FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 34 bản án giải quyết tranh chấp hợp đồng góp hụi, họ, biêu, phường (bản cập nhật mới năm 2024)” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 34 bản án giải quyết tranh chấp hợp đồng góp hụi, họ, biêu, phường (bản cập nhật mới năm 2024)
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
1 |
Bản án sơ thẩm số 01/2020/DS-ST ngày 09/01/2020 của Tòa án nhân dân huyện Mỹ Tú tỉnh Sóc Trăng về tranh chấp đòi nợ hụi.
Nội dung: Trong quá trình tham gia chơi hụi các bị đơn không thực hiện đúng như thỏa thuận, nộp thiếu số tiền hụi nên nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết buộc các bị đơn trả số tiền nợ hụi. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Đỗ Thị T. Buộc các bị đơn bà Ông Thị C và ông Nguyễn Văn P có trách nhiệm liên đới trả cho nguyên đơn bà Đỗ Thị T tiền hụi còn nợ là 302.000.000 đồng. |
1-7 |
2 |
Bản án sơ thẩm số 37/2019/DS-ST ngày 15/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện Đông Hòa tỉnh Phú Yên về tranh chấp hợp đồng hụi.
Nội dung: Từ năm 2016 đến đầu năm 2019, bà N với ông Th, bà T xác lập hợp đồng hụi, với hình thức hụi có lãi, theo đó, bà N là chủ hụi, ông Th, bà T là con hụi. Ông Th, bà T tham gia nhiều dây hụi và hốt hụi đầu, sau đó đóng hụi chết cho bà N. Đến khi chốt nợ thì ông Th, bà T xác nhận còn nợ bà N tổng số tiền 1.472.538.000 đồng. Bà T thừa nhận khi tham gia chơi hụi, ông Th đều biết và để bà T chơi cho hai vợ chồng, việc này phù hợp với lời khai của những người làm chứng, việc chơi hụi là để phục vụ đời sống kinh tế gia đình nên ông Th, bà T phải có trách nhiệm liên đới theo quy định tại Điều 27 Luật Hôn nhân và gia đình 2014 dù ông Th cho rằng mình không trực tiếp chơi. Do đó, việc ông Th cho rằng mình không hay biết và không chơi hụi với bà N, cũng như việc ông Th, bà T không thừa nhận còn nợ bà N số tiền 1.472.538.000 đồng là không có căn cứ. Tòa án tuyên cấp sơ thẩm quyết định: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn bà Đoàn Thị N: Buộc bị đơn ông Nguyễn Th, bà Trương Thị Kim T phải trả cho nguyên đơn bà Đoàn Thị N 1.472.538.000 đồng. |
8-12 |
3 |
Bản án sơ thẩm số 18/2019/DS-ST ngày 14/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Gò Quao tỉnh Kiên Giang về tranh chấp nợ hụi.
Nội dung: Thời gian vào năm 2017, giữa bà Nguyễn Thị T và bà Trịnh Thị T có thỏa thuận giao kết hợp đồng góp hụi với nhau, bà T là chủ hụi, bà T là tay em, bà T tham gia chơi 3 dây hụi, hụi sổ bình thường đến tháng 8/2017 thì bà T tuyên bố bể hụi, số tiền hai bên chốt nợ với nhau bà T còn nợ lại bà T tổng cộng là 92.620.000đ. Sau đó, bà T bỏ đi nơi khác làm ăn không trả nợ cho bà T kéo dài đến nay. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: Buộc bà Trịnh Thị T và ông Võ Văn H cùng có nghĩa vụ trả cho bà Nguyễn Thị T số tiền nợ hụi tổng cộng là 92.620.000đ. |
13-17 |
4 |
Bản án sơ thẩm số 24/2019/DS-ST ngày 12/08/2019 của Tòa án nhân dân huyện Bình Tân tỉnh Vĩnh Long về tranh chấp hợp đồng góp hụi.
Nội dung: Chị P yêu cầu ông Lê Văn H và bà Hồ Thị Thu H cùng có trách nhiệm trả số tiền hụi còn nợ các chân hụi mở ngày 06/11/2017 (hụi đã mãn, anh K chị P được lĩnh 32.000.000đ), mở ngày 12/02/2017, ngày 06/01/2018 đều là hụi có lãi, khi có hụi viên kêu và được lĩnh hụi thì anh K, chị P góp hụi sống không đến số tiền 2.000.000đ, như vậy thực tế anh K chị P thực góp số tiền không đến 28.000.000đ của chân hụi mở ngày 12/02/2018; và không đến số tiền 112.000.000đ cho dây hụi mở ngày 06/01/2018 (02 phần x 28.000.000đ/phần x 02 dây). Do quan hệ cô dì cháu, anh K, chị P tin tưởng chủ hụi nên không mở sổ theo dõi các lần góp hụi sống, bà H là chủ hụi hưởng huê hồng nhưng thực hiện không hết trách nhiệm của chủ hụi trong việc lập và quản lý sổ sách theo dõi việc góp hụi, lĩnh hụi và giao hụi để làm căn cứ đối chiếu việc kêu hụi, góp hụi và lĩnh hụi, đồng thời làm căn cứ cho việc giải quyết khi xảy ra tranh chấp. Mặt khác, sau khi vở hụi bà H đã thống nhất và viết biên nhận còn nợ vợ chồng anh K, chị P số tiền là 152.000.000đ, đã trả 4.000.000đ; bà H, ông H không tham gia tố tụng ở cấp sơ thẩm, Tòa án cũng không thể thu thập thêm chứng cứ nào khác để làm căn cứ xem xét điều chỉnh lãi suất của các dây hụi đang tranh chấp, vì vậy chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh K chị P xác định số tiền bà H còn nợ là 148.000.000đ. Xét việc bà H mở hụi làm chủ hụi, tham gia chơi hụi là để chi tiêu phục vụ cho chi tiêu sinh hoạt thiết yếu trong gia đình, việc mở hụi tại nhà, khoản nợ phát sinh trong thời gian vợ chồng ông H bà H chung sống, ông H đều biết; ông H cũng không phản đối yêu cầu của anh K, chị P nên buộc ông H và bà H cùng trả số nợ trên là có căn cứ và phù hợp với Điều 27 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Tòa án cấp sơ thẩm quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Nguyễn Thanh K và chị Đoàn Thị Hồng P: Buộc ông Lê Văn H và bà Hồ Thị Thu H có trách nhiệm hoàn trả anh K chị P số tiền hụi còn nợ bằng 148.000.000đ. |
18-22 |
5 |
Bản án phúc thẩm số 196/2019/DS-PT ngày 30/07/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau về tranh chấp tiền hụi, tiền vay và thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh.
Nội dung: Đối với dây hụi 10.000.000 một tháng khui 01 lần, tại thời điểm giao dịch hụi thì thành viên tham gia hụi đều thống nhất là hụi có lãi, lãi mà thành viên được hưởng từ việc bỏ thăm ở từng kỳ hụi, đây là sự thỏa thuận tự nguyện giữa các thành viên khi tham gia. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 21 của Nghị định số: 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về hụi, họ, biêu, phường) quy định về quyền của thành viên trong họ đầu thảo: Đưa ra mức lãi ở mỗi kỳ mở họ (hiện nay được quy định tại Điều 20 Nghị định số 19/2019/NĐ- CP ngày 19/02/2019 về họ, hụi, biêu, phường). Trên tinh thần quy định của điều luật phù hợp với sự tự nguyện giữa các thành viên khi tham gia hụi và hụi viên có quyền bỏ thăm ở mỗi kỳ mở hụi và họ được hưởng khoản lãi hụi, chị N1 hốt hụi đầu tiên thì phải mất một khoản lãi cho những hụi viên hốt hụi sau là hoàn toàn phù hợp với quy định của pháp luật nên phần lãi hụi được chấp nhận. Án sơ thẩm chỉ xem xét buộc ông M, bà N2 thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo thỏa thuận, không đề cập đến việc xử lý tài sản là phần đất giao khoán cho hộ gia định ông M, bà N2 nên án sơ thẩm không đưa tất cả các thành viên hộ gia đình để tham gia tố tụng là đúng quy định pháp luật. Tòa án tuyên: – Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của chị Huỳnh Hồng T1 đối với chị Nguyễn Thị Mỹ N1, anh Phạm Thế T2 về việc thanh toán tiền vay, tiền hụi và thực hiện bảo lãnh đối với ông Nguyễn Văn M, bà Phan Thị Nghiêm. – Buộc chị N1, anh T2 có trách nhiệm liên đới thanh toán cho chị T1 tổng số tiền 997.629.000 đồng, trong đó: Tiền vay 340.000.000 đồng; Tiền hụi 662.000.000 đồng; Tiền lãi hụi 5.629.000 đồng. |
23-32 |
6 |
Bản án phúc thẩm số 38/2019/DS-PT ngày 06/06/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận về tranh chấp huê, hụi.
Nội dung: Bà T khởi kiện bà T1 yêu cầu hoàn trả 50.000.000đ tiền huê hụi, thời hạn đóng huê của bà T1 cho bà T là 20 kỳ tính từ ngày 20/02/2012, hạn chót bà T1 phải đóng huê là ngày20/10/2013. Như vậy sau thời hạn ngày 20/10/2013 được tính là ngày bà T có quyền và lợi ích bị xâm phạm và thời hiệu khởi kiện được tính là 03 năm. Tuy nhiên, ngày 21/9/2018 trong quá trình làm việc tại Tòa án bà T1 đã thừa nhận có tham gia dây hụi như bà T trình bày. Việc bà T1 đã thừa nhận có chơi hụi ngày 20/01/2012 là thừa nhận nghĩa vụ đối với bà T. Như vậy, thời hiệu khởi kiện của bà T được bắt đầu lại từ ngày 21/9/2018 theo quy định tại điểm a khoản 1 điều 157 BLDS năm 2015. Dây hụi 5.000.000 đồng mở ngày 20/01/2012 do bà T làm chủ là họ hoa hồng quy định tại Điều 24 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP. Bà T1 tham gia dây hụi này và là người hốt đầu với số tiền là 100.000.000 đồng. Do vậy, bà T1 phải có nghĩa vụ đóng 20 kỳ hụi còn lại với tổng số tiền 100.000.000 đồng. Thực tế thì bà T1 chỉ đóng 10 kỳ với số tiền là 50.000.000 đồng, trong 10 kỳ này, bà T1 trực tiếp đóng cho bà T 04 kỳ và có gửi cho bà T2 đóng cho bà T 06 kỳ, điều này đã được bà T thừa nhận. Như vậy, số tiền hụi 10 kỳ còn lại tương ứng với số tiền 50.000.000 đồng lẽ ra bà T1 phải có nghĩa vụ đóng cho chủ hụi là bà T theo thỏa thuận. Do bà T1 không đóng cho bà T và bà T đã đóng thay bà T1 số tiền này nên bà T yêu cầu bà T1 trả lại cho bà số tiền 50.000.000 đồng là đúng quy định tại khoản 3 Điều 28 Nghị định số 144/2006/NĐ-CP. Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc T. Buộc bà Ngô Thị T1 và ông Lê Minh T phải trả phải trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc T số tiền 50.000.000 đồng. Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Nguyễn Thị Ngọc T: Buộc bà Ngô Thị T1 và ông Lê Minh T phải trả phải trả cho bà Nguyễn Thị Ngọc T số tiền 50.000.000 đồng. |
33-38 |
7 |
Bản án phúc thẩm số 03/2019/DS-PT ngày 27/03/2019 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành tỉnh Hậu Giang về tranh chấp nợ hụi.
Nội dung: Nguyên đơn Ngô Xuân N khởi kiện bị đơn Huỳnh Thị H yêu cầu giải quyết trả nợ hụi. Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc bị đơn bà Huỳnh Thị H có nghĩa vụ trả cho nguyên đơn bà Ngô Xuân N số tiền nợ hụi 17.000.000 đồng. |
39-42 |
8 |
Bản án phúc thẩm số 29/2019/DS-PT ngày 15/03/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp về tranh chấp dân sự về hụi.
Tòa án sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn D về việc yêu cầu bị đơn U và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan V liên đới trả tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ; Bác yêu cầu của bà D về việc yêu cầu anh V liên đới cùng chị U trả tiền hụi cho chị D. Buộc bà U trả cho bà D số tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ. Tòa án phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bà U; Giữ nguyên bản án sơ thẩm: Chấp nhận một phần yêu cảu của bà D về việc yêu cầu bà U trả tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ; không chấp nhận yêu cầu cả bà D về việc yêu cầu anh V liên đới cùng bà U trả tiền hụi cho bà D; Buộc bà U trả cho bà D số tiền hụi còn thiếu là 61.000.000đ và lãi chậm trả là 4.624.200đ. |
43-49 |
9 |
Bản án sơ thẩm số 05/2019/DS-ST ngày 28/02/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thới Bình tỉnh Cà Mau về tranh chấp tiền hụi.
Nội dung: Bà B có chơi 01 chân hụi do bà H làm chủ: Dây hụi 05 triệu đồng mở ngày 06/9/2014 âm lịch, 01 tháng khui 01 lần, gồm có 29 hụi viên. Trong danh sách hụi ghi tên “Út T”; dây hụi thứ hai do bà B làm chủ mở ngày 09/02/2015 âm lịch, loại hụi 03 triệu đồng, 01 tháng khui 01 lần, gồm 24 hụi viên, bà H chơi 02 chân. Hai dây hụi nói trên thuộc loại hụi hưởng hoa hồng. Việc tham gia chơi hụi giữa bà B và bà H là tự nguyện. Căn cứ vào khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án công nhận giao dịch hụi giữa các đương sự là có thật và hợp pháp. Sau khi bể hụi, bà H không thanh toán khoản tiền mà bà B đã đóng vào dây hụi 05 triệu đồng do bà H làm chủ hụi cũng như không đóng 02 chân hụi chết của dây hụi 03 triệu đồng do bà B làm chủ là vi phạm nghĩa vụ thanh toán của chủ hụi cũng như của hụi viên. Tuy nhiên, đối với số tiền 80 triệu đồng mà bà B yêu cầu gia đình bà H thanh toán trong dây hụi 05 triệu đồng được tính trên giá trị đầu hụi là không phù hợp, vì bà B đang nuôi hụi sống, số tiền thực tế mà bà đóng vào dây hụi chỉ có 44.280.000 đồng, số tiền còn lại theo yêu cầu là phần lãi suất của mỗi kỳ khui hụi. Ngược lại, bà H chỉ đồng ý thanh toán phần vốn hụi cũng là không phù hợp, bởi bà H làm chủ dây hụi có lãi. Tòa án tuyên: – Không chấp nhận bổ sung yêu cầu của bà Nguyễn Thị Út B (tên gọi khác là Út T) về việc yêu cầu anh Huỳnh Phương V thanh toán khoản nợ hụi. – Buộc bà Phạm Đông H và ông Huỳnh Việt T cùng chịu trách nhiệm thanh toán cho bà Nguyễn Thị Út B (tên gọi khác là Út T) tổng số tiền hụi còn nợ là 123.653.000 đồng (một trăm hai mươi ba triệu sáu trăm năm mươi ba ngàn đồng). Kể từ ngày bà B có đơn yêu cầu thi hành án. Trường hợp bà H, ông T không chịu thanh toán khoản tiền nói trên cho bà B, thì hàng tháng, bà H và ông T còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền phải thi hành án theo lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật dân sự. |
50-60 |
10 |
Bản án phúc thẩm số 02/2019/DS-PT ngày 15/01/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Bắc Giang về tranh chấp hợp đồng vay tài sản và phường họ.
Nội dung: Căn cứ vào các giấy vay tiền ngày 02/12/2017, ngày 31/01/2018, ngày 27/3/2018 thì Bà H1 là người viết giấy vay tiền của Bà Ng1, Ông S1. Giấy biên nhận bà cho Anh Tr2, anh Toản vay tiền là trước thời điểm bà viết giấy vay tiền Bà Ng1. Nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định không có căn cứ xác định Bà H1 vay tiền của Bà Ng1 để cho Anh Tr2, anh Toản vay là có căn cứ. Bà H1 và Ông C1 là vợ chồng hợp pháp, trong các giấy vay tiền Bà Ng1 đều ghi mục đích để kinh doanh, giữa Bà H1 và Ông C1 không có thỏa thuận về viêc kinh doanh chia tài sản riêng trong thời kỳ hôn nhân. Căn cứ Điều 288 Bộ luật dân sự; Điều 27, Điều 37 Luật hôn nhân và gia đình thì Bà H1, Ông C1 phải 11 chịu trách nhiệm liên đới đối với việc thanh toán nợ gốc, lãi và tiền phường họ là có căn cứ. Việc Bà H1 trình bày ký và viết giấy biên nhận vay nợ Bà Ng1 là do Bà Ng1 ép buộc nhưng bà không có chứng cứ nào để chứng minh nên không có căn cứ xác định việc vay nợ do bị ép buộc bà cho vay nặng lãi. Do đó, Toà sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của Bà Ng1 buộc Bà H1 và Ông C1 phải trả cho Nghĩa số tiền gốc 410.000.000 đồng là có căn cứ. Tòa án sơ thẩm và phúc thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Ng1. – Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Văn C1 phải có nghĩa vụ liên đới thanh thanh toán trả bà Ngô Thị Ng1 và ông Nguyễn Tiến S1 số tiền vay nợ gốc là 9.410.000.000đ và 20.888.300đ tiền lãi. Tổng cả gốc và lãi: 430.888.300đồng – Buộc bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Văn C1 phải có nghĩa vụ liên đới thanh toán trả bà Ngô Thị Ng1 và ông Nguyễn Tiến S1 số tiền phường họ còn nợ là 130.207.000đ, trong đó nợ gốc là 110.000.000đ, lãi là 20.207.000đ. Tổng số tiền bà Nguyễn Thị H1 và ông Nguyễn Văn C1 phải liên đới thanh thanh toán trả bà Ngô Thị Ng1 và ông Nguyễn Tiến S1 (gồm tiền vay gốc, lãi và tiền phường họ: gốc, lãi) là 561.095.300đ (Năm trăm sáu mươi mốt triệu không trăm chín mươi lăm nghìn ba trăm đồng). |
61-73 |
11 |
Bản án sơ thẩm số 36/2018/DS-ST ngày 21/12/2018 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa tỉnh Bắc Giang về phường họ.
Nội dung: Xét yêu cầu của ông C và yêu cầu ông B và L phải trả cho ông C số tiền 86.400.000đ. Theo biên bản họp thường, họ, các thành viên tham gia họp thường họ có thỏa thuận về số tiền đóng phường, họ cũng như trách nhiệm của các thành viên. Như vậy, các bên đã giao kết về hợp đồng dân sự, việc giao này giữa các bên là hoàn toàn tự nguyện, về hình thức và nội dung giao kết không trái đạo đức xã hội, phù hợp với quy định Điều 389,401, 402, 403, 404 của Bộ luật dân sự 2005 tại thời điểm giao kết phù hợp với quy định tại Điều 7,8,13,14,15,16,17 của Nghị định 144/2006/NĐ-CP ngày 27/11/2006 của Chính phủ về ho, hụi. Ông B và bà L là quan hệ vợ chồng. Việc chơi phường, họ trong dân nhằm mục đích phát triển kinh tế gia đình, thu nhập hợp pháp cũng như vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân là thu nhập và nợ C của vợ chồng. Căn cứ Điều 288 Bộ luật dân sự và điều 27,37 Luật hôn nhân và gia đình thì bà L, ông B phải chịu trách nhiệm liên đới đối với việc thanh toán nợ gốc và lãi cho ông C. Tòa án tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông C. – Buộc ông B và bà L phải có nghĩa vụ L đới thanh toán trả cho ông C và bà B số tiền phường họ còn nợ là 84.800.000đ. |
74-89 |
……………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn