Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TỔNG HỢP 32 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ

TỔNG HỢP 32 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ

FDVN tiếp tục chia sẻ tập tài liệu “TỔNG HỢP 32 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ” do các Luật sư/ Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tâm và tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho học tập, nghiên cứu và công tác. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích khác bất hợp pháp.

LINK TẢI: TỔNG HỢP 32 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM VỀ CÁC TỘI PHẠM XÂM PHẠM TRẬT TỰ QUẢN LÝ KINH TẾ

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

MỤC LỤC

STT

TÊN BẢN ÁN

SỐ TRANG

1

Bản án số 55/2020/HS-PT ngày 08/5/2020

V/v Khai thác trái phép 22,899mgỗ lim xanh

Tại Bản án sơ thẩm, các bị cáo bị tuyên về tội “Vi phạm các quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án.

Bản án phúc thẩm, Tòa án xét thấy Tòa cấp sơ thẩm là đúng quy định, các bị cáo không đủ điều kiện để giám án nên không chấp nhận kháng cáo.

1

2

Bản án số 282/2019/HS-PT ngày 22/10/2019

V/v Bị cáo buôn bán các loại pháo nổ

Tại Bản án sơ thẩm, tuyên bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án.

Tại Bản án phúc thẩm có tình tiết giảm nhẹ mới nên cần giảm nhẹ một phần hình phạt nên chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa một phần Bản án sơ thẩm.

9

3

Bản án số 35/2020/HS-PT ngày 25/02/2020

V/v Khai khống khối lượng, giá cả thực phẩm nhập bếp ăn bệnh nhân cao hơn thực tế để quyết toán lấy tiền chênh lệch.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ án.

Bản án phúc thẩm, Tòa án xét thấy bị cáo có thêm tình tiết giảm nhẹ nhưng mức án đã tuyên là phù hợp, không nặng nên bác đơn của bị cáo và giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

16

4

Bản án số 02/2019/HS-ST ngày 16/01/202

V/v Lương Viết H cùng đồng bọn giả mạo khai mam tài liệu, chứng từ kế toán gây thiệt hại cho Nhà nước.

Bản án sơ thẩm bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử thay đổi Kiểm sát viên do có dấu hiệu không công tư khi làm nhiệm vụ và được Hội đồng xét xử chấp thuận. Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về kế toán gây hậu quả nghiêm trọng.

31

5

Bản án số 02/2020/HS-PT ngày 02/01/2020

V/v Buôn bán và vận chuyển thuốc lá nhập lậu

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo về tội “Buôn bán hàng cấm” và tội “Vận chuyển hàng cấm”. Viện trưởng Viện kiếm sát kháng nghị yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại vì cho rằng có sai lầm trong áp dụng pháp luật; việc xử phạt không đúng với tính chất, mức độ tham hia gia trong vụ án; Giấy kết quả thi hành án phí không xác định ngày thi hành án nên không đủ căn cứ để xác định bị cáo đã được xoán án tích hay chưa.

Bản án phúc thẩm, Tòa án xét thấy cấp sơ thẩm đã áp dụng đúng quy định của pháp luật; mức xử phạt các bị cáo là quá nhẹ, không phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội là có căn cứ nhưng đại diện Viện kiểm sát đề nghị hủy án sơ thẩm vì lý do này là không cần thiết, làm kéo dài thời gian giải quyết vụ án. Do đó, Tòa án chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát, sửa bản án sơ thẩm.

48

6

Bán án số 857/2019/HS-PT ngày 31/12/2019

V/v Bị cáo khai thác cát trái phép làm vật liệu xây dựng

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác tài nguyên”. Bị cáo có kháng cáo xin được giảm nhẹ án, Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan (L, L1) kháng cáo xin lại tài sản đã thu giữ.

Bản án phúc thẩm, Tòa án xét thấy bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ nên có đủ điều kiện để được giảm nhẹ án, bác yêu cầu của bị cáo L do tài sản đứng tên bị cáo, chấp nhận yêu cầu kháng cáo của L1 vì không biết bị cáo thuê tài sản để vận chuyển cát khai thác trái phép nên được trả lại tài sản do đó, sửa một phần Bản án sơ thẩm.

60

7

Bản án số 845/2019/HS-PT ngày 26/12/2019

V/v Các bị cáo có hành vi làm giả, mua, bán hồ sơ thương mại, trực tiếp chuyển trái phép tiền ngoại tệ ra nước ngoài cho nhiều người nhằm thu lợi bất chính.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép tiền tệ qua biên giới”, tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”. Các bị cáo có đơn kháng nghị xin giảm nhẹ án, yêu cầu tuyên bị cáo không phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức”.

Bản án phúc thẩm, bị cáo thay đổi nội dung kháng cáo tuyên bị cáo không phạm tội “Làm giả con dấu, tài liệu của cơ quan, tổ chức” và xin giảm nhẹ án. Tòa án xét các bị cáo có đủ điều kiện giảm nhẹ án nên chấp nhận đơn kháng cáo và sửa một phần Bản án sơ thẩm.

67

8

Bản án số 26/2019/HS-PT ngày 23/12/2019

V/v Khai thác gỗ thuộc Danh mục thực vật, động vật rùng nguy cấp, quý hiếm

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”. Viện trưởng Viện kiểm sát có đơn kháng nghị yêu cầu không cho bị cáo được hưởng án treo.

Bản án phúc thẩm, Tòa án xét thấy bị cáo có hành vi nhờ người thân viết hộ đơn, sau đó bị cáo đi xin chữ ký, xác nhận và đóng dấu, lời khai không thành khẩn khai báo, không ăn năn hối cải nên không được áp dụng tình tiết giảm nhẹ, không đủ điều kiện để được hưởng án treo. Do đó, Tòa án chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát, sửa một phần Bản án sơ thẩm.

81

9

Bản án số 811/2019/HS-PT ngày 05/12/2019

V/v Bị cáo có hành vi sử dụng hợp đồng kinh tế giả để hợp thức hóa hồ sơ hải quan để nhập thịt trâu nhập từ Ấn Độ về Việt Nam.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Buôn lậu”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án, Viện trưởng Viện kiểm sát có đơn kháng nghị yêu cầu sửa một phần Bản án sơ thẩm theo hướng tăng hình phạt đối với bị cáo.

Bản án phúc thẩm, bị cáo cho rằng hành vi của mình là nhằm trốn thuế nhập khẩu và yêu cầu áp dụng khung hình phạt tội trốn thuế.

Tòa án nhận định hành vi của bị cáo có động cơ để trón thuế và dùng các hợp đồng giả để xin khai lại và nộp thuế bổ sung nhưng lô hàng của bị cáo đã nhập về đã bị cơ quan Hải quan phát hiện là có vi phạm do đó không chấp nhận kháng cáocủa bị cáo về việc áp dụng khung hình phạt của tội trốn thuế. Bị cáo có nhân thân xuất, hàng hóa buôn lậu lớn nên chấp nhận kháng cáo của Viện kiếm sát tăng hình phạt đồng thời sửa Bản án sơ thẩm.

87

10

Bản án số 146/2019/HS-ST ngày 22/11/2019

V/v Bị cáo có hành vi mua bán các loại quần jean giả nhãn hậu “Levi’s xâm phạm đến lợi ích của chủ thể đã được đăng ký bản quyền, quyền sở hữu công nghiệp của Công ty L được đăng ký bảo hộ tại Việt Nam.

Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp”.

100

11

Bản án số 372/2019/HS-PT ngày 20/11/2019

V/v Bị cáo Huỳnh Hữu B có mục đích tạo quỹ riêng để dễ dàng chi tiêu cho các nội dung không nằm trong dự toán chi ngân sách Nhà nước, lập Bộ chứng từ khống để rút từ dự toán chi ngân sách.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo về tội “Lập quỹ trái phép”. Viện trưởng Viện kiếm sát nhân dân tối cao tại Đà Nẵng có đơn kháng cáo đề nghị hủy Bản án sơ thẩm để điều tra lại theo hướng khởi tố bị cáo B và các đối tượng về tội “Mua bán trái phép hóa đơn” và không cho hưởng án treo.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định đối với kháng nghị đề nghị xử lý hành vi mua bán hóa đơn chỉ nêu chung chung, chưa cụ thể cho từng người nào phải chịu trách nhiệm, người nào đủ căn cứ để đề nghị xử lý. Tòa án cấp sơ thẩm đã thực hiện thủ tục trả hồ sơ điều tra bổ sung về tội này nhưng Cơ quan điều tra vẫn không thực hiện được và xác định không có dấu hiệu tội phạm/không đủ yếu tố cấu thành tội phạm do đó Hội đồng xét cử phúc thẩm chỉ cần kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền tiếp tục xem xét làm rõ, xử lý mà không cần hủy Bản án sơ thẩm. Hội đồng xét xử xét thấy hành vi rút tiền từ ngân sách Nhà nước để lập quỹ trái phép là do chủ trương của B nên chấp nhận kháng cáo của Viện kiểm sát không cho bị cáo hưởng án treo đồng thời sửa một phần Bản án sơ thẩm về hình phạt đối với B.

109

12

Bản án số 692/2019/HS-PT ngày 16/01/2019

V/v Các bị cáo Đoàn Quang K, Lê Quảng Đ, Trịnh Duy K có hành vi chế tạo dầu nhớt giả để bán ra thị trường nhằm thu lợi bất chính

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Sản xuất hàng giả”. Bị cáo Đ và Trinh Duy K có kháng cáo thừa nhận một phần tội như cấp sơ thẩm đã tuyên và yêu cầu xem xét chỉ phạm tội với số lượng hàng giả là 83.426. 442 đồng.

Bản án phúc thẩm, Tòa án xét thấy bị can Đoàn Quang K là người chủ mưu đã bỏ trốn, chưa bắt được nên chưa làm rõ được mà Viện kiểm sát và Tòa án cấp sơ thẩm truy tố, xét xử là chưa có cơ sở vững chắc. Đồng thời, bị cáo Đ và Trịnh Duy K là người làm công cho Đoàn Quang K có vai trò giúp sức cho K, là đồng phạm giản đơn, không bàn bạc việc tổ chức sản xuất, không được hưởng lợi từ việc sản xuất và hoàn toàn phụ thuộc vào K nên chấp nhận kháng cáo của các bị cáo.

120

13

Bản án số 612/2019/HS-PT ngày 16/10/2019

V/v Các bị cáo có hành vi móc nối với các Việt kiều để các Việt kiều này đứng tên đứng tên chủ sở hữu ô tô, mô to tại nước ngoài, nhập khẩu về Việt Nam dưới hình thức để sử dụng, không phải đóng thuế, sau đó bán ra thì trường để thu lợi.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Buôn lậu”. Các bị cáo có đơn kháng cáo đề nghị không buộc các bị cáo nộp lại tiền thất thu thuế nhà nước, đơn kêu oan, và xin giảm nhẹ án.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định: Đối với đơn kháng cáo kêu oan bị cáo cho rằng mình chỉ là mua tiêu chuẩn nhập xe chứ không có hành vi buôn lậu. Tuy nhiên hành vi mua tiêu chuẩn nhập xe của bị cáo là để phục vụ cho việc nhập khẩu xe mà không phải chịu thuế, sau đó bán ra ngoài thị trường đã cấu thành tội “Buôn lậu”. Đối với đề nghị không buộc các bị cáo nộp lại tiền thất thu thuế nhà nước các bị cáo cùng nhau buôn lậu gây thiệt hại lơn cho nhà nước nên cần tịch thu nộp vào ngân sách nhà nước để khắc phục hậu quả. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của các bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

129

14

Bản án số 590/2019/HS-PT ngày 07/10/2019

V/v Bị cáo Lê Văn T có hành vi làm hồ sơ quyết toán khống công trình làm thất thoát ngân sách nhà nước; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để vay Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam, vay Quỹ đầu tư tỉnh Kiên Giang để dùng cho mục đích cá nhân không nhập quỹ.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo T phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” và tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”.  Nguyên đơn có đơn kháng cáo yêu cầu trả lại ½ số tiền đã nộp để khắc phục hậu quả cho bị cáo vì cho rằng nguyên đơn và bị cáo đã ly hôn số tiền nộp không phải tài sản chung.

Bản phúc thẩm, Tòa án nhận định số tiền nguyên đơn nộp để khắc phục hậu quả cho bị cáo là hoàn toàn tự nguyện, nhờ đó bị cáo cũng được xem xét tình tiết giảm nhẹ đồng thời nguyên đơn cũng thừa nhận sau khi vụ án khởi tố mới nộp đơn ly hôn do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

150

15

Bản án số 51/2019/HS-PT ngày 26/7/2019

V/v Bị cáo có hành vi mua bán điện thoại Iphone 8 PLus để kiếm lời.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo C phạm tội “Buôn bán hàng giả”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin được giảm nhẹ án và được hưởng án treo vì bị cáo thiếu hiểu biết nên dẫn tới vi phạm pháp luật, thiệt hại chưa xảy ra, gia đình có công với cách mạng, là hộ nghèo, bị cáo phải nuôi bố mẹ giả con thơ, ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định vụ án rất nghiêm trọng có khung hình phạt từ 07 năm – 15 năm tù nếu cho hưởng án treo sẽ không có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa tội phạm. Do đó, chỉ chấp nhận một phần đơn kháng cáo về giảm nhẹ án cho bị hại, sửa Bản án sơ thẩm.

162

16

Bản án số 45/2019/HS-PT ngày 25/06/2019

V/v Bị cáo vận chuyển báo từ Trung Quốc về Việt Nam

Bản án sơ thẩm tuyên các bị cáo phạm tội “Vận chyển hàng cấm”. Các bị cáo H, C, N có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án.

Bản án phúc thẩm, tại phần tranh luận bị cáo N yêu cầu hủy Bản án sơ thẩm, trả hồ sơ để điều tra bổ sung vì Quyết định trưng cầu giám định không mang tính khách quan có ý thức chủ quan và các biên bản xác định trọng lượng pháo lập ngày 12/9/2019 không có căn cứ thể hiện trọng lượng pháp đó đã trừ bì. Tòa án nhận định bị cáo không có bất cứ tài liệu nào chứng minh cho việc trọng lượng pháo của từng bao chưa trừ bì, nội dung tại Quyết định trưng cầu giám định là khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Do dó, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ án của bị cáo H, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo C, N và sửa Bản án sơ thẩm.

167

17

Bản án sơ thẩm số 15/2019/HS-ST ngày 12/06/2019

V/v Bị cáo Trần Văn H và đồng bọn thực hiện việc để ngoài sổ sách kế toán tài sản từ việc chuyển nhượng đất để sử dụng không đúng quy định và sử dụng hết số tiền này.

Bản án sơ thẩm, Người bào chữa cho các bị cáo Mai Thị B cho rằng hành vi ký phiếu thu đúng bằng số tiền khách hàng đã nộp nên không vi phạm bất kỳ quy định nào, bị cáo ký quyết toán vốn đầu tư là thực hiện nghĩa vụ của công ty đối với UBND, doanh nghiệp có quyền định giá bán, giá UBND đưa ra là để xác định nghĩa vụ nộp tiền sử dụng đất. Đối với tội “Cố ý làm trái quy định của pháp luật về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng” đã bị xóa bỏ, hành vi không còn nguy hiểm cho xã hội đề nghị miễn trách nhiệm hình sự.

Tòa án nhận định, UBND là cổ đông có vốn trong công ty việc để ngoài sổ sách kế toán tài sản của công ty hoặc chi không hợp pháp sẽ gây thiệt hại về tài sản cho các cổ đông kể cả trong trường hợp doanh thu từ việc bán đất không thấp hơn giá mà UBND quy định khi không có sự đồng ý của các cổ đông, trong đó có UBND. Đây là thiệt hại vật chất và là hậu quả của tội phạm không phụ thuộc vào việc đã sử dụng vào việc gì.

Tòa án cấp sơ thẩm tuyên các bị cáo phạm tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”.

179

18

Bản án số 22/2019/HS-ST ngày 31/5/2019

V/v Vũ Văn T đại diện đơn vị giám sát và Mai Vinh Q đại diện chủ đầu tư công trình xây dựng Kho lưu trữ tài liệu tỉnh Đắk Nông ký nghiệm thu khối lượng một số hạng mục chưa thi công, gây thiệt hại cho Nhà nước.

Bản án sơ thẩm, Toàn án nhận định hành vi của các bị cáo có đủ yếu tố cấu thành tội “Cố ý làm trái quy định của Nhà nước về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng”. Tuy nhiên tại thời điểm xét xử Bộ luật Hình sự 2015 có hiệu lực pháp luật và không còn quy định về tội trên mà được thay thế bằng tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”; mức hình phạt của hai tội danh tương đương nhau. Do đó, tuyên bị cáo T, Q về tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”.

201

19

Bản án số 291/2019/HSPT ngày 23/5/2019

V/v Các bị cáo làm tiền giả tại Việt Nam mệnh giá 500.000 đồng để bán thu lợi.

Bản bán sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Làm, lưu hành tiền giả”. Các bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án. Viện trưởng Viện kiểm sát có đơn kháng cáo đề nghị sửa Bản án sơ thẩm theo hướng áp dụng thêm tình tiết tăng nặng, áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo.

Bản án phúc thẩm, Toà án nhận định hành vi của các bị cáo là hết sức tinh vi, có sự phân công, Tòa án tuyên mức phạt cho các bị cáo từ 08 – 12 năm tù là còn nhẹ, Tòa án cấp sơ thẩm không tuyên áp dụng hình phạt bổ sung là trái quy định. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, chấp nhận kháng  cáo của Viện kiểm sát, sửa một phần Bản án sơ thẩm.

210

20

Bản án số 15/2019/HS-ST ngày 14/3/2019

V/v Các bị cáo có hành vi cho vay nặng lãi với mức  lãi suất thấm nhất là 109,5%/năm, lãi suất cao nhất là 182,5% vượt từ 5,475 – 9,125 lần mức cho phép.

Bản án sơ thẩm, Tòa án nhận định hành vi của bị cáo thuộc loại ít nghiêm trọng nhưng hành vi là nguy hiểm cho xã hội, không những ảnh hưởng đến trật tự quản lý kinh tế mà còn mang tính chất bóc lột, làm cho người vay tiền lâm vào hoàn cảnh khó khăn, điêu đứng. Do đó, tuyên các bị cáo phạm tội “Cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự”.

221

21

Bản án số 79/2019/HS-PT ngày 06/03/2019

V/v Các bị cáo có hành vi làm trái quy định an toàn trong hoạt động tín dụng không thực hiện đúng qiu định về điều kiện vay vốn và tài sản, không kiểm tra, giám sát, xử lý vốn vay mà chấp nhận tài sản đảm bảo không có thật gây thiệt hại là 64.194.072.070 đồng tiền gốc và 154.528.406.692 đồng tiền lãi tại Ngân hàng X Nam Hoa.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo do bị cáo đang mang thai và đề nghị làm rõ trách nhiệm của các cá nhân liên quan đến việc thanh tra hoạt động tín dụng trong vụ án.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định giấy siêu âm không có xác nhận của cơ quan chuyên môn và việc bị cáo mang thai là tình tiết xem xét để hoãn việc thi hành án chứ không thuộc tình tiết giảm nhẹ hình phạt. Hội đồng xét xử xét thấy quá trình thanh tra không phát hiện sai phạm, Cơ quan cảnh sát điều tra và Viện kiểm sát cho rằng quá trình thực thi nhiệm vụ của các cá nhân này đã thực hiện đúng quy định nên không xem xét. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

231

22

Quyết định Giám đốc thẩm số 37/2018/HS-GĐT ngày 01/02/2018

V/v Bị cáo mua giàn pháo hoa nổ không có giấy tờ có xuất xứ từ Trung Quốc.

Bản án sơ thẩm tuyên bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng cấm” nhưng cho hưởng án treo.

Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có kháng nghị Bản án sơ thẩm đề nghị hủy Bản án sơ thẩm tuyên bố bị cáo không phạm tội “Buôn bán hàng cấm” và đình chỉ vụ án. Vì Luật đầu tư năm 2014 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2017, từ ngày 01/7/2015 đến ngày 01/01/2017 không xác định pháo nổ là hàng cấm, và không xử lý hình sự đối với hành vi tàng trữ, vận chuyển, buôn bán pháo nổ nội địa.

257

23

Quyết định Giám đốc thẩm số 33/2018/HS-GĐT ngày 01/02/2018

V/v Bị cáo Lê Thị T đã tự mình viết và ký mạo chữ ký Giám đốc 485 Hóa đơn Giá trị gia tăng xuất bán cho 113 tổ chức kinh tế và cá nhân có nhu cầu kê khai hàng hóa.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Mua bán trái phép hóa đơn”.

Kết quả điều tra chỉ xác minh làm rõ được bị cáo bán 351/485 tờ Hóa đơn cho 75/113 tổ chức kinh tế, cá nhân số còn lại chưa làm rõ nhưng Cơ quan tiến hành tố tụng cấp sơ cấp buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm với toàn bộ 485 tờ Hóa đơn GTGT là chưa đầy đủ. Bản án sơ thẩm xác định số tiền bị cáo thu lợi bấ chính là 1.525.235.739 đồng là không chính xác vì chưa trừ số tiền bị cáo chi ra để mua hóa đơn đầu vào. Việc không đưa Cơ quan thế, các tổ chức kinh tế và cá nhân có liên quan vào tham gia là vi phạm tố tụng. Do đó, chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát để điều tra lại.

260

24

Bản án số 304/2018/HS-ST ngày 26/11/2018

V/v Bị cáo Đỗ Vă T mua các cá thể và chi động vật thuộc Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm, được ưu tiên bảo vệ.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo T phạm tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý hiếm”. Trước đó, bị cáo bị xử 09 tháng tù về tội “Vi phạm các quy định về bảo vệ động vật thuộc danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ”. Tổng hình phạt cho 02 bản án là 10 năm 09 tháng tù.

263

25

Bản án số 78/2018/HS-ST ngày 25/10/2018

V/v Bị cáo Trần H H có hành vi mua vé giả tham quan du lịch nội thành Huế để bán cho khách hàng.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo Trần H H phạm tội “Buôn bán vé giả”.

271

26

Bản án số 49/2018/HS-PT ngày 23/10/2018

V/v Bị cáo Thái An Đ với chức vụ trưởng Ban quản lý chợ thực hiện thu phí cho thuê mặt bằng không nộp vào quỹ, không nộp vào Ngân sách Nhà nước mà để tài sản ngoài sổ sách kế toán và mở tài khoản trái nguyên tắc tài chính để sử dụng chi tiêu cho các hoạt động của Ban quản lý chợ, gây thiệt hại cho Ngân sách nhà nước

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Lập quỹ trái phép”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án và được hưởng án treo, đồng thời xin chuyển hình phạt tù sang phạt tiền hoặc cải tạo không giam giữ.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định Bản án sơ thẩm xử phạt bị cáo 12 tháng tù là có phần nghiêm khắc vì hành vi có một phần nguyên nhân vì tình hình tài chính của Ban quản lý chợ khó khăn, gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước nhưng bị cáo không sử dụng vào mục đích tư lợi cá nhân, bị cáo có khắc phục hậu quả. Việc cách ly bị cáo là không cần thiết mà chỉ cần buộc bị cáo chịu phạt hành chính. Do đó, chấp nhận kháng cáo của bị cáo, sửa Bản án sơ thẩm.

278

27

Bản án số 582/2018/HS-PT ngày 17/10/2018

V/v Các bị cáo có hành vi vận chuyển gỗ từ biên giới M về Đồng Tháp.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới”.  Bị cáo có kháng cáo xin giảm nhẹ án vì bị cáo chỉ là người làm thuê, không hiểu biết pháp luật.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định bị cáo phạm tội đồng phạm gản đơn, là cư dân Campuchia sống tại khu vực biên giới nhưng không xuất trình được tình tiết giảm nhẹ nào mới. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

287

28

Bản án số 328/2018/HS-PT ngày 15/10/2018

V/v Các bị cáo có hành vi khai thác trái phép gỗ tại rừng đặc dụng  thuộc Vườn quốc gia.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Vi phạm quy định về khai thác, bảo vệ rừng và lâm sản”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án.

Bản án phúc thẩm, các bị cáo không cung cấp được tình tiết giảm nhẹ án nào mới. Do đó, không có căn cứ chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

291

29

Bản án số 462/2018/HS-PT ngày 15/10/2018

V/v Bị cáo có hành vi sản xuất buôn bán bột ngọt nhãn hiệu AJONOMOTO.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo Dương Hoàng Q phạm tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”. Bị cáo có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ án, cho bị cáo được hưởng án treo và giảm số tiền buộc nộp phạt bổ sung.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận định không có tình tiết giảm nhẹ nào mới để xem xét cho bị cáo. Do đó, không chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

297

30

Bản án số 31/2018/HS-ST ngày 12/6/218

V/v Bị cáo có hành vi mua phụ gia thực phẩm Mononatri (là mì chính hoặc bột ngọt) có xuất xứ Trung Quốc là hàng thật giá rẻ dùng thủ đoạn gian dối đóng gói bán cho khách hàng.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên bị cáo phạm tội “Buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm”.

306

31

Bản án số 37/2018/HS-PT ngày 14/03/2018

V/v Các bị cáo có hành vi thành lập nhiều công ty để bán trái phép hóa đơn Giá trị gia tăng với số lượng đặc biệt lớn, thu lợi bất chính.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Mua bán hóa đơn, chứng từ thu nộp ngân sách Nhà nước”. Bị cáo có đơn kháng cáo với nội dung: Bản án mà Tòa án nhân dân quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng đã tuyên là quá nặng, xin xem xét giảm nhẹ án. Bị cáo đang mang thai.

Bản án phúc thẩm, Tòa án nhận thấy có tình tiết giảm nhẹ nhẹ mới. Do đó, đình chỉ xét xử phúc thẩm, sửa một phần bản án sơ thẩm.

311

32

Quyết định Giám đốc thẩm số 235/2017/HS-GĐT ngày 07/9/2017

V/v Các bị cáo bị xét xử về tội “Buôn lậu”.

Bản án sơ thẩm, Tòa án tuyên các bị cáo phạm tội “Buôn lậu” phạt tù nhưng cho hưởng án treo. Chánh án Toà án nhân dân cấp cao tại Hà Nội kháng nghị theo hướng hủy Bản án sơ thẩm về phần quyết định hình phạt, đề nghị tăng mức hình phạt

Hành vi của các bị cáo là đặc biệt nghiêm trọng, số lượng quặng sắt buôn bán, vận chuyển trái phép lớn qua biên giới có mức phạt từ 12 đến 20 năm tù nhưng Tòa án sơ thẩm tuyên phạt 03 năm tù cho hưởng án treo. Do đó, hủy Bản án sơ thẩm về phần hình phạt và chuyển hồ sơ cho Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ An xét xử lại.

318

Bài viết liên quan