Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TỔNG HỢP 34 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC THUẾ, TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG, CHỨNG KHOÁN, BẢO HIỂM

TỔNG HỢP 34 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC THUẾ, TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG, CHỨNG KHOÁN, BẢO HIỂM

FDVN tiếp tục chia sẻ bộ tài liệu “TỔNG HỢP 34 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC THUẾ, TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG, CHỨNG KHOÁN, BẢO HIỂM” do các Luật sư/Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm và tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích khác trái pháp luật.

__MỤC LỤC__

TỔNG HỢP BẢN ÁN & QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI TRONG LĨNH VỰC THUẾ, TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG, CHỨNG KHOÁN, BẢO HIỂM

STT

TÊN VĂN BẢN

SỐ TRANG

1

Bản án sơ thẩm số 07/2020/HS-ST

Về tội “trốn thuế”

Trong các năm 2013, 2015, 2016 Công ty cổ phần xây dựng và thương mại X, trụ sở tại thôn A, thị trấn B, huyện Ngân Sơn, tỉnh Bắc Kạn do Hoàng Văn N làm giám đốc và là người đại diện theo pháp luật, chỉ đạo điều hành mọi hoạt động của công ty đã có hành vi không ghi chép trong sổ kế toán và các khoản thu liên quan đến việc xác định số tiền thuế phải nộp, không có sổ sách, hóa đơn, chứng từ để kê khai chi phí sản xuất kinh doanh, kê khai khấu trừ thuế thực hiện nghĩa vụ thuế với Nhà nước, không kê khai doanh thu để trốn thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp, tổng số tiền thuế đã trốn là 180.816.142 đồng. Số tiền này Hoàng Văn N sử dụng vào việc mua vật liệu thi công các công trình và tiêu dùng cá nhân hết.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bị cáo phạm tội “Trốn thuế”, xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ, buộc nộp lại số tiền thuế đã trốn vào ngân sách nhà nước.

01 – 10

2

Bản án sơ thẩm số 03/2018/HS-ST

Về tội “trốn thuế”

Hành vi phạm tội của các bị cáo đều được thực hiện trong các năm 2014 – 2015. Tổng cộng trong năm 2014 và 2015, Phan Văn D – Chủ tịch hội đồng quản trị, kiêm giám đốc Công ty cổ phần xây dựng và môi trường T đã chỉ đạo kế toán mua và sử dụng 05 hóa đơn GTGT khống của DNTN H với tổng giá trị thanh toán hàng hóa, dịch vụ ghi trên hóa đơn là 3.145.521.000 đồng, trong đó tiền hàng hóa, dịch vụ là 2.859.564.454 đồng, thuế GTGT là 285.956.455 đồng để kê khai thuế GTGT đầu vào, khấu trừ thuế GTGT đối với hàng hóa, dịch vụ bán ra nhằm mục đích trốn thuế.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: tuyên bị cáo Phan Văn D và Nguyễn Thị Mỹ L phạm tội “trốn thuế”, Bị cáo D bị xử phạt 09 tháng tù nhưng cho hưởng án treo, đồng thời phải nộp tiền đã trốn thuế xung công quỹ Nhà nước. Bị cáo L bị xử phạt 06 tháng tù, cho hưởng án treo.

11 – 21

3

Bản án sơ thẩm số 107/2017/HS-ST

Về tội “trốn thuế”

Bị cáo Lê Thị Thu H và Đặng Quang T có hành vi lập khống 02 hóa đơn đầu vào để được khấu trừ số thuế GTGT phải nộp là 271.750.000đ.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: tuyên bị cáo H và T phạm tội trốn thuế, xử phạt bị cáo H một năm sáu tháng cải tạo không giam giữ, bị cáo T một năm sáu tháng cải tạo không giam giữ. Truy thu số tiền đã trốn thuế.

22 – 36

4

Bản án sơ thẩm số 102/2018/HS-ST

Về tội “trốn thuế”

Sau khi được phê duyệt quyết toán hoàn thành công trình, Nguyễn Việt Tr là Giám đốc, người đại diện theo pháp luật của công ty đã không thực hiện việc cập nhật, ghi chép, hạch toán trên sổ sách, chứng từ kế toán; không xuất hóa đơn GTGT cho chủ đầu tư, không kê khai thuế GTGT với Cơ quan thuế của công trình nêu trên với tổng giá trị là 4.259.939.000 đồng và không nộp vào ngân sách nhà nước, trốn thuế với số tiền là 318.660.182 đồng

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Việt Tr phạm tội “Trốn thuế”, xử phạt một năm tù cho hưởng án treo.

37 – 47

5

Bản án phúc thẩm số 101/2017/HS-PT

Về tội “trốn thuế”

Bị cáo Nguyễn Thị Mộng T1 và Võ Thị T có hành vi nợ thuế, trốn thuế

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố các bị cáo Võ Thị T, Nguyễn Thị Mộng T1 phạm tội “Trốn thuế”. Các bị cáo kháng cáo cho rằng mình không phạm tội “Trốn thuế”.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Hủy bản án sơ thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Viện kiểm sát để điều tra lại.

48 – 53

6

Bản án phúc thẩm số 125/2020/HS-PT

Về tội “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”.

Từ  tháng 03/2018 đến ngày 17/01/2019, các bị cáo Nguyễn Văn U, Vũ Văn D, Nguyễn Trung T, Bùi Văn Đ, Nguyễn Ngọc Ch, Nguyễn Đức H và Dương Thanh S đã có hành vi cho 149 người vay tiền với 265 hợp đồng với mức lãi suất từ 12,15% đến 177,63%/tháng, mức lãi suất hơn gấp 5 lần trở lên mức lãi suất cao nhất theo quy định của Điều 468 Bộ luật dân sự 2015.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên các bị cáo phạm tội “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”. Các bị cáo đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Sau đó, hai bị cáo rút đơn kháng cáo, một bị cáo giữ nguyên yêu cầu kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo, giữ nguyên bản án sơ thẩm đã tuyên.

54 – 65

7

Bản án sơ thẩm số 04/2020/HS-ST

Về tội “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”, “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Do bản thân không có công ăn việc làm nên Nguyễn Khắc T kinh doanh cầm đồ cho người khác vay tiền với mức lãi suất cao từ 4.000đ- 6.000đ/1 triệu/1 ngày, đồng thời đã có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên xử bị cáo Nguyễn Khắc T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và tội “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”; bị cáo Trần Thị D phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

66 – 81

8

Bản án phúc thẩm số 09/2019/HS-PT

Về tội “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”

Hoàng Văn D và người tên C (không rõ nhân thân, lai lịch)

cùng nhau hùn vốn đến địa bàn huyện P, tỉnh Bình Dương để cho người khác vay tiền với lãi suất cao.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bị cáo Hoàng Văn D phạm tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”. Viện kiểm sát nhân dân huyện P kháng nghị đề nghị tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn D.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện P; sửa Bản án hình sự sơ thẩm về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và phần hình phạt đối với bị cáo Hoàng Văn D.

82 – 89

9

Bản án sơ thẩm số 01/2020/HSST

Về tội “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”

Nguyễn Văn G đã cho Trần Mạnh Hải A ở xã Cẩm Lĩnh, huyện Cẩm Xuyên, tỉnh Hà Tĩnh) vay 06 lần tiền với tổng số tiền là 115.000.000đ (Một trăm mười lăm triệu đồng), để tiêu xài cá nhân, với mức lãi suất theo thỏa thuận là 5.000đ/ 01 triệu/ 01 ngày, cao hơn gấp 05 lần mức lãi suất cao nhất theo quy định trong Bộ luật Dân sự, thu lợi bất chính 77.604.041 đồng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn G phạm tội Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự.

90 – 98

10

Bản án sơ thẩm số 152/2019/HSST

Về tội “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”

Lợi dụng việc một số người có nhu cầu vay tiền để tiêu dùng, kinh doanh trên địa, Đặng Thị Thu P có hành vi sử dụng tiền cá nhân của mình cho người khác vay để thu lời bất chính.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Đặng Thị Thu P phạm tội “ Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”.

99 – 109

11

Bản án sơ thẩm số 53/2019/HSST

Về tội “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”

Trong khoảng thời gian từ tháng 9/2018 đến tháng 5/2019, tại khu 4, Z5, huyện Thanh Thủy, Kiều Đại N đã có hành vi cho 20 cá nhân vay tiền với lãi suất từ 3.000đ/01 triệu/01 ngày đến 10.000đ/01 triệu/01 ngày, tương đương với mức lãi suất từ 09% đến 30%/tháng và 108%/ năm đến 360%/năm.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: tuyên bị cáo Kiều Đại N phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự“.

110 – 125

12

Bản án sơ thẩm số 44/2019/HS-ST

Về tội “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”

Bị cáo có hành vi lợi dụng hoàn cảnh kinh tế khó khăn của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan để cho vay cao hơn lãi suất mà pháp luật quy định từ 182,5% đến 407,6%.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Quách Đình T phạm tội “Cho vay lãi nặng trong giao dịch Dân sự”.

126 – 147

13

Bản án sơ thẩm số 28/2019/HS-ST

Về tội “cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”

Bị cáo Lê Bá C có hành vi cho vay nặng lãi với mức lãi suất cao nhất là 183%/năm.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Lê Bá C, phạm tội: “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”.

148 – 160

14

Bản án sơ thẩm số 78/2018/HS-ST

Về tội “Buôn bán vé giả”

Trần H H làm nghề hướng dẫn viên du lịch nên quen biết với một đối tượng tên O (chưa xác định họ tên, địa chỉ). O nói với H làm giả vé tham quan du lịch nội thành Huế, tuyến 4 điểm (Hoàng Cung – Khải Định – Tự Đức – Minh Mạng) và bán với giá 70.000 đồng/01 vé.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Trần H H phạm tội “Buôn bán vé giả”, xử phạt 12 tháng tù, hưởng án treo

161 – 167

15

Quyết định giám đốc thẩm số 36/2017/HS-GĐT

Về tội “mua bán trái phép hóa đơn thu nộp ngân sách nhà nước”

Từ ngày 29/6/2012 đến ngày 25/11/2012, Nguyễn Đức G đã xuất bán trái phép 268 số hóa đơn, với tổng số tiền hàng hóa, dịch vụ bán ra ghi trên các số hóa đơn là 38.280.211.001 đồng (không có hàng hóa dịch vụ kèm theo), thu lợi bất chính 312.353.000 đồng

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức G 15 tháng tù về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: xử phạt: Nguyễn Đức G 15 tháng tù về tội“Mua bán trái phép hóa đơn thu nộp ngân sách nhà nước”

Tòa án nhân dân cấp giám đốc thẩm: Hủy một phần Bản án hình sự phúc thẩm và hủy một phần Bản án hình sự sơ thẩm về “phần hình phạt” đối với Nguyễn Đức G, giao hồ sơ xét xử sơ thẩm lại theo hướng tăng hình phạt và không cho hưởng án treo.

168 – 171

16

Quyết định giám đốc thẩm số 45/2018/HS-GĐT

Về tội “mua bán trái phép hóa đơn”

Bị cáo T đã mua 82 tờ HĐ-GTGT hàng hoá, dịch vụ đầu vào của 17 tổ chức kinh tế thanh toán trả 4% giá trị ghi trên hóa đơn 25.349.599.008 đồng là 1.013.983.960 đồng để thu lợi 511.251.779 đồng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: xử phạt bị cáo về tội “mua bán trái phép hóa đơn”. Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã kháng nghị Bản án hình sự sơ thẩm  đề nghị Uỷ ban thẩm phán Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xét xử giám đốc thẩm, huỷ Bản án hình sự sơ thẩm để điều tra lại theo đúng quy định của pháp luật.

Tòa án nhân dân cấp giám đốc thẩm: Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng viện kiểm sát nhân dân tối cao tại Hà Nội, hủy bản án sơ thẩm và chuyển hồ sơ vụ án về Viện kiểm sát nhân dân huyện P, tỉnh Thái Nguyên điều tra lại.

172 – 175

17

Bản án sơ thẩm số 10/2020/HS-ST

Về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”

Qua công tác nghiệp vụ, Cơ quan An ninh điều tra – Công an thành phố Hải Phòng phát hiện: Từ tháng 9/2013 đến tháng 5/2019, Phạm Thị C, Lương Thị N và Vũ Thị T, có dấu hiệu hoạt động mua bán trái phép hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) thu lợi bất chính.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: xử phạt: Phạm Thị C 250.000.000 (Hai trăm năm mươi triệu) đồng, Vũ Thị T 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng, Lương Thị N 200.000.000 (Hai trăm triệu) đồng sung công quỹ nhà nước về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”; đồng sung công quỹ nhà nước về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”.

176 – 189

18

Bản án sơ thẩm số 06/2020/HS-ST

Về tội “mua bán trái phép hóa đơn”

Từ tháng 5/2016 đến tháng 7/2017, Nguyễn Trọng T đã chỉ đạo cho Nguyễn Thị V, Hoàng Thị X, Chu Thị N, Bùi Ngọc H mua tổng số 52 tờ hóa đơn GTGT “khống” của Công ty TNHH TM và DV M với tổng giá trị 469.067.233.000đ, trong đó giá trị nâng “khống” thêm là: 381.900.000.000đ. Đối với số hóa đơn GTGT của Công ty TNHH TM và DV M, Công ty CP L không phải trả chi phí.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bị cáo Nguyễn Trọng T, Nguyễn Thị V, Hoàng Thị X, Chu Thị N, Bùi Ngọc H phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.

190 – 210

19

Bản án phúc thẩm số 621/2019/HS-PT

Về tội “mua bán trái phép hóa đơn”

Đoàn Gia N và Lưu Văn K có hành vi thành lập công ty để bán hóa đơn GTGT trái phép kiếm lời. Cả hai  được hưởng lợi từ việc mua bán trái phép hóa đơn số tiền 432.449.000 đồng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên các bị cáo Đoàn Gia N, Lưu Văn K, Lương Văn T phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”. Các bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và xin hưởng án treo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo N, chấp nhận kháng cáo của bị cáo K, sửa quyết định của bán án sơ thẩm.

211 – 221

20

Bản án số 619/2019/HS-PT

Về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.

Với thủ đoạn, cách thức, trong khoảng thời gian từ năm 2012 đến tháng 10/2015, Giám đốc Công ty cổ phần ĐVP Chi nhánh Bắc Ninh đã xuất bán 42 tờ hóa đơn GTGT ghi khống tiền hàng là 4.639.526.610 đồng và tiền thuế là 463.952.661 đồng cho 06 công ty.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố các bị cáo Bùi Thị Ngọc C (tên gọi khác Bùi Thị C) phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Thị Ngọc C, sửa Bản án hình sự sơ thẩm về phần hình phạt đối với bị cáo Bùi Thị Ngọc C.

222 – 226

21

Bản án phúc thẩm số 82/2018/HS-PT

Về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”

Trong thời gian từ tháng 5/2016 đến tháng 11/2016, bị cáo Trần Thị T là người đại diện theo pháp luật của Công ty Vạn Đại Phát đã trực tiếp xuất bán cho 05 doanh nghiệp thông qua O và 02 đối tượng khác 22 số hóa đơn GTGT liên 2 “Giao cho người mua” ghi nội dung nhưng không có hàng hóa, dịch vụ kèm theo với giá 3,5%/tổng giá trị tiền hàng chưa thuế, tổng số tiền hàng là 6.593.743.681 đồng, tổng số tiền thuế GTGT là 659.374.368 đồng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên các bị cáo Trần Thị T và Trần Thị O phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”. Bị cáo T có đơn kháng cho ràng tòa án sơ thẩm xét xử mức 18 tháng tù là quá nặng.

Tòa án cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, sửa bản án sơ thẩm cho bị cáo T hưởng án treo.

227 – 236

22

Bản án phúc thẩm số 77/2018/HSPT

Về tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”

Từ tháng 8/2007 đến tháng 10/2016, Lê Văn T cùng V và Chg đã thành lập, mua lại giấy tờ, bộ con dấu, hóa đơn GTGT của 05 công ty để mua bán trái phép hóa đơn GTGT thu lợi bất chính.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: tuyên bố các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Chg đồng phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”. Bị cáo V và Chg kháng cáo xin hưởng án treo, bị cáo kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Lê Văn T, Nguyễn Thị V, Nguyễn Thị Chg, sửa bản án sơ thẩm

237 – 250

23

Bản án phúc thẩm số 06/2018/HSPT

Về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”

Trong khoảng thời gian 9/2009 đến tháng 5/2011, Nguyễn Thị L, đã cùng các đối tượng là Nguyễn Văn P, Ngô Văn Q, Nguyễn Đăng T, Nguyễn Văn H2, Nguyễn Văn L, Lưu Văn K thành lập 06 công ty có tên lần lư t là Tu n Nga, Hải Hậu, Văn Khương, Thái Dương, Quang Bắc, Quốc Khánh để hoạt động mua bán trái phép hóa đơn giá trị gia tăng (GTGT) khống.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: tuyên xử các bị cáo Ngô Văn

Q, Ngô Xuân T, Nguyễn Văn L, Lưu Văn K và Nguyễn Đăng T phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”. Các bị cáo có đơn kháng cáo xin hưởng án treo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo T, giữ nguyên quyết định sơ thẩm. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Q, T, L, K, sửa một phần bản án sơ thẩm.

251 – 261

24

Bản án phúc thẩm số 02/2018/HS-PT

Về tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.

Các bị cáo đã mua khống 154 hóa đơn đầu vào của công ty Q và P trị giá 91.492.418.600 đồng tiền hàng, tương ứng 9.149.241.860 đồng tiền thuế với giá 3,1% giá trị tiền hàng ghi trên hóa đơn và

xuất bán khống 147 hóa đơn của công ty Th trị giá 91.496.504.024 đồng tiền hàng, tương ứng 9.149.650.402 đồng tiền thuế với giá 3,3% giá trị tiền hàng ghi trên hóa đơn, hưởng lợi bất chính 183.119.656 đồng

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: tuyên các bị cáo Nguyễn

Thị T, Ngô Thị T, Lê Thị D, Ngô Mạnh Đ, Ngô Thị T1, Ngô Thị N phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”. Bị cáo N kháng cáo đề nghị cho bị cáo hưởng hình phạt tiền thay hình phạt tù nhưng có hưởng án treo như cấp sơ thẩm đã tuyên.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo N, sửa bản án sơ thẩm.

262 – 266

25

Bản án phúc thẩm số 845/2019/HSPT

Về tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới” và tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Đinh Thị N đã liên hệ với Nguyễn Văn A mua hồ sơ thương mại để hợp pháp hóa việc chuyển tiền ngoại tệ ra nước ngoài cho khách hàng. Bị cáo Nguyễn Quốc H có hành vi làm trung gian mua bán này để thu lợi bất chính.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Văn A,

Nguyễn Mạnh D, Nguyễn Quốc H và An Thế A phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”. Bị cáo Nguyễn Văn A phạm thêm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Bị cáo H kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo, bị cáo A kháng cáo xin giảm hình phạt xuống mức thấp nhất.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận một phần kháng cáo của Bị cáo A, chấp nhận kháng cáo của bị cáo H; sửa bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên.

267 – 280

26

Bản án phúc thẩm số 291/2019/HS-PT

Về tội “Làm, lưu hành tiền giả”

Từ tháng 5/2017 đến tháng 8/2017, Trần Duy Th cùng với Nguyễn Long B và Sơn Hồng V đã bàn bạc cùng nhau mua dụng cụ như máy tính xách tay, máy in màu, hộp mực in, máy scan, giấy nhựa… để làm giả tiền Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng, để bán thu lợi.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố các bị cáo Trần Duy Th, Nguyễn Long B, Sơn Hồng V phạm tội “Làm, lưu hành tiền giả ”. Bị cao D kháng cáo nhưng sau đó xin rút kháng cáo. Bị cáo Ch kháng cáo xin hưởng án treo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Đinh Văn Ch, chấp nhận kháng nghị của VKSND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh, sửa một phần bản án hình sự sơ thẩm.

281 – 290

27

Bản án sơ thẩm số 01/2018/HS-ST

Về tội “Lưu hành tiền giả”

Từ năm 2013, Nhữ Minh T, Nguyễn Văn và Vũ Thị gặp nhau và cùng bàn bạc tìm người mua và người bán đô la Mỹ giả để môi

giới kiếm tiền, yêu cầu Th cung cấp hình ảnh đô la theo yêu cầu phía bên mua để thể hiện rõ năng lực của người bán. Th đồng ý.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Phạm Văn Th phạm tội “Lưu hành tiền giả”.

292 – 300

28

Bản án sơ thẩm số 220/2017/HSST

Về tội “Lưu hành tiền giả”

Các bị cáo đã mua tiền giả Phạm Thế H, Phạm Văn A, Nguyễn Vũ L mua về để bán cho người khác, thu lợi bất chính.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố các bị cáo Phạm Thế H; Phạm Văn A; Nguyễn Vũ L phạm tội“Lưu hành tiền giả”.

301 – 310

29

Bản án phúc thẩm số 372/2019/HS-PT

Về tội “lập quỹ trái phép”

Trong các năm 2014, 2015 nhằm mục đích tạo quỹ riêng để dễ

dàng chi tiêu cho các nội dung không nằm trong dự toán chi ngân sách Nhà nước đã phê duyệt, thoát ra khỏi sự kiểm soát của bộ phận kế toán và sự quản lý, giám sát của cơ quan chủ quản, Huỳnh Hữu B đã tự ý đề ra chủ trương chỉ đạo và theo sự hướng dẫn của Lê Văn Q, các giáo viên, nhân viên của trường là Đặng Trường V, Trịnh Thị Phương Th, Nguyễn Thanh S và một số giáo viên, nhân viên khác đã mua, xin 52 hóa đơn của các đơn vị kinh doanh để lập 143 bộ chứng từ khống và chứng từ nâng khống nội dung mua vật tư, văn phòng phẩm,…bồi dưỡng và trả thù lao cho giáo viên, chi công tác phí cho giáo viên,…để rút từ dự toán ngân sách số tiền tổng cộng là 1.128.008.797 đồng.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Bị cáo Huỳnh Hữu B phạm tội “Lập quỹ trái phép”. Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng kháng nghị đề nghị hủy bản án sơ thẩm, điều tra lại

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Sửa một phần bản án sơ thẩm về hình phạt đối với bị cáo B.

311 – 321

30

Bản án phúc thẩm số 49/2018/HS-PT

Về tội “Lập quỹ trái phép”

Từ tháng 10/2010 đến tháng 11/2015, ban quản lý chợ P dưới

sự quản lý của Thái An Đ đã thu phí cho thuê mặt bằng với số tiền là 676.086.000 đồng. Tuy nhiên, đối với số tiền này, Thái An Đ để ngoài sổ sách kế toán, không nộp vào quỹ, không nộp vào ngân sách nhà nước mà chỉ đạo Hàn Thị P – kế toán trưởng và Võ Đức C – thủ quỹ kiêm thu ngân mở hai tài khoản trái nguyên tắc tài chính để sử dụng chi tiêu cho các hoạt động của Ban quản lý chợ, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố bị cáo Thái An Đ phạm tội: “Lập quỹ trái phép”. Bị cáo D kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt, xin được hưởng án treo và sau đó xin chuyển hình phạt tù sang phạt tiền.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Chấp nhận kháng cáo của Bị cáo D, sửa bản án sơ thẩm, xử phạt tiền.

322 – 330

31

Bản án phúc thẩm số 79/2019/HS-PT

Về tội ““Vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”

Các bị cáo BC1, BC2 là những đồng phạm cấp dưới của BC3, làm theo sự chỉ đạo của BC3 và giúp BC3 thực hiện việc lập hồ sơ, kiểm tra, thẩm định … việc cho doanh nghiệp vay vốn nhưng đã thực hiện theo sự chỉ đạo của bị cáo BC3 mà không thực hiện đúng quy định về các điều kiện vay vốn và tài sản đảm bảo cho các khoản tiền cho vay cũng như không kiểm tra, giám sát và xử lý vốn vay mà chấp nhận tài sản đảm bảo không có thật, tài sản đứng tên doanh nghiệp khác khi không đủ điều kiện thế chấp, không thực hiện việc đăng ký giao dịch tài sản đảm bảo mà chỉ căn cứ vào các tài liệu do Trần Thị Minh U giao nộp để lập tờ trình thẩm định, trình duyệt, đề xuất để BC3 quyết định việc cho vay. Từ đó, gây thiệt hại cho Ngân hàng số tiền 64.194.072.070 đồng (tiền gốc) và 154.528.406.692 đồng (tiền lãi), gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho Ngân hàng X Việt Nam.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố các bị cáo phạm tội “Vi phạm các quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo BC1, BC2 kháng cáo xin hưởng án treo là đề nghị làm rõ trách nhiệm của các cá nhân dân liên đến việc thanh tra hoạt động tín dụng trong vụ án. Đồng thời, Ngân hàng X và Công ty Y cũng kháng cáo.

Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo BC1, BC2, Ngân hàng X, Công ty Y; giữa nguyên bản án hình sự sơ thẩm.

331 – 356

32

Bản án sơ thẩm số 06/2018/HS-ST

Về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”

Bị cáo C và H1 cùng nhau thực hiện hành vi phạm tội, dù biết rõ khách hàng không đủ điều kiện để tăng hạn mức vay nhưng vẫn ký phê duyệt cho vay, vượt quá thẩm quyền của giám đốc chi nhánh.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên xử các bị cáo Nguyễn Kim C và Nguyễn Thị H1 phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”

357 – 367

33

Quyết định giám đốc thẩm số 09/2016/HS-GĐT

Về tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng” và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”

H bằng thủ đoạn vay tiền trả lãi cao, vay ké trong hợp đồng tín dụng của người bị hại, để người bị hại vay tiền ngân hàng rồi cho H vay lại và được H trả lãi suất cao. Bị cáo A có hành vi 06 lần giao sai quy định giấy tờ tài sản thế chấp cho cán bộ tín dụng để làm thủ tục hồ sơ vay mới. Bị cáo S nhiều lần làm trái công vụ tham mưu, trình lãnh đạo Ủy ban nhân dân xã H ký chứng thực hợp đồng thế chấp tài sản, hồ sơ vay vốn không đúng quy định, gây thiệt hại cho lợi ích hợp pháp của công dân.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm và phúc thẩm: Tuyên xử bị cáo A phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong các hoạt động của tổ chức tín dụng”, bị cáo S về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.

Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã kháng nghị bản án phúc thẩm, đề nghị xét xử giám đốc thẩm hủy bản án phúc thẩm, xét xử lại.

Tòa án nhân dân cấp giám đốc thẩm: Hủy Bản án hình sự phúc thẩm của Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao tại Đà Nẵng về phần trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Đoàn Thị Thu A và Bùi Thị Hồng S; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

368 – 372

34

Bản án sơ thẩm số 07/2020/HS-ST

Về tội “Gian lận bảo hiểm xã hội”

Vì mục đích vụ lợi nên vào khoảng cuối năm 2004 bị cáo Nguyễn Văn M đã nhờ ông Bùi Hữu B (đã chết) làm thủ tục hồ sơ và kê khai khống quá trình công tác tham gia đóng Bảo hiểm xã hội từ năm 1982 đến năm 2004 của bị cáo H tại Nông trường cà phê A để cơ quan Bảo hiểm xã hội làm thủ tục cho bị cáo H được nhận chế độ hưu trí hàng tháng, mặc dù trên thực tế bà H không phải là công nhân của Nông trường cà phê A và cũng không tham gia đóng Bảo hiểm xã hội.

Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm: Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn M, Võ Thị H phạm tội “Gian lận bảo hiểm xã hội”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn M 03 (Ba) năm tù, nhưng cho hưởng án treo, bị cáo Võ Thị H 02 (Hai) năm 09 (chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo.

373 – 379

LINK TẢI: TỔNG HỢP 34 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM TRONG LĨNH VỰC THUẾ, TÀI CHÍNH, NGÂN HÀNG, CHỨNG KHOÁN, BẢO HIỂM

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

45C Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàng Kiếm, thành phố Hà Nội

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan