Feel free to go with the truth

Trang chủ / Dân sự / TỔNG HỢP BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐA CẤP

TỔNG HỢP BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐA CẤP

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐA CẤP” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐA CẤP

STT

TÊN VÀ NỘI DUNG BẢN ÁN

TRANG

Bản án số 164/2017/KDTM-ST ngày 14/11/2017 về Tranh chấp hợp đồng đại lý và hợp đồng vay tài sản của Tòa án nhân dân quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung:

Về hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp: Bà T1 là nhà phân phối bán hàng đa cấp cho Công ty cổ phần N từ tháng 12/2015. Tháng 4/2016, Bà T1 và lãnh đạo Công ty cổ phần N (sau đây gọi tắt là công ty) đã gặp gỡ trao đổi về việc lên cấp bậc Ruby cho bà . Theo đó, để lên cấp bậc Ruby, Bà T1 phải nộp tổng cộng 29,75 gói kim cương, tổng cộng 2975 mã, mỗi mã giá 9.600.000đ, tương đương số tiền 28.560.000.000đ. Bà T1 sẽ được nhận 2975 mã hàng thực phẩm chức năng, đồng thời được cấn trừ trước các loại hoa hồng của tháng kể từ khi nộp tiền là Bà T1 được cấn trừ hơn 50% giá trị của 2975 gói kim cương tương đương 14.000.000.000đ, hàng tháng hoa hồng của cấp bậc Ruby là 3% hệ thống và 2% doanh thu toàn quốc. Từ ngày 05/4/2016 đến ngày 06/6/2016, Bà T1 đã nộp cho công ty tổng cộng 14.091.600.000đ. Sau khi nộp số tiền này, công ty vẫn chưa chốt được tiền hoa hồng cụ thể để nâng lên cấp bậc Ruby cho bà nên giữa Bà T1 và công ty chưa ký hợp đồng, chưa nhận phiếu nhận hàng. Do vẫn chưa nhận được hoa hồng và hàng hóa như đã thỏa thuận nên Bà T1 đã khởi kiện tại Tòa án buộc công ty phải trả lại cho bà số tiền đã nộp như trên.

Về hợp đồng vay tài sản: Tháng 8/2016 Bà T1 cho công ty vay số tiền 1.000.000.000đ (Một tỷ đồng) trong thời hạn 03 tháng, không thoả thuận lãi, để lo việc công ty và các bên đã giao nhận tiền xong, công ty đã viết phiếu thu ngày 28/8/2016. Đến nay đã quá thời hạn 03 tháng mà công ty vẫn không thanh toán nên Bà T1 khởi kiện yêu cầu công ty phải trả số tiền này.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Đối với yêu cầu 1: Căn cứ vào hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp, biên bản gửi hàng và thẻ hội viên đã có đủ cơ sở xác định giữa nguyên đơn và bị đơn đã giao kết hợp đồng đại lý, trong đó bị đơn là bên giao đại lý, nguyên đơn là bên đại lý. Ngày 19/4/2017, Sở Công thương Thành phố Hồ Chí Minh có Công văn số 3428/SCT-QLXNK cung cấp thông tin về hoạt động bán hàng đa cấp của bị đơn: “Cục quản lý cạnh tranh thông báo về việc đã ban hành Quyết định số 262/QĐ-QLCT ngày 01/11/2016 xử phạt và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp của Công ty cổ phần N. HĐXX nhận thấy từ tháng 4/2016 đến tháng 6/2016 bị đơn đã thu tiền bán hàng của nguyên đơn nhiều lần với tổng số tiền 14.072.400.000 nhưng vẫn không ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với nguyên đơn theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 24 Nghị định số 42/NĐ-CP, đến ngày 01/11/2016 bị đơn bị thu hồi giấy chứng nhận bán hàng đa cấp nên không thể tiếp tục ký hợp đồng tham gia bán hàng đa cấp với nguyên đơn, đây là lỗi của bị đơn.

Đối với yêu cầu 2: Căn cứ Công văn số 7025/PĐKKD-KT ngày 12/9/2017 của Phòng ĐKKD, Sở KH-ĐT, Thành phố HCM về việc cung cấp thông tin doanh nghiệp và tài liệu kèm theo, Công ty cổ phần N đăng ký lần đầu ngày 19/11/2015 và đăng ký thay đổi lần thứ 1 ngày 12/9/2016, cả hai lần đăng ký này người đại diện theo pháp luật của công ty là ông Nguyễn Đ. Do đó, nguyên đơn căn cứ vào giấy vay tiền với số tiền 1.000.000.000đ, thời hạn vay 03 tháng và Phiếu thu ngày 28/8/2016 của Công ty cổ phần N buộc bị đơn phải thanh toán ngay một lần là có cơ sở.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Thỏa thuận nâng lên cấp bậc Ruby giữa nguyên đơ và bị đơn vô hiệu. Buộc bị đơn phải thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực tổng số tiền đã nhận của nguyên đơn 14.072.400.000đ. Buộc bị đơn phải thanh toán một lần ngay sau khi án có hiệu lực cho nguyên đơn số tiền 1.000.000.000đ.

15-21

Bản án số 245/2018/HS-PT ngày 23/04/2018 về Tội Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh

Nội dung: Công ty T1 do H làm giám đốc và vợ là X làm phó giám đốc. Từ 9/2011 đến 26/02/2012, H đã thuê ông Đ2 là người biết lập trình mạng máy tính lập ra 03 sàn giao dịch thương mại điện tử theo mô hình đa cấp không đúng pháp luật chiếm đoạt tài sản của nhiều người bị hại.

Web www.giaodichtructuyen.com.vn tạo ra được nhiều trang cá nhân khác, gọi là “gian hàng”, KH tham gia mua gian hàng và giới thiệu thêm được một lượng người nhất định mua gian hàng sẽ được lên cấp và được nhận tiền hoa hồng, tiền thưởng. Để tham gia, KH phải đóng 3.000.000 đồng để mua một gian hàng và được nhận một tài khoản gồm mã số và mật khẩu để đăng nhập vào website. Để tạo niềm tin cho KH, H đã yêu cầu Đ2 sao chép thông tin, hình ảnh mua bán từ các web khác, tổ chức các buổi hội thảo, tư vấn nhóm, mở thưởng. Vào ngày 06/02/2012, do nhận thấy Công ty T1 có nhiều dấu hiệu sai phạm nên Bộ Công thương đã hủy đăng ký đối với website giaodichtructuyen.com.vn.

Đến tháng 11/2011, H tiếp tục thuê Đ2 lập ra website nhadattaythanh.com.vn – sàn giao dịch ô tô, bất động sản. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Bình Dương xác định H không có ô tô, đất đai để chuyển nhượng cho khách hàng đặt cọc mua đất trên sàn giao dịch ô tô, bất động sản và cũng không liên kết với doanh nghiệp nào kinh doanh ô tô, bất động sản để mua, bán cho khách hàng. Điều này thể hiện yếu tố gian dối nhằm chiếm đoạt tiền của khách hàng.

Đến tháng 12/2011, H thuê Đ2 lập ra website vionline.com – Sàn sim đa năng. Hoạt động giống như 2 web trên chỉ khác là để tham gia, khách hàng phải đóng 1.000.000 đồng (một triệu đồng) để mua một gian hàng.

Quá trình điều tra xác định, Phạm Văn H đã chiếm đoạt của 245 bị hại trên tổng số 1800 người tham gia với tổng số tiền là 5.081.610.000 đồng trong tổng số 50.952.000.000 đồng thu về từ 03 website, số tiền còn lại 45.905.390.000 đồng. H dùng chi trả thưởng theo hệ thống trả thưởng, hoa hồng của 03 website và hoàn trả lại tiền cho một số người tham gia.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn H phạm tội: “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet hoặc thiết bị số thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo H 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 13/8/2014. Buộc người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, bà T nộp lại 79.350.000 đồng, bà Đ nộp lại 74.248.000 đồng, bà D nộp lại 558.650.000 đồng

Tòa án phúc thẩm nhận định: Bị cáo Phạm Văn H đã sử dụng thủ đoạn gian dối lập ra 03 website giao dịch thương mại điện tử gồm giaodichtructuyen.com.vn, nhadattaythanh.com.vn và vionline.com.vn bán các gian hàng thương mại điện tử, kinh doanh bất động sản để hoạt động kinh doanh đa cấp không có giấy phép. Mặc dù không có hàng hóa để bán nhưng bị cáo đã đưa ra các thông tin sai sự thật về hàng hóa, khả năng sinh lời và các phần thưởng giá trị lớn để tạo niềm tin cho người bị hại đóng tiền tham gia. Phán quyết của Tòa án cấp sơ thẩm theo điểm a khoản 4 Điều 226b của Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 là có căn cứ, đúng pháp luật. Bị
cáo đã dùng thủ đoạn tinh vi, tổ chức thực hiện tại nhiều địa bàn trên cả nước với số lượng người bị hại rất lớn, tài sản chiếm đoạt cao, đồng thời gây tâm lý hoang mang cho người kinh doanh, tiêu dùng vào hoạt động thương mại điện tử, gây ảnh hưởng xấu đến kinh tế xã hội. Do vậy, cấp sơ thẩm không áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, đã được sửa chữa, bổ sung năm 2009 cho bị cáo là có cơ sở.

Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm.

22-33

Bản án số 51/2018/HS-ST ngày 16/08/2018 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Ninh

Nội dung: Từ 9/2014 – 10/2015 T đã thành lập và làm Chủ tịch HĐQT, tổng giám đốc 03 công ty đã được cấp GCNĐKKD nhưng không được Bộ Công thương cấp giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Nhưng trong quá trình kinh doanh, Nguyễn Thị T đã có thủ đoạn gian dối, tổ chức quảng cáo, giới thiệu Công ty Vi được hoạt động kinh doanh đa cấp. Đồng thời, T đưa ra các chế độ, quy định hưởng hoa hồng, trả thưởng trực tiếp cho những người tham gia để lôi kéo mọi người nộp tiền vào Công ty Vi để T chiếm đoạt tài sản. Công ty Vi của T hoạt động dưới hình thức, T ký hợp đồng đại lý để thông qua đó giới thiệu lôi kéo người tham gia nộp tiền mua mã sản phẩm trở thành cộng tác viên, để phân phối sản phẩm hoặc giới thiệu người tham gia trực tiếp nộp tiền tại Công ty. Để được ký hợp đồng trở thành cộng tác viên và hưởng các loại hoa hồng của Công ty Vi do T chi trả, thì người tham gia phải mua một mã sản phẩm của Công ty trị giá là 7.210.000đ (trong đó 220.000đ tiền mua tài liệu, 6.990.000đ gọi là tiền mua thực phẩm chức năng của Công ty). Song song với việc trả hoa hồng, T còn đưa ra các chính sách trả thưởng, tri ân theo từng giai đoạn cho các Cộng tác viên. Thực hiện việc lôi kéo người tham gia và để lấy tiền người tham gia sau trả hoa hồng cho người tham gia trước và thực hiện chiếm đoạt tài sản. T đã tổ chức các buổi hội thảo lớn, hoành tráng tại Hà Nội và các văn phòng đại lý, giới thiệu sai sự thật.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Thực chất hoạt động kinh doanh của T là dụ dỗ, lôi kéo, vận động người khác tham gia mua mã sản phẩm để lấy tiền người sau trả cho người trước và chiếm hưởng các loại tiền hoa hồng theo mô hình kim tự tháp do T lập ra và quy định. Với các hành vi trên, đủ căn cứ xét xử bị cáo Nguyễn Thị T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự năm 1999. Bị cáo chiếm đoạt của 387 bị hại với số tiền lớn trên 08 tỷ đồng nên phạm vào tình tiết tăng nặng “Phạm tội nhiều lần” quy định tại ddiemr g khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự. Về tình tiết giảm nhẹ: Xét thấy, bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; sau khi phạm tội bị cáo đã tác động gia đình để nộp 300.000.000đ bồi thường một phần cho những người bị hại, mặc dù số tiền nộp so với số tiền chiếm đoạt là nhỏ, tuy nhiên hiện gia đình bị cáo đang đi ở thuê nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 46 BLHS; trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa ngày hôm nay bị cáo đều thành khẩn nhận tội; ăn năn hối cải về hành vi của mình; tại phiên tòa, một số người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; Bố bị cáo được thưởng Huân chương kháng chiến. Do vậy, bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 bộ luật hình sự.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo T phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thị T 14 (mười bốn) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giữ, tạm giam 26/02/2016. Buộc bị cáo T phải bồi thường cho 385 bị hại tổng số tiền 10.636.155.000 đồng, xác nhận bị cáo đã nộp 300.000.000 đồng và 25.230.000 đồng của ông B và bà L nộp trả cho bị cáo, bị cáo tiếp tục phải bồi thường là 10.310.925.000 đồng. (Cụ thể gồm danh sách bồi thường cho 385 bị hại và công nhận không yêu cầu bồi thường của 02 bị hại). Buộc 19 người được hưởng lợi từ công ty Vi phải nộp lại số tiền được hưởng lợi với tổng số tiền là 1.257.175.000 đồng trả lại cho bị cáo T. Buộc 05 nhân viên của công ty Vi phải nộp lại tiền lương, thưởng tổng cộng 269.000.000 đồng trả lại cho bị cáo T. Tịch thu tiêu hủy 01 con dấu của Công ty Vi. Tạm giữ số tiền 325.230.000 đồng để bảo đảm thi hành án.

34-49

Bản án số 52/2018/DS-ST ngày 13/11/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Ngày 03/10/2014, anh L có ký Hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty T do ông C làm Chủ tịch HĐQT đại diện. Sau khi ký kết hợp đồng anh L đã đóng tiền nhiều lần vào Công ty, mỗi lần đóng tiền nhân viên Công ty lại viết Phiếu thu tiền và phiếu đặt hàng, mỗi lần anh L lấy hàng ra thì Công ty lại thu lại số phiếu tương ứng. Ngày 03/10/2015, Hợp đồng hợp tác bán hàng chấm dứt, tính đến thời điểm này anh L đã đóng tiền theo hoá đơn và phiếu đặt hàng mà anh chưa lấy hàng hoá ra, vẫn còn lưu gửi Công ty (tương ứng với phiếu thu và phiếu đặt hàng) mà anh đã nộp theo đơn khởi kiện, tổng số tiền là: 1.260.488.000 đồng. Quá trình tham gia hệ thống bán hàng đa cấp của Công ty đã thanh toán cho anh L được số tiền 625.400.000 đồng là tiền tri ân khách hàng theo chính sách của Công ty đề ra. Ngày 05/11/2016 và ngày 08/12/2016 ông Nguyễn Văn C đã triệu tập và chủ trì 02 cuộc họp tại Thành phố Hồ Chí Minh thông báo bằng miệng với các cộng tác viên là Công ty đã được đổi tên là Công ty ANG. Trên thực tế, Sở KH-ĐT tỉnh Bắc Giang cung cấp thì Công ty không hề thay đổi hay sát nhập gì với Công ty ANG mà Công ty ANG là một công ty khác. Sau khi được thông báo thay đổi tên Công ty anh L liên tục liên lạc với ông C nhưng không liên lạc được.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Xét Hợp đồng Hợp tác bán hàng:

  • Về hình thức: Hai bên ký hợp đồng hợp tác bán hàng được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên khi giao kết, phù hợp theo quy định tại Điều 401 của Bộ luật dân sự năm 2005.
  • Về nội dung: Hợp đồng không quy định rõ các nội dung về: Tên, công dụng, cách thức sử dụng, giá bán, các điều kiện và phạm vi bảo hành (nếu có), chính sách đổi, mua lại hàng hóa nên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 42/2014/NĐ-CP của Chính phủ. Anh L khi tham gia ký kết hợp đồng chỉ nhằm nộp tiền vào Công ty để được hưởng hoa hồng chứ không nhằm mục đích bán sản phẩm là hàng hóa của Công ty hoặc xây dựng hệ thống. Thực tế, anh L không nhận hàng của Công ty mang đi bán để tạo doanh số cho mình do đó công ty đã vi phạm điểm p khoản 1 Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP.

Như vậy, xét về mục đích và nội dung thì hợp đồng Hợp tác bán hàng giữa Công ty T và anh L trái với quy định của pháp luật và bị vô hiệu theo quy định tại Điều 122, Điều 123, Điều 128, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005. Căn cứ khoản 2 Điều 137 Bộ luật dân sự năm 2005 về hậu quả pháp lý của Hợp đồng dân sự vô hiệu, xét thấy yêu cầu của anh L về việc đòi số tiền còn nợ lại theo phiếu đặt hàng là 1.260.488.000 đồng là có căn cứ.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố Hợp đồng Hợp tác bán hàng giữa Công ty T và anh L vô hiệu. Buộc Công ty T phải trả cho anh Nguyễn Mạnh L số tiền 1.260.488 đồng.

50-57

Bản án số 66/2018/DS-ST ngày 14/12/2018 về tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh B.

Nội dung: Ngày 03/10/2014, anh L ký Hợp đồng Hợp tác bán hàng với Công ty L, do ông C là Tổng giám đốc đại diện. Anh L đã nộp tổng cộng số tiền 574.600.000 đồng và nhận lại 68 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho còn gọi là phiếu đặt hàng. Công ty cấp cho anh L 01 mã thẻ tên miền: hailinhhd, mật khẩu km123456 để truy cập vào trang Web của công ty và vào mã miền đó thì mới tra cứu được thông tin. Anh L sử dụng 10 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho (trong tổng 68 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho) tương đương với số tiền 84.500.000 đồng để lấy tổng số 10 sản phẩm hàng hóa sau đó được Công ty trả các khoản hoa hồng và lợi ích khác là khoảng 304.300.000 đồng. Khoảng đầu năm 2016, anh L được biết Công ty cổ phần L có sự thay đổi về tên miền Website của Công ty, tuy nhiên Công ty không có văn bản nào thông báo về việc này. Đến tháng 6/2016, Công ty bắt đầu có dấu hiệu không hoạt động, đóng hệ thống lại và không cho cộng tác viên rút tiền từ tài khoản của mình và chặn mọi hoạt động của cộng tác viên không truy cập được vào hệ thống Miền của công ty.

Tòa án sơ thẩm nhận định:

Xét yêu cầu đề nghị tuyên Hợp đồng Hợp tác bán hàng vô hiệu:

  • Về hình thức: Hợp đồng Hợp tác bán hàng được lập thành văn bản, có chữ ký của các bên khi giao kết, phù hợp theo quy định tại điều 401 của Bộ luật Dân sự năm 2005. Tuy nhiên, xét về tư cách chủ thể khi tham gia ký hợp đồng thì thấy: Công ty L có tư cách pháp nhân nhưng tại thời điểm công ty và anh L ký Hợp đồng Hợp tác bán hàng (ngày 03/10/2014) thì Công ty chưa được Cục Quản lý cạnh tranh (nay là Cục cạnh tranh và bảo vệ người tiêu dùng) cấp Giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp. Do vậy, việc Công ty ký hợp đồng với anh L là vi phạm Điều 6, Điều 9 của Nghị định 42/2014/NĐ-CP.
  • Về nội dung: Hợp đồng không quy định rõ các nội dung về: Tên, công dụng, cách thức sử dụng, giá bán, các điều kiện và phạm vi bảo hành (nếu có), chính sách đổi, mua lại hàng hóa nên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Mặt khác, anh L tham gia ký kết hợp đồng chỉ nhằm nộp tiền vào Công ty để được hưởng hoa hồng, không nhằm mục đích bán sản phẩm là hàng hóa của Công ty hoặc xây dựng hệ thống, như vậy vi phạm điểm p khoản 1 Điều 5 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Xét về mục đích và nội dung thì hợp đồng Hợp tác bán hàng giữa Công ty L và anh L trái với quy định của pháp luật và bị vô hiệu theo quy định tại điều 122, Điều 123, Điều 128, Điều 410 của Bộ luật Dân sự năm 2005.

Về yêu cầu của nguyên đơn buộc bị đơn trả số tiền 490. 100.000 đồng, xét theo khoản 2 Điều 137 của Bộ luật Dân sự năm 2005, yêu cầu của anh L về việc đòi số tiền còn nợ lại theo 58 phiếu đặt hàng là 490.100.000 đồng là có căn cứ

Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố Hợp đồng Hợp tác bán hàng giữa Công ty L và anh L là vô hiệu. Buộc Công ty cổ phần L phải trả cho anh Nguyễn Thành L số tiền 490. 100.000 đồng

58-67

Bản án số 15/2019/DS-ST ngày 25/4/2019 về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Ngày 24/4/2015, ông Hải ký hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty Cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam (sau đây gọi là Công ty) do ông Chung làm Tổng giám đốc đại diện. Do Công ty giải thích cho ông về việc tham gia vào hệ thống bán hàng đa cấp của Công ty chỉ là một hình thức đầu tư, người tham gia sẽ đóng tiền vào đó để được hưởng hoa hồng (%) tương ứng với số tiền đã đóng, việc đóng tiền thông qua hình thức mua hàng của Công ty, do vậy ông không có nhu cầu lấy sản phẩm, việc đặt tiền lấy hàng của ông mục đích chỉ để lấy tiền hoa hồng như công ty đã hứa hẹn. Mỗi lần ông nộp tiền, Công ty không lập phiếu thu tiền mà lập phiếu đặt hàng, trên phiếu ghi số lượng hàng, số tiền công ty thu và giao cho ông giữ phiếu này, nếu ông lấy hàng Công ty sẽ thu lại phiếu đặt hàng tương ứng với số hàng ông lấy. Nếu ông không lấy hàng thì ông giữ phiếu đặt hàng của Công ty. Số phiếu đặt hàng ông còn giữ đến tính đến lần đặt mua hàng cuối cùng 28/10/2015 là 234 phiếu, tương ứng với số tiền 2.313.792.000 đồng Công ty Số phiếu đặt hàng ông còn giữ đến tính đến lần đặt mua hàng cuối cùng 28/10/2015 là 234 phiếu, tương ứng với số tiền 2.313.792.000 đồng 2.313.792.000 đồng. Sau này biết Công ty có vấn đề trong hoạt động đa cấp nên ông Hải đã đến gặp ông Chung để yêu cầu chấm dứt hợp đồng nhưng ông Chung từ chối.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Hợp đồng hợp tác bán hàng được ký giữa Công ty và ông Hải về bản chất là kinh doanh bán hàng đa cấp. Tuy nhiên, nội dung Hợp đồng không quy định rõ các nội dung về sản phẩm: Tên, công dụng, cách thức sử dụng, giá bán, các điều kiện và phạm vi bảo hành (nếu có), chính sách đổi, mua lại hàng hóa; cách thức tính tiền hoa hồng, tiền thưởng hoặc lợi ích kinh tế khác mà người tham gia bán hàng nhận được từ hoạt động kinh doanh của mình và của mạng lưới do mình xây dựng; nên đã vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 24 Nghị định 42/2014/NĐ-CP. Mặt khác, ông Hải được Công ty giải thích, hướng dẫn không đúng quy định nên đã tham gia ký kết hợp đồng nhưng mục đích chỉ nhằm nộp tiền vào Công ty để được hưởng hoa hồng chứ không nhằm mục đích bán sản phẩm là hàng hóa của Công ty hoặc xây dựng hệ thống, vi phạm quy định điểm o, khoản 1 Điều 5 Nghị định 42 và quy định tại Điều 10 của Hợp đồng, khi ông Hải yêu cầu lấy lại tiền phía Công ty đã không xem xét giải quyết cho ông Hải là vi phạm quy đinh tại điểm n, khoản 1 Điều 5 và Điều 26 Nghị định 42. Hợp đồng hợp tác vi phạm điều cấm của pháp luật quy định tại Điều 5 Nghị định 42 nên yêu cầu tuyên bố hợp đồng vô hiệu của ông Hải là có căn cứ, cần được chấp nhận, phù hợp với quy định tại Điều 122, Điều 123, Điều 128, Điều 410 Bộ luật dân sự năm 2005.

Theo khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005, cần chấp nhận yêu cầu của ông Hải về việc đòi công ty số tiền 2.313.792.000 đồng, nhưng đối trừ số tiền ông Hải đã nhận nhận hoa hồng từ công ty là 590.578.000 đồng. Cụ thể buộc công ty trả cho ông Hải 1.723.214.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố hợp đồng hợp tác bán hàng giữa Công ty Cổ phần Liên minh Tiêu dùng Việt Nam với
ông Hải vô hiệu. Buộc Công ty Cổ phần Liên minh Tiêu dùng Việt Nam phải trả lại cho ông Hải số tiền 1.723.214.000 đồng.

68-75

Bản án số 29/2019/DS-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự hợp tác bán hàng của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Chồng bà Định là ông Thành có ký hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty liên minh tiêu dùng Việt Nam. . Khi ký hợp đồng chồng bà không phải nộp tiền gì, chỉ trong quá trình hoạt động chồng bà có mua hàng của Công ty. Mọi hoạt động mua bán hàng đều được thực hiện tại Thanh Hóa. Chồng bà đã mua tổng số 100 gói hàng trị giá 1.188.000.000 đồng. Tháng 2/2016 Công ty trả chiết khấu mỗi gói hàng là 800.000 đồng, trị giá của 100 gói hàng x 800.000 đồng = 80.000.000 đồng. Chồng bà đã lấy 07 gói sản phẩm. Ngày 16/11/2016, ông Viện là đại diện cho Công ty có biên bản làm việc với chồng bà và thống nhất Công ty còn nợ chồng bà 93 gói hàng, trị giá là 1.104.840.000 đồng. Nay bà đại diện theo ủy quyền của chồng bà yêu cầu tuyên hợp đồng hợp tác vô hiệu và đề nghị Công ty phải trả cho chồng bà số tiền trị giá của 93 gói hàng.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Ngày 03/10/2016, cục quản lý cạnh tranh – Bộ Công thương có Quyết định về việc xử lý vụ việc cạnh tranh số 252/QĐ-QLCT đối với Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam. Tại Quyết định trên thì Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam đã bị áp dụng hình phạt bổ sung và biện pháp khắc phục là thu hồi giấy chứng nhận đăng ký hoạt động bán hàng đa cấp theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 36 Nghị định 71/2014/NĐ-CP. Bà Lê Thị Định là đại diện theo ủy quyền của ông Thành yêu cầu Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả số tiền trên là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp. Do vậy HĐXX chấp nhận yêu cầu của ông Thành.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Buộc Công ty cổ phần liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả cho ông Lê Đình Thành số tiền 1.104.840.000 đồng

76-84

Bản án số 30/2019/DS-ST ngày 09/07/2019 về tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Ngày 21/10/2014 bà Khuyên ký hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty liên minh tiêu dùng Việt Nam (sau đây gọi là Công ty). Khi ký hợp đồng bà không phải nộp tiền gì, chỉ trong quá trình hoạt động bà có mua hàng của Công ty. Mọi hoạt động mua bán hàng đều được thực hiện tại Thanh Hóa. Ngày 13/04/2015 và ngày 24/01/2016 Công ty ký hợp đồng với chị Ly (con dâu bà Khuyên) và anh Hùng (họ hàng bà Khuyên), thực chất là bà Khuyên mượn CMND của chị Ly và anh Hùng đứng tên, hai người không tham gia bán hàng. Việc bà có mượn CMND của chị Ly và anh Hùng để đứng tên trong các hợp đồng hợp tác vì Công ty tư vấn cho bà, cứ mỗi hợp đồng hợp tác bán hàng đứng tên người mới thì bà là người giới thiệu người mới ký vào hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty thì người mới được hưởng phần trăm tri ân, tức là được chia lợi nhuận cùng Công ty cao hơn. Theo ba hợp đồng bà đứng tên cùng chị Ly và anh Hùng, bà đã bỏ tiền ra mua 116 gói hàng. Bà đã lấy sản phẩm là 79 gói, còn lại 37 gói hàng và 26 lọ dầu cá. Tổng số tiền đến nay Công ty còn nợ bà là 459.126.658 đồng, nay bà yêu cầu Công ty trả cho bà số tiền của trị giá các gói hàng Công ty còn nợ và tiền lãi của số tiền này từ tháng 10/2016 đến khi xét xử sơ thẩm theo lãi suất quy định của pháp luật tại thời điểm xét xử.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Đối với hợp đồng giữa bà Khuyên và Công ty Liên minh tiêu dùng Việt Nam, HĐXX chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khuyên là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014 Quy định chi tiết thi hành một số điều của Nghị định 42/2014/NĐ-CP ngày 14/5/2014 của Chính phủ về quản lý hoạt động bán hàng đa cấp.

Đối với hợp đồng giữa chị Ly, anh Hùng và Công ty Liên minh tiêu dùng Việt Nam, bà Khuyên yêu cầu Công ty trả tiền là không có căn cứ vì bà Khuyên không phải là người trực tiếp ký hợp đồng nên không phát sinh nghĩa vụ với bà Khuyên. Ngoài ra, anh Hùng và chị Ly không có đơn khởi kiện, theo giấy ủy quyền thì anh Hùng và chị Ly có ủy quyền cho bà Khuyên thay mặt anh Hùng, chị Ly nộp đơn khởi kiện và tham gia tố tụng, nhưng đơn khởi kiện bà Khuyên nộp chỉ có chữ ký của bà Khuyên. Do vậy, bà Khuyên yêu cầu Công ty trả số tiền căn cứ vào hai hợp đồng trên không phù hợp với Điều 5 Bộ luật tố tụng dân sự.

Đối với yêu cầu đòi tiền lãi của số tiền 459.126.658 đồng thì thấy: Số tiền này không phải là số tiền bà  Khuyên gửi tại Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam, mà là số tiền tương đương với 37 gói hàng và 26 lọ dầu cá mà bà Khuyên, anh Hùng, chị Ly gửi tại Công ty. Bà Khuyên yêu cầu đòi tiền lãi đối với số tiền trên là không có căn cứ và không phù hợp với qui định tại Điều 280 Bộ luật dân sự.

Đối với số tiền 386.040.000 đồng tương đương với 33 gói hàng theo hai hợp đồng của anh Hùng, chị Ly, nếu có yêu cầu sẽ được giải quyết bằng vụ án dân sự khác.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Buộc Công ty cổ phần liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả cho bà Khuyên số tiền 73.086.685 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Khuyên đối với Công ty cổ phần liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả số tiền 386.040.000 đồng và số tiền lãi của số tiền 459.126.658 đồng.

85-95

Bản án số 48/2019/DS-ST ngày 29/08/2019 về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Do tin tưởng lời giới thiệu của ông Điểm, ông Lâm ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam (gọi tắt là Công ty). Cùng ngày 29/5/2015, ông Lâm đã nộp vào công ty tổng số tiền 988.800.000 đồng để mua 100 gói sản phẩm. Khi ông nộp tiền, Công ty có xuất 100 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho tương đương 100 gói hàng mà ông mua. Trong mỗi hóa đơn ghi rõ số tiền nộp, đơn giá gói hàng, loại hàng mua. Kể từ ngày 29/5/2015 đến ngày 22/6/2015, ông đã lấy 40 gói sản phẩm. Trong ngày 22/6/2015, đại diện của Công ty (ông Môn) nói với các cộng tác viên: để tránh sự kiểm tra của Cục quản lý cạnh tranh Bộ công thương, Cục Thuế, Cơ quan Công an, đề nghị các Cộng tác viên nộp lại toàn bộ số hóa đơn kiêm phiếu xuất kho chưa nhận hàng. Để hợp pháp hóa, Công ty đã làm sẵn các tờ đơn tự nguyện gửi hàng hóa đưa cho các cộng tác viên, coi như các cộng tác viên đã nhận đủ hàng hóa rồi gửi lại công ty – tương đương số hàng mà các cộng tác viên chưa nhận. Do tin tưởng, ông đã nộp lại toàn bộ 60 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho, nhận lại 02 phiếu đề nghị tự nguyện gửi hàng hóa. Sau ngày 22/6/2015, ông Lâm đã rất nhiều lần đến Chi nhánh Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam tại thị trường Thanh Hóa yêu cầu họ trả nốt số hàng còn lại và trả tri ân nhưng đại diện công ty đều khất lần. Do vậy ông Lâm khởi kiện yêu cầu tuyên bố Hợp đồng hợp tác bán hàng vô hiệu, buộc Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam trả số tiền 593.280.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Ông Lâm yêu cầu Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả số tiền 593.280.000 đồng tương đương giá trị của 60 gói hàng đã nộp tiền mua nhưng chưa được Công ty trả hàng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT

Tòa án sơ thẩm tuyên: Buộc Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả ông Lâm số tiền số tiền 593.280.000 đồng .

96-106

Bản án số 56/2019/DS-ST ngày 25/10/2019 về tranh chấp hợp đồng hợp tác bán hàng của Tòa án nhân dân thành phố Bắc Giang, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Ngày 30/6/2015, chị Trang đã ký kết hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty cổ phần liên minh tiêu dùng Việt Nam (gọi tắt là Công ty) và nộp vào công ty tổng số tiền 107.800.000 đồng để mua 11 gói sản phẩm hồng sâm. Mỗi gói sản phẩm có giá trị là 9.888.000 đồng. Khi chị Trang nộp tiền, Công ty có xuất 11 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho tương đương 11 gói hàng mà chị Trang mua. Trong mỗi hóa đơn ghi rõ loại hàng và giá tiền. Sau khi đóng tiền vào Công ty, chị Trang đã lấy 1 sản phẩm và đã giao lại cho Công ty 01 phiếu, còn 10 phiếu đặt hàng chưa lấy nhưng không hề được hưởng bất cứ tri ân hay quyền lợi gì như ông Thành (giám đốc chi nhánh Thanh Hóa của Công ty) nói ban đầu. Thấy có bất thường, chị Trang ra Công ty yêu cầu giao toàn bộ hàng nhưng họ không xuất hàng cũng không trả lại tiền. Chị Trang liên tục đòi nhiều lần nhưng phía Công ty tìm mọi cách từ chối. Do vậy Chị Trang yêu cầu Tòa buộc Công trả chị Trang số tiền 98.880.000 đồng theo 10 hóa đơn kiêm phiếu xuất kho đã nộp.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam đã trả chị Trang một số gói sản phẩm, còn nợ chị Trang 8 gói sản phẩm cao hồng sâm, mỗi gói rị giá 9.888.000 đồng. Chị Trang yêu cầu Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả số tiền 79.104.000 đồng tương đương giá trị của 8 gói hàng đã nộp tiền mua nhưng chưa được Công ty trả hàng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Buộc Công ty cổ phần Liên minh tiêu dùng Việt Nam phải trả chị Lê Thị Trang số tiền 79.104.000 đồng.

107-115

Bản án số 06/2020/DS-ST ngày 18/03/2020 về tranh chấp hợp đồng dân sự của Tòa án nhân dân thành phố B, tỉnh Bắc Giang

Nội dung: Ngày 27/4/2015 bà M có ký Hợp đồng hợp tác bán hàng với Công ty cổ phần X. Sau khi ký hợp đồng, bà M đã mua của Công ty CP X tổng cộng 503 gói hàng với giá 9.888.000đ/ gói, tổng cộng hết 4.973.664.000đ. Sau khi mua thì bà M mới lấy được 66 mã hàng, nhận được một khoản tiền hoa hồng không biết cụ thể là bao nhiêu chứ không nhận đươc quà tri ân như Công ty cam kết là chiếc xe ô tô Camry 2.0. Còn lại 437 mã hàng bà M chưa lấy mà vẫn gửi tại kho của Công ty, Công ty không đưa hàng, không viết hóa đơn mà chỉ đưa cho bà M Đơn tự nguyện gửi hàng hóa. Bà M đã nhiều lần đến Công ty để lấy hàng nhưng Công ty không có hàng trả, bà M cũng nhiều lần yêu cầu công ty phải thanh lý hợp đồng nhưng Công ty vẫn không thực hiện, do đó đến nay giữa bà M và Công ty chưa có biên bản thanh lý hợp đồng. bà M khởi kiện yêu cầu Công ty cổ phần X phải hoàn trả bà M số tiền hàng bà đã đặt mua và gửi tại kho của Công ty là 4.321.056.000đ. Ngày 14/3/2020, bà M có đơn xin rút một phần yêu cầu đối với 234 gói hàng tương đương với số tiền 2.313.792.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm nhận định: Bà M yêu cầu Công ty cổ phần X phải trả số tiền trị giá của 203 gói hàng là phù hợp với quy định tại khoản 2 Điều 16 Nghị định 42/2014/NĐ-CP và điểm c khoản 2 Điều 9 Thông tư số 24/2014/TT-BCT ngày 30/07/2014.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Buộc Công ty cổ phần X phải trả cho bà M số tiền 2.007.264.000 đồng

116-123

Bản án số 466/2020/HS-PT ngày 23/09/2020 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội

Nội dung: Công ty cổ phần dịch vụ và hỗ trợ nhân đạo A (viết tắt là Công ty A) sau khi thành lập, Công ty A không hoạt động sản xuất kinh doanh dịch vụ, hàng hóa và không được cơ quan có thẩm quyền cấp giấy phép thành lập “Quỹ nhân đạo A”hoạt động trong lĩnh vực làm từ thiện. Với mục đích lừa đảo chiếm đoạt tài sản nên T và G (cổ đông sáng lập) đã bàn bạc thành lập: Quỹ hỗ trợ nhân đạo A, thuê thiết kế 01 địa chỉ Website: nhandaoanhminh.com, xây dựng phần mềm quản lý cộng tác viên. T và G đề ra chương trình “Tri ân vàng”, khi tham gia vào chương trình thì được mở một tài khoản IP trong địa chỉ Website: nhandaoanhminh.com của Công ty và người tham gia phải đóng tối thiểu là 900.000 đồng/01 mã, để được tham gia, hưởng chương trình hỗ trợ của Công ty tối đa là 1.600.000 đồng/01 mã. Để lôi kéo được nhiều người tham gia, T và G đã tính toán trả tiền hỗ trợ cao, mục đích là để đánh vào lòng tham của người tham gia dưới hình thức: Người tham gia nộp 900.000 đồng/01 mã thì được hưởng tối đa là 1.600.000 đồng/01 mã khi đã đủ các điều kiện trên, trích hưởng tiền hoa hồng cao là 200.000 đồng/01mã cho người giới thiệu được người khác tham gia 900.000 đồng/01mã, Công ty của T và G chỉ thu về 700.000 đồng/01 mã. Như vậy thì T và G sẽ được hưởng khoảng 14% tổng doanh thu của 5.000 mã đầu tiên và sau đó tiếp tục được hưởng khoảng 11% tổng doanh thu của các mã tiếp theo, trong trường hợp chương trình không có người tham gia nữa, hệ thống Website dừng thì T và G sẽ trả khoảng 70% tiền gốc cho người tham gia và khi đó người tham gia bị thua lỗ 30%, nên họ vẫn có thể chấp nhận, thì T và G sẽ được hưởng 30%. Sau đó, vào khoảng đầu tháng 12/2015, T và G đã tổ chức hội thảo tại khách sạn Suối Hoa, phường Suối Hoa, thành phố Bắc Ninh để tư vấn, giới thiệu lôi kéo khách hàng theo chương trình “Tri ân vàng” nhưng lại giới thiệu là tổ chức từ thiện cho trẻ em vùng cao, vùng sâu, thành lập quỹ Công ty, ký quỹ 5 tỷ đồng với Nhà nước, thành lập quỹ hỗ trợ nhân đạo A được Bộ Nội Vụ cấp giấy phép, xây dựng trại trẻ mồ côi tại Đông Anh, tổ chức từ thiện cho các hộ nghèo khắp cả nước… Sau đó, do số lượng người tham gia không nhiều nên T và G lại đưa ra chương trình “Lộc xuân” với hình thức, người tham gia phải nộp 300.000 đồng/01 mã và được chi trả tối đa là 600.000 đồng/01 mã. Do, không có khả năng chi trả tiền cho người tham gia, đến khoảng đầu tháng 02/2016, T thông báo cho người tham gia biết Công ty ngừng hoạt động trên hệ thống Website và dừng toàn bộ việc trả tiền cho người tham gia. Vậy:

  • Có 195 người bị hại tham gia trực tiếp đứng tên trên hệ thống Website: nhandaoanhminh.com bị thiệt hại với tổng số tiền là 4.576.600.000 đồng. Số tiền này T chia cho G 253.000.000 đồng, tạm ứng tiền lương cho Th 50.000.000 đồng, còn lại T sử dụng 4.273.600.000 đồng chi tiêu cá nhân hết.
  • Có 17 người tham gia nhưng được hưởng lợi do thoát cung, do giới thiệu hưởng hoa hồng là 662.700.000 đồng.

Tòa án sơ thẩm tuyên: Tuyên bố các bị cáo Phùng Văn T và Hoàng Văn G phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Phùng Văn T 10 (Mười) năm tù, xử phạt Hoàng Văn G 14 (Mười bốn) năm tù. Buộc Phùng Văn T và Hoàng Văn G phải liên đới bồi thường cho người bị hại tổng số tiền là 4.676.600.000 đồng, trong đó T phải bồi thường 3.000.000.000 đồng, G phải bồi thường 1.676.600.000 đồng.

Tòa án phúc thẩm nhận định: Tại phiên tòa phúc thẩm các bị cáo T và G đã khai thống nhất với lời khai tại quá trình điều tra và tại phiên tòa sơ thẩm. Lời khai nhận tội của các bị cáo phù hợp với các tài liệu có trong hồ sơ vụ án. Trong khoảng thời gian từ cuối tháng 11/2015 đến đầu tháng 02/2016, T và G đã thu tiền của những người bị hại và hứa chi trả tiền hỗ trợ, thoát cung và trả hoa hồng cao nhưng sau đó không thực hiện chi trả đúng như cam kết ban đầu và chiếm đoạt của 195 người bị hại với số tiền là 4.576.600.000 đồng để chi tiêu cá nhân. Bị cáo T và G thực hiện hành vi phạm tội trước ngày 01/01/2018 nhưng tại điểm a khoản 4 Điều 139 Bộ luật hình sự 1999 và điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 không khác biệt nên cần xét xử các bị cáo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật hình sự năm 2015 về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” như xác định của Tòa án cấp sơ thẩm là có căn cứ. Ngoài ra các bị hại còn có yêu cầu mức bồi thường dân sự, giữa bị cáo T và G có thỏa thuận với các bị hại về mức bồi thường nên HĐXX xét thấy cần sửa bản án sơ thẩm.

Tòa án phúc thẩm tuyên: Sửa bản án sơ thẩm về một phần dân sự, mức bồi thường cho các bị hại.

124-139

XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN HOẠT ĐỘNG KINH DOANH ĐA CẤP

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan