làm chứng: – Ông Trần Văn D (chủ tịch UBND xã B từ năm 1982- 1986) và ông Đào Xuân M (cán bộ xã B từ năm 1977, từ năm 1983 đến năm 1985 ông giữ chức vụ Phó chủ tịch UBND xã B) xác nhận: có việc Đảng bộ xã B tổ chức họp và vận động các hộ dân sống ở ngoài cánh đồng vào trong làng ở để quy hoạch cánh đồng cho bằng phẳng và làm mương máng. Đảng ủy xã chỉ vận động các hộ dân chứ không mang tính chất bắt buộc và cũng không có văn bản, giấy tờ gì thể hiện.
Ông Đào Xuân M trình bày: Khi thực hiện chính sách dồn dân đối với hộ gia đình cụ Đ và cụ B thì chỉ có cụ B, bà N vào đất ở trong làng ở còn cụ Đ vẫn ở đất các cụ đã mua không về làng. Cụ B và bà N về ở với ông Đào Mạnh H một thời lại quay lại ở cùng cụ Đ trên mảnh đất mua của ông Nguyễn Văn M. Đối với diện tích đất cụ Đ và cụ B mua của ông Nguyễn Văn M, diện tích mua bao nhiêu và các cạnh như thế nào thì UBND xã không xác định được vì thời gian đó các bên chỉ mua bán bằng miệng với nhau không làm thủ tục mua bán tại cơ quan có thẩm quyền. Sau khi khai sông Tân Hưng thì UBND xã đã lấy một phần diện tích đất của cụ Đ và cụ B, diện tích đất của cụ Đ và cụ B không còn nhiều. Khi cụ B và bà N quay lại ở với cụ Đ thì gia đình các cụ đã vượt cạp diện tích đất như hiện nay.
Ủy ban nhân dân xã B cung cấp :
+ Về đất ở: Thửa đất đang tranh chấp nằm tại thửa số 96 tờ bản đồ số 6, bản đồ 299 và sổ mục kê, diện tích 704m2, loại đất đất (T) và Thửa 97 tờ bản đồ số 6, bản đồ 299 năm 1987 do HTX quản lý có diện tích 570 m2, loại đất 2 lúa (đất trồng lúa) không ghi chú sử dụng đất nhưng thực tế cụ Đào Văn Đ và Lê Thị B đang sử dụng mảnh đất này từ trước năm 1987 đến khi hai cụ chết.
Theo đo đạc thực tế diện tích đất nằm tại thửa 96 của cụ Đ, cụ B hiện nay là 669,4m2. Thửa 97 diện tích là 380,9 m2 lý do diện tích đất giảm đi là do có sự biến động trong quá trình sử dụng. Đối với thửa 97 hiện ông T đang sử dụng 386,7m2(trong đó 61,8m2 đất giao thông) và bà N đang sử dụng 56m2.
UBND xã B không lưu giữ bất kỳ giấy tờ, sổ sách nào thể hiện việc năm 1986 vợ chồng cụ Đào Văn Đ và Lê Thị B được UBND xã B cấp đất tại thôn A. Diện tích đất ở, đất nông nghiệp mà hiện nay gia đình ông T, ông T1, bà N đang quản lý, sử dụng nằm trong quy hoạch chung xây dựng nông thôn mới và có thể được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
Đối với diện tích đất nông nghiệp (đất trồng lúa): Hộ bà N gồm hai khẩu là bà N và cụ B. Năm 1993 hộ bà N được chia hai định suất, một định suất của cụ B và một định suất của bà N, mỗi định suất được chia 720m2, 2 định suất bằng 1440m2. Năm 2003 thực hiện việc dồn thửa đổi ruộng hộ bà N được giao sử dụng diện tích đất nông nghiệp theo hồ sơ địa chính của UBND xã B tại thửa 98/31, tờ bản đồ số 11, diện tích 162m2; Thửa 82/5, tờ bản đồ số 11, diện tích 1278m2. Diện tích 1440m2 đất nông nghiệp không trừ vào đất thổ cư (T) và đất hai lúa (2L) theo bản đồ 299 năm 1987 mà cụ Đ và cụ B sử dụng (hộ bà N không có đất thổ cư thừa trừ đất nông nghiệp ngoài đồng). Hiện nay diện tích đất nông nghiệp của hộ bà N còn thiếu 107m2.
Đối với đất giao thông các hộ ông T, bà N, ông T1 đang sử dụng, UBND xã B đề nghị Tòa án buộc các hộ trên trả lại UBND xã. Việc các hộ đã xây dựng nhà, các công trình khác và trồng cây trên đất giao thông UBND xã sẽ xử lý theo thẩm quyền.
Đối với đất ở của ông Đào Mạnh H tại thửa số 26, tờ bản đồ số 9, diện tích 336m2, bản đồ 299 trên sổ mục kê mang tên ông Đào Mạnh H, thửa đất này do UBND xã B cấp cho ông Đào Mạnh H trước năm 1987 (chưa được cấp GCNQSD đất).
Vụ việc được giải quyết ở cả hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm.
Xem bản án chi tiết: Bản án số 23/2017/DS-PT ngày 25/09/2017 về việc tranh chấp di sản thừa kế