FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 62 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG SAU KHI LY HÔN (BẢN CẬP NHẬT MỚI NĂM 2022)” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG VỤ ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 23/2022/HNGĐ-PT ngày 09 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre.
Về việc: “Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn” Tóm tắt nội dung vụ án: Ông Võ Văn N và bà Nguyễn Thị D trước đây là vợ chồng, do thời gian sống chung phát sinh nhiều mâu thuẫn, không hạnh phúc nên ông N và bà D đã ly hôn với nhau theo bản án số 102/2018/HNGĐ-ST ngày 02/11/2018 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc. Theo nội dung Bản án tuyên: ông N và bà D được ly hôn với nhau; về tài sản chung: ông N và bà D không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không xem xét. Nay hai bên có mâu thuẫn về chia tài sản chung sau khi ly hôn và hai bên không thống nhất được việc phân chia tài sản. Do đó, ngày 19/5/2020 ông N đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án có Thẩm quyền chia tài sản chung giữa ông và bà D sau khi ly hôn. Theo kết quả thẩm định, định giá ông N yêu cầu được chia 175.000.000 đồng do bà D có trách nhiệm giao lại cho ông N. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tại Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 61/2022/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022, Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn N. Ông Võ Văn Ngà được chia đôi giá trị phần tài sản chung (phần đất và cây trồng trên đất thuộc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 25, toạ lạc ấp Thành Hóa 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và ngôi nhà cấp 4 xây tường trên thửa đất số 1714, tờ bản đồ số 4 (theo bản đồ 299), tọa lạc ấp Thành Hóa 1, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre) là 168.562.000 đồng, số tiền này do bà Nguyễn Thị D có nghĩa vụ giao lại cho ông Võ Văn Ngà. Bà Nguyễn Thị D được chia tài sản chung bằng hiện vật gồm: quyền sử dụng đất có diện tích là 950,2 m2 thuộc thửa đất số 233, tờ bản đồ số 25, toạ lạc ấp Thành Hóa 2, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre và cây trồng trên đất là 22 cây dừa 15 năm tuổi, phần đất này do bà D đứng tên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; một ngôi nhà cấp 4 xây tường trên thửa đất số 1714, tờ bản đồ số 4 (theo bản đồ 299), tọa lạc ấp Thành Hóa 1, xã Tân Thành Bình, huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre; tất cả tài sản này do bà D đang quản lý, sử dụng. Ngày 13/7/2022, bị đơn bà Nguyễn Thị D có đơn kháng cáo một phần bản án sơ thẩm: Bà yêu cầu Tòa án cấp phúc thẩm bác một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Võ Văn N, bà chỉ đồng ý chia căn nhà ½ giá trị bằng tiền là 50.000.000 đồng (Năm mươi triệu đồng) vì đây là tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân chưa được chia. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Về nội dung: Xét kháng cáo của bà Nguyễn Thị D, nhận thấy: Giữa ông N và bà D đã thống nhất được tài sản chung là căn nhà tọa lạc trên đất của ông T, bà U, nhưng các bên không thống nhất được giá trị còn lại của căn nhà. Do bà D, ông T, bà U không hợp tác và có hành vi cản trở không cho Hội đồng định giá tiến hành định giá tài sản. Phía ông N không có hành vi cản trở Hội đồng định giá, đưa ra giá trị tài sản của căn nhà còn lại là 200.000.000 đồng. Căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP-BTC ngày 28/3/2014 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án cấp sơ thẩm xác định giá trị căn nhà đang tranh chấp theo giá ông N đưa ra là có căn cứ, từ đó buộc bà D có nghĩa vụ giao cho ông N ½ giá trị căn nhà với số tiền là 100.000.000 đồng là phù hợp. Bà D kháng cáo chỉ đồng ý hoàn trả cho ông N ½ giá trị căn nhà với số tiền 50.000.000 đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa phúc thẩm người đại diện theo ủy quyền của bà D rút kháng cáo về phần chia căn nhà, phía bà D đồng ý giao cho ông N ½ giá trị căn nhà với số tiền là 100.000.000 đồng theo bản án sơ thẩm đã tuyên. Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 289 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử đình chỉ xét xử phần rút kháng cáo của bà D tại phiên tòa về chia căn nhà. Đối với kháng cáo của bà D không đồng ý chia phần tài sản là quyền sử dụng đất thuộc thửa 233 tờ bản đồ số 25, nhận thấy: Thửa đất số 233 là tài sản mà bà D có được trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 33 Luật hôn nhân và gia đình thì quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Bà D cho rằng đây là tài sản riêng của bà nhưng bà không có chứng cứ chứng minh, do đó cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông N buộc bà D chia cho ông N ½ giá trị quyền sử dụng đất và cây trồng trên đất theo giá của Hội đồng định giá là có căn cứ. Bà D kháng cáo không đồng ý chia cho ông N là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn bà Nguyễn Thị D; Giữ nguyên quyết định Bản án hôn nhân và gia đình sơ thẩm số: 61/2022/HNGĐ-ST ngày 01 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Mỏ Cày Bắc, tỉnh Bến Tre. |
1 – 10 |
2 |
Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 25/2022/HNGĐ-PT ngày 19 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Dương.
Về việc: “Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn” Tóm tắt nội dung vụ án: Bà Phạm Thị Ngọc Th và ông Trần Trọng N là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống hai ông, bà có 02 con chung là Trần Ngọc N, sinh năm 2000 và Trần Thư Th, sinh năm 2006. Về tài sản trong quá trình chung sống hai ông, bà có tài sản chung gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2. Vì lý do, khi ly hôn chưa chia tài sản chung nên nay bà Th khởi kiện ông N yêu cầu Tòa án có thẩm quyền chia tài sản chung sau khi ly hôn với ông N. Bà Th yêu cầu chia đôi tài sản chung và được hưởng ½ giá trị tài sản, ông N là người nhận đất có trách nhiệm thanh toán cho bà Th ½ giá trị tài sản. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tại Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày 02/06/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương đã tuyên xử: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn bà Phạm Thị Ngọc Th về việc tranh chấp chia tài sản chung sau ly hôn với bị đơn ông Trần Trọng N. Ông Trần Trọng N được quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2, thuộc thửa đất số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An), tỉnh Bình Dương theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BQ024502, số vào sổ cấp giấy chứng nhận số CH07583 do Uỷ ban nhân dân thị xã Dĩ An (nay là thành phố Dĩ An) cấp ngày 17/5/2014 cấp cho ông Trần Trọng N, bà Phạm Thị Ngọc Th và 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2 (có bản vẽ kèm theo). Ông Trần Trọng N có trách nhiệm thanh toán cho bà Phạm Thị Ngọc Th 35% giá trị tài sản với tổng số tiền là 1.229.728.600 (một tỷ hai trăm hai mươi chín triệu bảy trăm hai mươi tám nghìn sáu trăm) đồng. Ngày 14/6/2022, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An có Quyết định kháng nghị số 03/QĐ-VKS-HNGĐ kháng nghị một phần Bản án sơ thẩm theo hướng giảm tỉ lệ chia tài sản cho N đơn. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Về nội dung: Xét kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Nguyên đơn (bà Phạm Thị Ngọc Th) và bị đơn (ông Trần Trọng N) là vợ chồng chung sống với nhau từ năm 2000 nhưng đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 74/2021/QĐSTHNGĐ ngày 05/02/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Quá trình chung sống về tài sản gồm có: quyền sử dụng đất có diện tích 89,0m2 thuộc thửa số 2857, tờ bản đồ số 3DH.1 tọa lạc khu phố Tây B, phường Đông Hòa, thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương, trên đất gắn liền là 01 căn nhà 02 tầng có diện tích sàn 75,1m2. Tài sản chung hai bên thống nhất xác định: Nguồn gốc đất là do cha, mẹ bị đơn (ông Trần Ngọc Đang và bà Đinh Thị Thu Phượng) cho bị đơn vào năm 2002. Quá trình sử dụng nhà ở thì Nguyên đơn và bị đơn cùng sử dụng, quản lý nhà đất và có sửa chữa nhà. Việc bị đơn thống nhất làm thủ tục nhà, đất và để cho Nguyên đơn cùng đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thể hiện ý chí của bị đơn đồng ý nhập khối tài sản chung nhà đất là tài sản chung của Nguyên đơn và bị đơn. Từ khi nhận Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà, quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất bị đơn không khiếu nại hay thắc mắc gì. Do đó căn cứ Điều 33 Luật Hôn nhân và gia đình 2014, thì tài sản tranh chấp trên là tài sản chung của Nguyên đơn và bị đơn trong thời kỳ hôn nhân. Tài sản chung của hai bên được chia theo quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình. Do nguồn gốc nhà, đất do cha mẹ bị đơn tặng cho mà có và hiện nay bị đơn đang trực tiếp cùng 02 con (Trần Ngọc N và Trần Thư Th) sống trong căn nhà, đất tranh chấp; hơn nữa Nguyên đơn chỉ yêu cầu được nhận bằng giá trị tài sản (không yêu cầu nhận hiện vật) nên Tòa án sơ thẩm giao toàn bộ tài sản tranh chấp bằng hiện vật cho bị đơn sở hữu, sử dụng là có căn cứ. Về phía Nguyên đơn hiện nay cũng chưa có chỗ ở ổn định, phải thuê nhà trọ để ở, do đó Tòa án sơ thẩm đã xem xét hoàn cảnh cũng như công sức của các bên và chia cho Nguyên đơn 35% khối tài sản tranh chấp; chia cho bị đơn 65% khối tài sản tranh chấp. Bị đơn có nghĩa vụ thanh toán cho Nguyên đơn 35% giá trị khối tài sản tranh chấp tương ứng với số tiền là 1.229.728.6000 đồng là hợp lý và phù hợp với quy định tại Điều 59 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014. Nguyên đơn kháng cáo nhưng không cung cấp được chứng cứ gì mới. Do đó Hội đồng xét xử không chấp nhận kháng cáo của N đơn, giữ nguyên bản án sơ thẩm. Ý kiến của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị đơn cho rằng quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bị đơn là không có căn cứ nên không được chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: 1. Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với Quyết định kháng nghị số 03/QĐVKS-HNGĐ ngày 14/6/2022 của Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. 2. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bị đơn ông Trần Trọng N: Giữ N Bản án hôn nhân gia đình sơ thẩm số 74/2022/HNGĐ-ST ngày 02/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An, tỉnh Bình Dương. |
11 – 18 |
3 |
Bản án Hôn nhân và gia đình phúc thẩm số 71/2022/HNGĐ-ST ngày 08 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình.
Về việc: “Tranh chấp về chia tài sản chung sau khi ly hôn” Tóm tắt nội dung vụ án: Anh Đỗ Văn Ch và chị Nguyễn Thị Minh L đã ly hôn theo Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự số 163/2021/QĐST- HNGĐ ngày 29/12/2021 của Tòa án nhân dân huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Khi giải quyết ly hôn, anh Ch và chị L không yêu cầu Tòa án giải quyết phân chia tài sản mà để tự thỏa thuận giải quyết với nhau. Nhưng từ sau khi ly hôn đến nay, anh và chị L không thỏa thuận giải quyết phân chia tài sản với nhau được. Toàn bộ tài sản hiện chị L vẫn đang quản lý không phân chia cho anh. Vì vậy, ngày anh Ch đã làm đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án có Thẩm quyền chia tài sản chung của hai anh chị sau khi ly hôn bao gồm tài sản là cả động sản và bất động sản. Tòa án nhân dân cấp sơc thẩm nhận định: Về nội dung: Xét yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của nguyên đơn, thấy: Anh Ch, chị L đã ký hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 10, tờ bản đồ số 14, thôn Hà Lý, xã Hùng Dũng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình. Đối với thửa đất số 8, tờ bản đồ số 14, thôn Hà Lý, xã Hùng Dũng, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, mặc dù không có hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chủ sử dụng thửa đất số 8 là anh Đỗ Ngọc A và chị Đỗ Thị Á xác nhận đã chuyển nhượng cho anh Ch, chị L cùng thời điểm chuyển nhượng thửa đất số 10; hai bên không có tranh chấp và yêu cầu gì. Do đó, có căn cứ xác định thửa đất số 10 và thửa đất số 8 cùng toàn bộ tài sản trên đất là tài sản chung của anh Ch, chị L hình thành trong thời kỳ hôn nhân. Hiện chị L đang quản lý sử dụng toàn bộ diện tích đất và tài sản trên đất. Diện tích đo đạc hiện trạng chênh lệch so với số liệu đo đạc năm 2006 là do có sự sai số khi đo đạc nên cần căn cứ số liệu đo đạc hiện trạng để giải quyết. Chị L yêu cầu chia tài sản cho cả 03 con chung nhưng không có cơ sở chấp nhận, bởi lẽ: 03 con chung đều còn nhỏ và việc chia tài sản chung của anh Ch, chị L không liên quan đến 03 con chung của anh Ch, chị L. Để đảm bảo quyền lợi của các đương sự, cần chia đôi diện tích đất bằng hiện vật cho anh Ch và chị L. Giao cho chị L quyền sử dụng và sở hữu phần diện tích đất ở và đất nuôi trồng thủy sản cùng tài sản trên phần đất được chia là ngôi nhà cấp 04 (nhà ở) và một phần ngôi nhà ngang cấp 4 (nhà kho); lán tôn, sân vườn, bờ ao, cây cối trên đất; giao cho anh Ch quyền sử dụng và sở hữu phần diện tích đất ở và đất nuôi trồng thủy sản còn lại cùng tài sản trên đất là một phần ngôi nhà ngang cấp 4 (nhà kho); bếp, bể nước mưa, sân vườn, bờ ao, cây cối trên đất. Việc thanh toán giá trị chênh lệch tài sản giải quyết theo quy định của pháp luật. Về chi phí tố tụng: Anh Ch tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.700.000 đồng (Năm triệu bẩy trăm nghìn đồng). Anh Ch đã nộp xong Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: 1. Chấp nhận yêu cầu chia tài sản sau khi ly hôn của anh Đỗ Văn Ch. Xử Chia và Mỗi bên sẽ được nhận hiện vật và Chị L phải có trách nhiệm thanh toán giá trị chênh lệch tài sản cho anh Ch số tiền là 67.901.700 đồng làm tròn số 67.902.000 đồng. Anh Ch được quyền sở hữu số tiền do chị L thanh toán nêu trên. 2. Về chi phí tố tụng: Anh Ch tự nguyện chịu toàn bộ chi phí xem xét, thẩm định tại chỗ và định giá tài sản là 5.700.000 đồng (Năm triệu bẩy trăm nghìn đồng). Anh Ch đã nộp xong. |
19 – 26 |
XEM THÊM TẠI FILE PDF
LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 62 BẢN ÁN, QUYẾT ĐỊNH VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG SAU KHI LY HÔN (BẢN CẬP NHẬT MỚI NĂM 2022
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn