Feel free to go with the truth

Trang chủ / Giải Quyết Tranh Chấp Bằng Trọng Tài / Tổng hợp 31 Quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tổng hợp 31 Quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 31 Quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 31 Quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

STT

TÊN VĂN BẢN

TRANG

Quyết định số 1024/2022/QĐ-PQTT ngày 08/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 27/01/2021, ông N và bà N đã ký Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số 01/2020/HĐCNVG. Theo hợp đồng, ông N đã chuyển nhượng toàn bộ 50% vốn điều lệ mà nguyên đơn đang sở hữu trong Công ty TNHH T cho bà N với giá chuyển nhượng là 25.000.000.000 (hai mươi lăm tỷ) đồng.

Sau khi hoàn tất thủ tục chuyển nhượng, đến hạn thanh toán tiền đợt 2 nhưng bà N vẫn không thực hiện mặc dù ông N đã nhiều lần yêu cầu. Do bà N vi phạm hợp đồng nên ông N khởi kiện tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) – Chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh theo thỏa thuận tại hợp đồng.

Phán quyết trọng tài lập ngày 25/11/2021 của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) tại Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông N. Buộc bà N thanh toán cho ông N các khoản tiền chuyển nhượng, tiền phạt vi phạm tiến độ thanh toán, tiền lãi chậm trả, hoàn trả phí trọng tài.

Không đồng ý với Phán quyết của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, ngày 28/12/2021, bà N và ông Đ đã nộp đơn khởi kiện tại Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu xem xét huỷ toàn bộ nội dung Phán quyết Trọng tài số 70/21 HCM ngày 25/11/2021 của Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam – chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (VIAC).

Tòa án nhận định

Giữa các bên có ký hai hợp đồng, hợp đồng thứ nhất là Hợp đồng chuyển nhượng góp vốn số 01/2020/HĐCNGV ngày 18/12/2020 có thoả thuận giải quyết tranh chấp tại Trọng tài, hợp đồng thứ hai là Hợp đồng chuyển nhượng phần vốn góp số 02/2020/HĐCNGV ngày 27/02/2021 thoả thuận giải quyết tranh chấp tại Toà án. Tuy nhiên, căn cứ vào Biên bản xác nhận về việc ký kết hợp đồng và thanh toán tiền mua vốn góp Công ty TNHH T ngày 27/01/2021, có ghi nhận nội dung: “Các bên xác nhận rằng, việc ngày 27 tháng 01 năm 2021, Bên A và Bên B đã ký kết Hợp đồng chuyển nhượng vốn góp số 02/2020/HĐCNVG chỉ là bản Hợp đồng giả cách, có nội dung theo yêu cầu của Bên B để tiến hành thủ tục đăng ký kinh doanh. Các nội dung của bản hợp đồng này sẽ không được sử dụng để xác nhận việc thanh toán tiền cũng như để giải quyết tranh chấp”. Do đó, Hợp đồng chuyển nhượng góp vốn số 01/2020/HĐCNGV ngày 18/12/2020 là hợp đồng chính có nội dung ràng buộc các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ. Ông N khởi kiện và cung cấp chứng cứ là Hợp đồng 01/2020/HĐCNGV để Hội đồng trọng tài giải quyết là đúng với thoả thuận của các bên tại hợp đồng. Hội đồng trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam – chi nhánh Thành phố Hồ Chí Minh (VIAC) giải quyết là đúng thẩm quyền và không bị vô hiệu.

Căn cứ vào các phiếu báo phát của dịch vụ chuyển phát nhanh EMS, các văn bản nêu trên đã được trọng tài gửi đến địa chỉ 226 đường 19/5B, Phường T, Quận T là địa chỉ do ông N cung cấp, thể hiện báo phát thành công, đúng theo quy định tại khoản 2 Điều 12 Luật Trọng tài thương mại.

Từ những nhận định nói trên, không có cơ sở chấp nhận yêu cầu của bà N và ông Đ về việc hủy Phán quyết Trọng tài.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu của bà N và ông Đ về việc hủy Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 70/21 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập ngày 25/11/2021 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

1-6

Quyết định số 533/2021/QĐ-PQTT ngày 20/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Yue Limited (nguyên đơn trong phán quyết) yêu cầu tiến hành thủ tục xử lý tài sản đảm bảo theo quy định tại Điều 5.1 của Hợp đồng bảo đảm ngày 05/9/2013 mà Yue Limited đã ký với ông Nguyễn Văn H; bà Nguyễn Thị Hồng V; bà Trần Thị Bông T (bị đơn trong phán quyết);

Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM lập ngày 02/12/2020 của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã quyết định như sau:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là Yue Limited, buộc các bị đơn là bà T, ông L, ông H và bà V có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho nguyên đơn số nợ gốc là 5.962.783 USD;

2. Các bị đơn có nghĩa vụ liên đới thanh toán cho nguyên đơn số tiền nêu trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Phán quyết có hiệu lực.

3. Các bị đơn có nghĩa vụ liên đới bồi hoàn cho nguyên đơn phí trọng tài là 61.433,31 USD và phí Luật sư là 18.016,62 USD trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Phán quyết có hiệu lực.

4. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về số tiền lãi chậm trả tính trên nợ gốc và các yêu cầu khác của nguyên đơn.

Tòa án nhận định

Người yêu cầu đưa ra lý do “Đã hết thời hiệu để yêu cầu thực hiện các nghĩa vụ tài sản do ông Huỳnh Công Đ để lại nên HĐTT không thể giải quyết yêu cầu nguyên đơn được sở hữu cổ phần Công ty Sao Mai của ông Đ”. Tuy nhiên, do giữa nguyên đơn với bà S và Công ty Sao Mai đã gia hạn nghĩa vụ thanh toán nợ đến ngày 31/5/2017 và một số đợt thanh toán sau đó nên thời điểm các bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của mình theo thỏa thuận của các bên theo Hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần là ngày 01/6/2017Do đó, mặc dù ông Đ đã chết vào ngày 12/6/2015 nhưng nguyên đơn chưa thể khởi kiện các bị đơn trong thời gian từ ngày 12/6/2015 đến ngày 31/5/2017 (vì chưa đến hạn thực hiện nghĩa vụ của các bị đơn). Theo quy định tại Khoản 1 Điều 156 Bộ luật Dân sự 2015, khoảng thời gian này được coi là thời gian gặp trở ngại khách quan không tính vào thời hiệu khởi kiện.

Người yêu cầu cho rằng ông L, bà T chưa thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế nên chưa đủ điều kiện để HĐTT giải quyết tranh chấp theo yêu cầu của nguyên đơn. Tuy nhiên pháp luật không có quy định người thừa kế phải thực hiện thủ tục khai nhận di sản thừa kế thì Hội đồng trọng tài mới được giải quyết tranh chấp.

Về lý do “Hội đồng trọng tài xem xét, xác định nội dung ngoài phạm vi vụ tranh chấp và đưa ra phán quyết vượt quá yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn”: Xét, lý do này không có căn cứ vì nội dung phán quyết trọng tài là giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng bảo đảm bằng cổ phần giữa nguyên đơn và các bị đơn là đúng phạm vi tranh chấp giữa các bên.

Tòa án quyết định

Không hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 101/19 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam lập ngày 02/12/2020.

7-13

Quyết định số 587/2022/QĐ-PQTT ngày 10/5/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 21 tháng 12 năm 2016, Công ty V Công ty N đã ký Hợp đồng thiết kế và thi công xây dựng số 07/2016/HDKT-N. Theo Hợp đồng, Công ty N thực hiện thiết kế và thi công công trình nhà xưởng V tại Khu công nghiệp Cầu Tràm, huyện Cần Đước, tỉnh Long An với giá trị hợp đồng là 10.300.000.000 VND. Công ty N đã hoàn tất công trình, các bên đã lập Biên bản nghiệm thu hoàn thành công trình xây dựng để đưa vào sử dụng nhưng Công ty V chưa thanh toán 5% giá trị còn lại của Hợp đồng. Công ty N đã khởi kiện yêu cầu Công ty V thanh toán 5% giá trị còn lại của Hợp đồng là 515.000.000 VND.

Ngày 08/11/2021, Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập tại Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Phán quyết Trọng tài số 134/20 HCM có nội dung như sau:

1. Chấp nhận yêu cầu trong Đơn khởi kiện của Công ty N, buộc Công ty V phải thanh toán cho Công ty N 515.000.000 VND tương ứng với 5% giá trị còn lại của Hợp đồng.

2. Buộc Công ty V phải hoàn trả cho Công ty N khoản phí trọng tài là 48.455.000 VND …

Không đồng ý với Phán quyết của trọng tài, ngày 06/12/2021, Công ty V đã nộp đơn khởi kiện tại Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu xem xét huỷ toàn bộ nội dung Phán quyết Trọng tài số 134/20 HCM ngày 08/11/2021 của VIAC.

Tòa án nhận định

Xét các lý do mà Công ty TNHH Đầu tư và Phát triển V đưa ra để yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài là Công ty N và Công ty V không có thỏa thuận lại về việc đưa tranh chấp ra giải quyết tại trọng tài và cũng không chọn VIAC để giải quyết, do đó VIAC giải quyết là vi phạm điểm a, c khoản 2 Điều 68, Điều 32 Luật Trọng tài thương mại. Hội đồng phiên họp nhận thấy:

tại mục 10.3 Điều 10 của hợp đồng các bên đã thỏa thuận giải quyết tranh chấp tại trọng tài kinh tế thành phố HCM để giải quyết. do các bên thỏa thuận không rõ ràng về điều khoản trọng tài nên ngày 11/8/2018 Công ty N đã ban hành công văn có nội dung yêu cầu Công ty V chọn cơ quan tài phán và thông báo cho Công ty V biết Công ty N chọn VIAC để giải quyết tranh chấp. Khi nhận được tài liệu do VIAC gửi, ngày 22/12/2020 Công ty V đã có công văn số 17/VB-VP-2020 phúc đáp VIAC đề nghị chờ các cơ quan thực thi pháp luật xem xét lại quyết định hủy phán quyết trọng tài số 851/2020/QĐ-PQTT của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh mà không phản đối việc không chấp nhận thẩm quyền VIAC giải quyết. Căn cứ điểm đ khoản 2 Điều 16 Luật trọng tài thương mại thì Công ty V đã được xem đồng ý VIAC có thẩm quyền giải quyết vụ kiện.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH đầu tư và phát triển V về việc hủy Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 134/20 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập ngày 08/11/2021 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

14-19

Quyết định số 12/2023/QĐ-PQTT ngày 04/7/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

ngày 09/8/2019, nguyên đơn và ông T đã ký kết hợp đồng mua bán cổ phần với nội dung ông T chuyển nhượng lại cho nguyên đơn 33.986.774 cổ phần tương đương 34% tổng số cổ phần đã phát hành và có quyền biểu quyết của Công ty Cổ phần mặt nước SĐ. Các bên thỏa thuận giá mua bán là 61.000 đồng Việt Nam /01 cổ phần và tổng giá mua cho toàn bộ cổ phần được chuyển nhượng là 2.073.193.214.000 đồng Việt Nam đã bao gồm các loại thuế.

Quá trình thực hiện hợp đồng, các bên phát sinh tranh chấp nên nguyên đơn đã khởi kiện các bị đơn ra VIAC yêu cầu Hội đồng trọng tài:

– Tuyên bố các bị đơn không hoàn thành nghĩa vụ của họ trong việc thanh toán đầy đủ giá chọn bán cho nguyên đơn

– Các bị đơn có trách nhiệm liên đới và theo phần mua cổ phần được chuyển nhượng từ nguyên đơn với giá chọn bán tại ngày 30/9/2021 là 2.175.252.237.316 đồng

– Các bị đơn có trách nhiệm liên đới và theo phần bồi thường và thanh toán cho nguyên đơn tất cả các chi phí pháp lý và chi phí trọng tài có liên quan của nguyên đơn, bao gồm tất cả phí và chi phí luật sư, chuyên gia cũng như phí và chi phí trọng tài của nguyên đơn và xem xét thêm các trách nhiệm khác mà Hội đồng trọng tài cho là thích hợp.

Ngày 16/12/2022, Hội đồng trọng tài đã ban hành Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp 79/21 và Quyết định:

Các Bị Đơn đã không thực hiện đúng nghĩa vụ thanh toán đầy đủ Giá Chọn Bán cho Nguyên Đơn:

Các Bị Đơn sẽ phải liên đới và riêng rẽ mua cổ phần được chuyển nhượng từ nguyên đơn với giá chọn bán bao gồm tổng các khoản sau:

(a) Khoản Thanh Toán Lần Đầu là 1.131.759.574.200 Đồng Việt Nam

(b) Khoản Thanh Toán Lần Hai là 754.506.382. 800 Đồng Việt Nam,

(c) Chi Phí Thực Hiện đối với Khoản Thanh Toán Lần Đầu bằng

– Khoản tiền 277 823 720.132 Đồng Việt Nam (cho khoảng thời gian từ ngày 25 tháng 10 năm 2019 đến ngày 17 tháng 11 năm 2022); và

– Khoản tiền 1.131.759574,200 Đồng Việt Nam × 8%/365 x số ngày kể từ ngày 18 tháng 11 năm 2022 đến ngày thanh toán đủ trên thực tế, và

(d) Chi Phí Thực Hiện đối với Khoản Thanh Toán Lần Hai bằng:

– Khoản tiền 181.908 388,182 Đồng Việt Nam (cho khoảng thời gian kể từ ngày 14 tháng 11 năm 2019 đến ngày 17 tháng 11 năm 2022), và

– Khoản tiền 754.506.382.800 Đồng Việt Nam × 8%/365 x số ngày kể từ ngày 18 tháng 11 năm 2022 đến ngày thanh toán đủ trên thực tế.

Các Bị Đơn sẽ liên đới và riêng rẽ trả lại cho nguyên đơn toàn bộ phí trọng tài mà nguyên đơn đã thanh toán cho VIAC với số tiền là 5.190.611.000 Đồng Việt Nam.

Các Bị Đơn sẽ liên đới và riêng rẽ hoàn trả cho nguyên đơn một phần chi phi pháp lý và chi phí hợp lý mà nguyên đơn đã phải gánh chịu trong vụ trọng tài này với số tiền 100 000 Đô La Mỹ và 12 923 Đô La Singapore.

Đơn kiện lại của bị đơn thứ nhất bị bác bỏ.

Không đồng ý với phán quyết trọng tài nêu trên, ngày 11/01/2023 các bị đơn là Công ty AO và ông Đỗ Tất T đã nộp đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 79/21 của VIAC và các tài liệu kèm theo đến Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Tòa án nhận định

Tại hợp đồng, các bên đã thỏa thuận tranh chấp sẽ được Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam giải quyết. Thỏa thuận này của các bên là tự nguyện, hợp pháp nên phát sinh hiệu lực.

Xem xét về tính hợp pháp của việc ủy quyền khởi kiện và ủy quyền tham gia tố tụng tại VIAC của nguyên đơn, Hội đồng xét đơn thấy rằng:

Các bên trong vụ tranh chấp cũng như Hội đồng trọng tài đều tập trung phân tích, phản biện và nhấn mạnh quan điểm của mình về các quy định tại điều 478 Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và Nghị định số 111 của Chính Phủ ngày 05/12/2011 về chứng nhận hợp pháp hóa lãnh sự.

Theo đó, Hội đồng trọng tài đã có nhận định: Hội đồng trọng tài với tư cách là cơ quan tiếp nhận tài liệu ủy quyền của nguyên đơn không yêu cầu cầu các tài liệu này phải được hợp pháp hóa lãnh sự, nên các tài liệu này không cần phải được hợp pháp hóa lãnh sự để được sử dụng trong thủ tục tố tụng trọng tài này theo Điều 9.4 của Nghị định 111 (Đoạn 108 của Quyết định thẩm quyền trọng tài)

Hội đồng xét đơn thấy rằng: Luật trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn luật trọng tài thương mại không có quy định cụ thể nào về việc các văn bản ủy quyền khởi kiện cũng như ủy quyền tham gia tố tụng từ nước ngoài gửi về phải được hợp pháp hóa lãnh sự để sử dụng trong tố tụng trọng tài nhưng điều này không đồng nghĩa với việc chấp nhận mọi tư cách tham gia tham tố tụng hoặc loại trừ tính pháp lý, tính hợp pháp của tư cách người khởi kiện cũng như tư cách tham gia tố tụng theo quy định của pháp luật. Các bên trong vụ tranh chấp có thỏa thuận hợp đồng này được điều chỉnh và giải thích theo pháp luật Việt Nam.

Trong vụ việc này được hiểu Luật trọng tài thương mại và các văn bản hướng dẫn luật trọng tài thương mại không quy định thì được áp dụng quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Theo đó điều 478 đã quy định “Giấy tờ, tài liệu và bản dịch tiếng Việt có công chứng, chứng thực đã được hợp pháp hóa lãnh sự”. Vì vậy, VIAC đã thụ lý yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận tư cách tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn khi các tài liệu này chưa được hợp pháp hóa lãnh sự trong khi bị đơn phản đối là không đúng quy định.

Như vậy, pháp luật đã quy định các giấy tờ được gửi từ nước ngoài về Việt Nam phải được hợp pháp hóa lãnh sự nên Hội đồng trọng tài đã thụ lý và giải quyết vụ việc khi các giấy tờ của nguyên đơn chưa hợp pháp nhất là trong trường hợp bị đơn phản đối, không đồng ý về giá trị pháp lý các nghị quyết và giấy ủy quyền này là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng (xác định tư cách khởi kiện).

HĐXX thấy rằng Hội đồng trọng tài của phán quyết 79/21 đã không khách quan khi giải quyết tranh chấp vi phạm khoản 2 điều 4 luật Trọng tài thương mại quy định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài nên yêu cầu về việc hủy Phán quyết trọng tài của bên yêu cầu là có căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 2 điều 68 Luật Trọng tài thương mại.

Tòa án quyết định

Chấp nhận yêu cầu của Công ty Cổ phần nước AO và ông Đỗ Tất T về việc đề nghị hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 79/21 ngày 16/12/2022 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).

Hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 79/21 ngày 16/12/2022 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) giữa Nguyên đơn: WP PTEvà Bị đơn: Công ty Cổ phần nước AO và ông Đỗ Tất T .

20-43

Quyết định số 786/2022/QĐ-PQTT ngày 07/6/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 11/01/2020, Công ty TNHH C và Công ty Cổ phần Bất động sản F ký kết Thư giao kết tư vấn và thẩm định giá cho khu đất dự án diện tích 52.095,5 m2 nằm trong Khu đô thị CIPUTRA, quận Tây Hồ, Hà Nội theo đó Công ty C sẽ cung cấp dịch vụ “… Xác định phương pháp tư vấn và định giá và các giả định cơ bản của chúng …” dự án Sunshine Empire cho Acuity Funding (là đơn vị được chỉ định bởi Công ty F). Ngay sau khi ký Hợp đồng, Công ty F đã thanh toán cho Công ty C 70% giá trị Hợp đồng 1, tương tương 1.700.930.000 VND.

Ngày 28/02/2020, Công ty C và Công ty F ký kết tiếp Thư giao kết định giá và tư vấn cho dự án Wonder Villas nằm trong khu đô thị CIPUTRA, quận Tây Hồ, Hà Nội, Việt Nam (“Hợp đồng 2”), Công ty C sẽ cung cấp dịch vụ “… Xác định phương pháp tư vấn và định giá và các giả định cơ bản của chúng …” (phạm vi công việc), Công ty F đã thanh toán cho Công ty C 70% giá trị Hợp đồng 2, tương đương 269.500.000 VND.

Công ty C đã gửi văn bản và email đề nghị Công ty F thực hiện việc thanh toán 30% giá trị còn lại của 02 Hợp đồng nêu trên nhưng Công ty F cho rằng Công ty C chưa hoàn thành công việc do chưa cung cấp Báo cáo và Chứng thư thẩm định giá của 02 dự án nêu trên cho Công ty F nên từ chối nghĩa vụ thanh toán.

Công ty C đã khởi kiện, khởi kiện bổ sung đến Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam yêu cầu Công ty F thực hiện nghĩa vụ thanh toán phí dịch vụ còn lại.

Phán quyết Trọng tài số 16/21 HCM ngày 07/01/2022 của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) tại Thành phố Hồ Chí Minh có nội dung như sau: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty C, buộc Công ty F phải thanh toán cho Công ty C các khoản tiền sau: Tiền phí dịch vụ còn lại của Thư giao kết định giá và tư vấn của 02 khu đất, Tiền lãi do chậm thanh toán phí dịch vụ, Chi phí phát sinh do quá hạn thanh toán, Phí trọng tài, …

Không đồng ý với Phán quyết của trọng tài, ngày 09/02/2022 Toà án Nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh nhận được đơn khởi kiện (gửi bưu điện ngày 08/02/2022) của Công ty F, Công ty F yêu cầu xem xét huỷ Phán quyết Trọng tài số 16/21 HCM ngày 07/01/2022 của VIAC

Tòa án nhận định

Hội đồng xét đơn xét thấy bưu phẩm VIAC gửi ngày 01/3/2021 không được giao cho Công ty F, ngày 15/10/2021 Công ty F nhận được Thông báo số 325/VIAC-HCM và Đơn khởi kiện nhưng không thực hiện được quyền khởi kiện lại vì đã hết thời hạn. Như vậy việc không giao bưu phẩm ngày 01/3/2021 đã không bảo đảm cho bị đơn thực hiện quyền, nghĩa vụ theo quy định tại Điều 35 Luật trọng tài thương mại là vi phạm Điều 12 Luật trọng tài thương mại, thuộc trường hợp vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trọng tài quy định tại điểm b khoản 2 Điều 68 Luật trọng tài thương mại.

Tại phiên họp đại diện Công ty C xác nhận thời điểm ký hợp đồng và cho đến nay công ty không có một trong các loại hình thức giấy phép điều kiện đầu tư kinh doanh như văn bản hướng dẫn Luật đầu tư (năm 2014) quy định. Như vậy Công ty C đã thực hiện dịch vụ thẩm định giá cho Công ty F khi chưa có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật Việt Nam. Hội đồng trọng tài đã tin tưởng Công ty C thực hiện đúng chức năng, chưa xác minh, làm rõ sự việc theo Điều 45 Luật Trọng tài thương mại là vi phạm thủ tục tố tụng theo điểm b khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại, VIAC không vi phạm điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại như Công ty F viện dẫn.

Từ những nhận định trên chấp nhận yêu cầu của Công ty F.

Tòa án quyết định

Chấp nhận yêu cầu của Công ty Cổ phần Bất động sản F. Hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 16/21 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) lập ngày 07/01/2022 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

 44-54

Quyết định số 11/2022/QĐ-PQTT ngày 20/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Trong các ngày 10/7/2020 và ngày 17/7/2022 nguyên đơn là GMA Inc (Sau đây gọi tắt là nguyên đơn hay Công ty GMA) và bị đơn là Công ty TNHH THB NVN (Sau đây gọi tắt là bị đơn hoặc Công ty THB) lần lượt ký các hợp đồng mua bán găng tay Với tổng giá trị theo 03 biên bản thanh lý là 1.027.500 USD

Tại bản tự bảo vệ gửi Hội đồng trọng tài, bị đơn thừa nhận nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn số tiền là 1.027.500 USD, trong đó 420.000 USD là giá trị của hai hợp đồng nêu trên. Số tiền còn lại là 607.500 USD nguyên đơn cho rằng nguyên đơn chuyển cho bị đơn theo hợp đồng mua bán số 003 ngày 17/7/2020, bị đơn không thừa nhận có hợp đồng này.

Tuy nhiên, từ khi các bên ký hợp đồng (tháng 7/2020) đến tháng 8/2020 là thời điểm thanh lý hợp đồng thì bị đơn mới trả cho nguyên đơn một phần tiền mà nguyên đơn đã chuyển cho bị đơn.

Vì vậy, ngày 16/8/2021, nguyên đơn khởi kiện bị đơn đến Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) tại Hà Nội buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn số tiền còn nợ theo các hợp đồng mua bán và các biên bản thanh lý đã ký với số tiền là 60.640,04 USD, tiền lãi của số tiền chưa thanh toán, phí trọng tài và phí luật sư

Tại phán quyết trọng tài vụ trạnh chấp số 70/21 ngày 19/5/2022 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) đã quyết định:

1.Chấp nhận một phần yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn các khoản sau:

– Khoản tiền bị đơn còn nợ nguyên đơn: 60.640,04 USD

– Phí luật sư: 21.426,81 USD

Tổng số tiền bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn: 82.066,85 USD 2. Bác yêu cầu tiền lãi chậm trả của nguyên đơn.

3. Bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền phí trọng tài là 3.480,85 USD

3

Ngoài ra, phán quyết còn quyết định một số vấn đề khác về

Không đồng ý với phán quyết trọng tài của VIAC, ngày 18/6/2022, bị đơn là Công ty THB có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 70/21 ngày 19/5/2021 của VIAC tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.

Tòa án nhận định

Thấy rằng mặc dù THB không thừa nhận ký kết hợp đồng số 03 nhưng thực tế đã nhận đủ số tiền của 03 hợp đồng mua bán theo đúng 3 biên bản thanh lý nêu trên với số tiền là 1.027.500 USD. Do THB không giao được hàng nên phải hoàn trả lại cho GMA số tiền mà GMA đã thanh toán và THB mới chuyển được một phần cho GMA và số tiền còn lại là 60.640,7 USD.

Tại văn bản ngày 17/5/2021 của GMA gửi THB với nội dung: đồng ý với đề xuất của THB liên quan đến điều khoản giải quyết tranh chấp, cụ thể là: Mọi tranh chấp phát sinh từ hoặc liên quan đến giao dịch thương mại giữa hai bên cho việc đặt mua găng tay y tế sẽ được giải quyết bằng trọng tài tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). Như vậy, đề xuất lựa chọn trọng tài giải quyết vụ việc của THB đã được GMA đồng ý nên coi đây là thỏa thuận trọng tài giữa hai bên và Hội đồng xét đơn xác định Hội đồng trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ việc theo quy định.

Quá trình tố tụng tại trọng tài, THB cũng có nhiều ý kiến về thẩm quyền của Hội đồng trọng tài như văn bản ngày 17/5/2021 không được đóng dấu, không được hợp pháp hóa lãnh sự. Thấy rằng, tại hợp đồng mua bán, các biên bản thanh lý đều chỉ có chữ ký của ông Peter Douaihy mà không đóng dấu của GMA nhưng THB cũng chưa khi nào khiếu nại hoặc có ý kiến về việc này, vì vậy Hội đồng trọng tài xác định văn bản ngày 17/5/2021 là ý kiến chính thức của GMA là có căn cứ.

Từ những phân tích trên, thấy rằng căn cứ của bên yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 70/21 ngày 19/5/2021 của VIAC vì lý do Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết vụ việc do các bên không có thỏa thuận trọng tài là không có căn cứ nên không chấp nhận.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu của Công ty TNHH THB về việc đề nghị hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 70/21 ngày 19/5/2022 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).

55-63

Quyết định số 08/2022/QĐ-PQTT ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Bị đơn và nguyên đơn ký hợp đồng thương mại có ký hiệu Pro20/119/VN. Sau đó do nguyên đơn không thanh toán đúng tiến độ nên bị đơn gửi công văn yêu cầu thanh toán, phía nguyên đơn phản hồi công văn và xin gia hạn thời gian thanh toán và được bị đơn đồng ý.

Do đàm phán thương lượng giữa hai bên không đạt được kết quả nên ngày 17/12/2020 nguyên đơn đã gửi đơn khởi kiện đến Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) đề nghị giải quyết tranh chấp.

Hội đồng trọng tài căn cứ vào các quy định liên quan của pháp luật Việt Nam, quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC đã phán quyết:

1. Chấp nhận yêu cầu của Nguyên đơn buộc Bị đơn phải trả cho nguyên đơn các khoản tiền sau:

(i) Khoản tiền mua hàng của hợp đồng Pro20/119/VN là 83.528,34 USD tương đương 1.942.869.188 VND

(ii) Khoản tiền lãi suất của số tiền mua hàng theo Hợp đồng Pro20/119/VN là 246.717.772 VND

(iii) Khoản tiền phạt 8% do vi phạm Hợp đồng Pro20/119/VN là 6.682,27 USD tương đương 155.429.600 VND

(iv) Khoản tiền chi phí mời luật sư của Nguyên đơn là 250.000.000 VND

2. Tổng phí trọng tài trong vụ tranh chấp là 143.476.000 VND. Bị đơn phải chịu toàn bộ phí trọng tài. Do Nguyên đơn đã tạm ứng toàn bộ phí trọng tài, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn số tiền phí trọng tài là 143.476.000 VND.

Tại Đơn yêu cầu ngày 24/01/2022 của Công ty H.I LTD đề nghị hủy phán quyết trọng tài với lý do:

  1. Thủ tục tố tụng trọng tài không phù hợp với thoả thuận của các bên, trái với các quy định của Luật Trọng tài thương mại 2010

2. Phán quyết Trọng tài trái với nguyên tắc tôn trọng tự do thoả thuận của các bên.

Tòa án nhận định

Việc Công ty H.I LTD cho rằng VIAC gửi thông báo chậm làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của doanh nghiệp do không được tiếp cận kịp thời và chuẩn bị các tài liệu, chứng cứ cho vụ kiện là không có cơ sở.

Hội đồng xét đơn yêu cầu nhận thấy các điều khoản của Hội đồng trọng tài áp dụng trong Phán quyết số 67/20 so sánh với với điều khoản quy định tại Công ước viên 1980 về cơ bản không mâu thuẫn. Do đó ý kiến của Công ty H.I LTD đề nghị phải áp dụng Công ước viên 1980 (CISG) không được chấp nhận.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu Hủy phán quyết Trọng tài vụ kiện số 67/20 được lập ngày 30/12/2021 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.

64-70

Quyết định số 1558/2022/QĐ-PQTT ngày 14/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Theo nội dung Đơn khởi kiện và Đơn khởi kiện bổ sung thì Công ty D yêu cầu Công ty E thanh toán cho Công ty D tổng số tiền là 15.256.887.529 đồng, tính đến tháng 5/2021, bao gồm: Tiền còn lại phải thanh toán theo hợp đồng; Tiền điện, nước, phí hạ tầng công trình; Phí bảo vệ dịch vụ công trình; Chi phí lương của ban quản lý công trình; Tiền phạt 8% giá trị Hợp đồng; Tiền lãi do chậm thanh toán.

Ngày 02/03/2022, Công ty D có đơn rút đơn khởi kiện và đơn khởi kiện bổ sung tại TRACENT.

Bị đơn yêu cầu chấm dứt Hợp đồng với Nguyên đơn; Yêu cầu kiện lại của Bị đơn:

– Nguyên đơn phối hợp với Bị đơn để thực hiện các thủ tục cần thiết tại cơ quan công an Thị xã Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh để Bị đơn nhận lại máy đào, số khung 280EA-3122, số máy 6BD1-549602, mã hiệu Sumitomo.

– Nguyên đơn bàn giao toàn bộ công trình, nhà xưởng và hồ sơ, tài liệu có liên quan cho Bị đơn.

Nội dung yêu cầu và căn cứ yêu cầu hủy phán quyết trọng tài:

Công ty D yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp nêu trên với các căn cứ sau:

+ Tracent và Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo quy định tại Điểm c Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại vì:

Thỏa thuận trọng tài giữa hai bên tranh chấp không thể thực hiện được, hai bên cũng không có thỏa thuận lại thẩm quyền giải quyết tranh chấp của trọng tài và không có lựa chọn trung tâm trọng tài khác để giải quyết tranh chấp.

+ Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài trái quy định của Luật trọng tài thương mại theo quy định tại Điểm b Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại.

+ Phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam theo quy định tại Điểm đ Khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài tại khoản 3 Điều 4 Luật Trọng tài thương mại.

Tòa án nhận định

Tại các Biên bản làm việc ngày 27/10/2021 và ngày 25/11/2021. Tại các Biên bản làm việc này giữa Công ty D và Công ty E đã thống nhất, đồng ý chọn Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Tracent) và Hội đồng Trọng tài để giải quyết vụ tranh chấp và không có ý kiến phản đối về việc chọn hoặc chỉ định Trọng tài viên và bầu Chủ tịch Hội đồng Trọng tài. Như vậy việc tranh chấp giữa các bên có thỏa thuận lại trọng tài bằng văn bản, thành phần Hội đồng Trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài phù hợp về thẩm quyền, hình thức thỏa thuận trọng tài quy định tại Điều 2, Điều 5, Điều 16 Luật Trọng tài Thương mại. Do đó, việc Công ty D cho rằng Tracent và Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết tranh chấp, Thành phần Hội đồng trọng tài, thủ tục tố tụng trọng tài trái quy định của Luật trọng tài thương mại là không có căn cứ như đã phân tích phần trên.

Hội đồng trọng tài đã căn cứ vào thỏa thuận của hợp đồng, cam kết của các bên; Thực hiện đúng thủ tục tố tụng theo Luật trọng tài thương mại, quy tắc tố tụng của Tracent, văn bản pháp luật đang có hiệu lực để giải quyết tranh chấp giữa các bên là phù hợp với quy định pháp luật. Do đó phán quyết trọng tài không trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam như Công ty D yêu cầu.

Tòa án quyết định

Không hủy Phán quyết trọng tài số 06/2022/PQTT (Vụ tranh chấp số 01/2021- HSTL) của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Tracent) lập ngày 25/05/2022 tại Thành phố Hồ Chí Minh.

71-75

Quyết định số 1047/2022/QĐ-PQTT ngày 12/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 08 tháng 7 năm 2020, Công ty Cổ phần Đầu tư H (viết tắt là Công ty H) với bà Nguyễn Thị Hồng T ký kết Hợp đồng thi công xây dựng (phần thô) dự án: Nhà phố – nhà ở riêng lẻ Địa chỉ 998/42/22 Đường Q, Phường O, quận G, Thành phố Hồ Chí Minh.

Tổng số tiền: 981.285.896 đồng; số tiền tạm ứng: 872.800.000 đồng. Số tiền còn lại: 108.485.896 đồng bà T chưa thanh toán. Bà T đã nhận nhà và ở từ đó cho đến nay.

Công ty H đã nhiều lần yêu cầu bà T thanh toán số tiền còn lại, nhưng cho đến nay bà T vẫn không thanh toán số tiền trên.

Do vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, Công ty H khởi kiện bà Nguyễn Thị Hồng T ra Trung tâm trọng tài Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT) và yêu cầu bà T thanh toán số tiền còn lại và tính lãi suất ngân hàng nhà nước vì chậm trả.

Phán quyết trọng tài quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ngày 14 tháng 3 năm 2022, bà Nguyễn Thị Hồng T gửi đơn yêu cầu Tòa án hủy Phán quyết trọng tài số 01/2022/PQ-TT ngày 15/02/2022 của Trung tâm Trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh, với lý do: Phán quyết trọng tài trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định

Việc bà T cho rằng phán quyết trọng tài buộc bà thanh toán số tiền 50.530.000 đồng trái nguyên tắc cơ bản pháp luật Việt Nam thể hiện tại nội dung Điều 3 và Điều 8 của “hợp đồng thi công xây dựng” giữa bà Nguyễn Thị Hồng T và Công ty Cổ phần Đầu tư H đã thỏa thuận. Hội đồng xét thấy yêu cầu này của bà T là về phần nội dung, theo quy định tại khoản 2 Điều 15 của Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP ngày 20/3/2014 và Khoản 2 Điều 68; Điều 71 Luật Trọng tài thương mại thì Hội đồng xét đơn yêu cầu không xét lại nội dung vụ tranh chấp tại trọng tài.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu của bà Nguyễn Thị Hồng T về việc yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 01/2022/PQ-TT ngày 15/02/2022 của Trung tâm trọng tài thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (TRACENT) giữa Công ty Cổ phần Đầu tư H với bà Nguyễn Thị Hồng T.

76-81

Quyết định số 493/2021/QĐST-KDTM ngày 14/4/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Nội dung tranh chấp: Công ty Thuận Phong (nguyên đơn trong phán quyết) yêu cầu Công ty Ha (bị đơn trong phán quyết) chuyển trả lại tiền, buộc bị đơn nhận lại hệ thống máy, trả lãi chậm trả, bồi thường chi phí chạy thử.

Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 126/19 HCM lập ngày 14/9/2020 của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam đã quyết định như sau:

1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn với các nội dung như sau:

a) Bị đơn phải chuyển trả lại cho nguyên đơn 221.730 EURO;

b) Bị đơn phải trả cho nguyên đơn 10.996,59 EURO tiền lãi;

c) Bị đơn phải hoàn trả cho nguyên đơn tiền phí trọng tài là 266.094.007 VND tương đương với 9.903,43 EURO;

d) Bị đơn có trách nhiệm thu hồi 03 máy ly tâm ký hiệu Haus MBA- 5432-20 sau khi đã thanh toán cho nguyên đơn những khoản tiền tại điểm a và điểm b nêu trên.

2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc buộc bị đơn phải thanh toán chi phí chạy thử …

Luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người yêu cầu đề nghị Hội đồng xét đơn hủy phán quyết trọng tài do Hội đồng trọng tài đã vi phạm về thủ tục tố tụng trọng tài nên việc ban hành phán quyết trọng tài là không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án.

Tòa án nhận định

Hội đồng xét đơn yêu cầu xét thấy, lý do của Công ty Ha nêu ra để cho rằng phán quyết trọng tài có vi phạm về thủ tục tố tụng trọng tài nhưng không chỉ ra được phán quyết trọng tài vi phạm cụ thể là vi phạm gì; mặt khác, Hội đồng xét đơn yêu cầu xét thấy phán quyết trọng tài số 126/19 HCM nêu trên không vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài. Riêng việc Công ty Ha trình bày phán quyết trọng tài không phù hợp với sự thật khách quan của vụ án, Công ty Ha đề cập đến nhận định của phán quyết trọng tài về Hợp đồng mua bán do các bên ký kết. Đây là phần liên quan đến nội dung giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài. Theo quy định tại Khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại năm 2010 thì Tòa án không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Vì vậy, lý do nêu trên của Công ty Haus để yêu cầu hủy phán quyết trọng tài là không có căn cứ để chấp nhận.

Tòa án quyết định

Không hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 126/19 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam lập ngày 14/9/2020.

82-85

Quyết định số 1185/2022/QĐ-PQTT ngày 29/7/2022 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Công ty T và Công Ty Cổ Phần Tập Đoàn Xây Dựng H có ký kết bốn (04) Hợp đồng thi công công trình, theo đó Công ty T là Chủ đầu tư và Công ty H là Nhà thầu xây dựng.

Vì chưa thống nhất được nội dung về giá trị quyết toán nên Công ty T chưa
thực hiện thanh toán cho Công ty. Đây là lý do dẫn đến Công ty H khởi kiện Công ty T tại Trung tâm trọng tài V vào ngày 10/11/2021 để yêu cầu thanh toán: Tổng số tiền nợ gốc từ bốn (04) Hợp đồng: 89.581.856.989 đồng; Tiền lãi chậm thanh toán tính đến ngày 17/02/2022 là: 52.949.725.362 đồng; Tiền chi phí Luật sư và các chi phí tố tụng khác mà Công ty H phải chịu.

Ngày 18/03/2022, V ra Phán quyết Trọng tài số 501/VIAC-HCM (“Phán quyết 501/VIAC-HCM”) chấp nhận một phần yêu cầu của Công ty H, buộc Công ty T phải thanh toán: Khoản tiền nợ gốc của bốn (04) Hợp đồng: 74.829.203.860 đồng; Khoản tiền lãi của bốn (04) Hợp đồng: 48.702.774.023 đồng; Phí Trọng tài: 1.266.666.701 đồng; Phí Luật sư: 400.000.000 đồng. Công ty T yêu cầu Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xem xét hủy toàn bộ nội dung Phán quyết Trọng Tài số 501/VIAC-HCM ngày 18/03/2022 của V vì những lý do như sau:

– Tranh chấp có thỏa thuận trọng tài không thể thực hiện được do Trung
tâm Trọng tài mà các bên thỏa thuận đã chấm dứt hoạt động mà không có tổ chức trọng tài kế thừa, các bên không thỏa thuận được thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết, nhưng V lại giải quyết vụ việc theo đề nghị lựa chọn Trung tâm Trọng tài giải quyết của Nguyên đơn;

– Thủ tục trọng tài đã không tuân thủ quy định của Luật Trọng tài thương mại khi gộp giải quyết các vụ việc phát sinh từ nhiều Hợp đồng, nhưng có thỏa thuận trọng tài không tương thích với nhau;

– Thỏa thuận giữa các bên về việc cấn trừ công nợ là có thật, hợp pháp nhưng Phán quyết số 501/VIAC-HCM lại bỏ qua nội dung này, như vậy Phán quyết này đã trái với các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định

Về thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp của Hội đồng Trọng tài: Công ty H đã gửi đến Công ty T Công văn số 83/2021/CV-HBC, đề xuất việc lựa chọn V làm Tổ chức Trọng tài để giải quyết tranh chấp liên quan đến các hợp đồng và đề nghị Công ty T có ý kiến phản hồi trong vòng 07 ngày kể từ ngày nhận được công văn nêu trên. Đến hết ngày 09/11/2021 (quá thời hạn 07 ngày), Công ty H không nhận được ý kiến phản hồi của Công ty T về việc lựa chọn Tổ chức Trọng tài. Như vậy, thể hiện rõ việc các bên không thỏa thuận được việc lựa chọn Tổ chức Trọng tài để giải quyết tranh chấp. Tại phiên họp hôm nay, phía Công ty T xác nhận khi Công ty H thông báo việc nộp đơn và lựa chọn V là Trung tâm giải quyết tranh chấp, phía Công ty T không phản đối và cũng không chọn Trung tâm Trọng tài nào để giải quyết. Trong suốt quá trình tố tụng trọng tài, Công ty T không phản đối về thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài. Như vậy, việc Công ty T không phản đối về thẩm quyền giải quyết của V được xem là đã đồng ý xác lập thỏa thuận trọng tài với Công ty H trong việc giải quyết vụ tranh chấp tại V. Do đó, việc Công ty T cho rằng vụ tranh chấp không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Trọng tài là không có cơ sở.

Về việc gộp các thỏa thuận trọng tài để giải quyết trong cùng một vụ tranh chấp: Căn cứ theo các quy định tại Nghị quyết số 01/2014/NQ-HĐTP và Quy tắc tố tụng trọng tài của V, Luật Trọng tài thương mại và Quy tắc V đều không quy định các thỏa thuận trọng tài phải tương thích với nhau thì mới được quyền giải quyết gộp trong một vụ tranh chấp. Ngoài ra, như đã phân tích trên, các thỏa thuận trọng tài là có hiệu lực và thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Trọng tài thuộc V. Do đó, việc Công ty T cho rằng V gộp các thỏa thuận trọng tài không tương đồng và không thuộc thẩm quyền của Hội đồng Trọng tài để giải quyết trong cùng một vụ tranh chấp là trái với quy định của Luật Trọng tài thương mại là không có cơ sở.

Về Phán quyết Trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam: Công ty T cho rằng Hội đồng Trọng tài không căn cứ theo thỏa thuận của các bên về việc cấn trừ công nợ tại Công văn số 151-tckt/18 đề ngày 31/01/2018 là trái với nguyên tắc tôn trọng thỏa thuận hợp pháp giữa các bên, vi phạm nguyên tắc cơ bản tại Khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự 2015. Trên thực tế, tại thời điểm giải quyết vụ tranh chấp tại V (tức sau ngày 07/02/2018), các bên vẫn chưa ký kết hợp đồng mua
bán nhằm cấn trừ công nợ như thỏa thuận nêu trên. Tại phiên họp hôm nay, Công ty T cũng xác nhận, đến thời điểm này, các bên chưa tiến hành các thủ tục chuyển nhượng căn nhà số 01 tại Block F, khu City Villa thuộc dự án PMR Evergreen tọa lạc tại phường M, Quận Y, Thành phố Hồ Chí Minh, hiện Công ty T cũng đang quản lý tài sản này, tại phiên họp trọng tài, các bên cũng không thống nhất thủ tục chuyển nhượng, cấn trừ bất động sản. Do đó, Hội đồng Trọng tài không ghi nhận việc cấn trừ của các bên là có căn cứ.

Tòa án quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu của Công ty Trách nhiệm hữu hạn Xây dựng Sản xuất Thương mại T đề nghị hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 113/21 HCM ngày 18 tháng 3 năm 2022 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế V bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam.

86-97

Quyết định số 300/2021/QĐ-PQTT ngày 09/3/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 01/12/2014, Công ty cổ phần Tập đoàn Xây dựng H (Sau đây gọi tắt là Công ty H) và Công ty cổ phần tập đoàn F (sau đây gọi tắt là Công ty F) ký hợp đồng thi công xây dựng công trình số: 18/2014/HĐTC/FLCHBC (Hợp đồng 18) với giá trị quyết toán (tổng giá trị xuất hóa đơn) là 418.589.275.527 đồng. Công ty H đã bàn giao công trình cho Công ty F đưa vào vận hành kinh doanh kể từ tháng 8/2015 theo công bố công khai của Công ty F. Với số tiền còn lại trong hợp đồng, Công ty H đã hoàn tất thủ tục quyết toán, nhưng công ty F lại không phê duyệt và không thanh toán. Công ty H đã nộp đơn khởi kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế V yêu cầu bị đơn thanh toán với số tiền tổng là 238.154.791.177 đồng. Trung tâm trọng tài quốc tế V đã ban hành phán quyết với nội dung:

– Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: tuyên bị đơn phải thanh toán cho Công ty H số tiền 234.854.719.177 đồng.

– Bị đơn có nghĩa vụ hoàn trả phí trọng tài 2.272.574.000 đồng mà nguyên đơn đã nộp.

Không đồng ý với Phán quyết của trọng tài, Công ty F đã nộp đơn khởi kiện tại TAND thành phố Hồ Chí Minh yêu cầu xem xét, hủy toàn bộ nội dung phán quyết này.

Tòa án nhận định

Tại Biên bản phiên họp ngày 17/10/2020 của Trung tâm trọng tài thể hiện: “Các bên không có ý kiến phản đối nào về quá trình tiến hành tố tụng trọng tài, các bên thống nhất trọng tài không vi phạm nguyên tắc cơ bản, không phản đối tính xác thực của tất cả các tài liệu được các bên nộp trong quá trình tố tụng trọng tài, xác nhận các sự kiện, nội dung được nêu trong các tài liệu này và đề nghị hội đồng trọng tài xem xét là các chứng cứ để giải quyết tranh chấp”. Biên bản phiên họp này có chữ ký của Công ty F và Công ty H ký xác nhận vào.

Như vậy, mặc dù phía Công ty F có đề nghị triệu tập kiểm toán viên nhưng sau đó đã không phản đối quá trình tố tụng trọng tài, cuối buổi họp đã ký xác nhận vào Biên bản phiên họp với nội dung không khiếu nại thủ tục trọng tài, không phản đối tính xác thực của các chứng cứ mà các bên nộp. Do đó, không có cơ sở để xác định Hội đồng trọng tài đã vi phạm thủ tục trọng tài.

Về số nợ công ty H yêu cầu công ty F thanh toán, Hội đồng trọng tài không chỉ dựa vào Thư xác nhận của Công ty F mà còn dựa các Báo cáo tài chính riêng, Báo cáo tài chính hợp nhất năm 2016-2017, trong đó, phía Công ty F đã đưa vào Báo cáo tài chính của mình số nợ của Hợp đồng số 18 ký với Công ty H.

Về nội dung phân bổ chi phí luật sư, tính toán phần lãi vượt quá mức lãi trung bình, hồi đồng xét đơn không có thẩm quyền giải quyết.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu của Công ty F về việc hủy Phán quyết Trọng tài số 13/20 HCM ngày 14/11/2020 tại Thành phố H của Trung tâm trọng tài quốc tế V.

98-104

Quyết định số 06/2020/QĐ-PQTT ngày 07/12/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 22/7/2020, Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) đã ra Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 02/20 giữa Công ty TNHH Kỹ nghệ F và Công ty TNHH Giày TP liên quan đến tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng chuyển nhượng Dự án số FJ201607011 ký ngày 20/6/2017 giữa Công ty TNHH Kỹ nghệ F và Công ty TNHH JMV. Công ty TNHH Giày TP là Công ty TNHH MTV được thay đổi tên doanh nghiệp từ Công ty TNHH JMV do việc chuyển nhượng toàn bộ vốn góp của chủ sở hữu. Do việc thay đổi chủ sở hữu, thay đổi đại diện theo pháp luật, bộ máy nhân sự cấp quản lý và đổi tên doanh nghiệp nên việc khởi kiện của Công ty Kỹ nghệ F đối với Công ty TNHH JMV là một sự bất ngờ và khó khăn cho Công ty trong việc tiếp nhận các thông tin và xử lý thông tin liên quan đến các hoạt động doanh nghiệp của chủ sở hữu trước đây.

Trước khi Hội đồng trọng tài mở phiên họp và tuyên bố phiên họp cuối cùng vào ngày 27/6/2020 thì vẫn chưa chính thức xác định rõ được bị đơn là ai nên Công ty JMV không có đủ các thông tin, sự chuẩn bị để tham gia vụ kiện của Công ty Kỹ nghệ F.

Sau khi xem xét nội dung phán quyết, Công ty JMV thấy rằng Phán quyết trọng tài không khách quan, không công bằng; vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài theo thỏa thuận của các bên; phán quyết có nội dung không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài, phán quyết trọng tài trái với các 08 – 20 nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam nên buộc phải hủy bỏ. Công ty F không đồng ý với yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Công ty giày TP.

Tòa án nhận định

Việc giải quyết tranh chấp của Hội đồng trọng tài đều dựa trên cơ sở Hợp đồng giữa hai bên và các quy định của pháp luật. Toàn bộ các điều khoản của Hợp đồng đều dựa trên nguyên tắc tự do, tự nguyện thỏa thuận của các bên nhưng các bên đang có tranh chấp về điều khoản của hợp đồng về giá chuyển nhượng bao gồm cả thuế GTGT 10%, đây là trường hợp phát sinh khi bên chuyển nhượng không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT, việc giải quyết, xem xét quyết định liên quan đến nội dung này phải xem xét đến nội dung tranh chấp nên không thuộc thẩm quyền của Tòa án.

Do các bên đang có tranh chấp về thuế GTGT trong khi Hợp đồng không quy định cụ thể trường hợp nếu bên chuyển nhượng không phải nộp thuế GTGT sẽ được giải quyết như thế nào nên đây không phải là nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Theo khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại và khoản 2 Điều 15 Nghị quyết số 01/2014/NQHĐTP thì khi xét đơn yêu cầu, Hội đồng xét đơn không xét lại nội dung tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết. Do đó, không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu này của Công ty Giày TP.

Tòa án quyết định

Không hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 02/20 ngày 22/7/2020 giữa Công ty F và Công ty Giày TP của Hội đồng trọng tài thuộc Trung tâm Viac.

105-117

Quyết định số 08/2019/QĐ-PQTT ngày 25/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Công ty TNHH MTV K (Nay là Công ty TNHH MTV A) là Chủ đầu tư Dự án K. Công ty K là nhà thầu xây dựng. Ngày 21/9/2007, Công ty K và Công ty A ký kết Thỏa thuận Hợp đồng ban đầu về việc: “Xây dựng K – khách sạn, căn hộ dịch vụ, văn phòng, trung tâm thương mại và căn hộ”. Tổng giá của hợp đồng là 721 triệu USD, thời hạn hợp đồng là 36 tháng. Vì có tranh chấp trong việc thanh toán nên ngày 25/10/2016, Công ty K đã khởi kiện yêu cầu Công ty A thanh toán các khoản tiền mà K cho rằng A phải trả cho K bao gồm các chi phí xây dựng theo các yêu cầu thanh toán tạm thời (IPC) từ số 33 đến số 38, tổng cộng là 67.578.364 USD và phí chậm trả. A không chấp nhận yêu cầu của K mà còn có yêu cầu kiện 27 – 35 lại, buộc K bồi thường chi phí xây dựng bổ sung 13.383.700 USD cùng bồi thường thiệt hại 16.140.616 USD.

Các bên đã đưa sự việc ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam xét xử và Trung tâm trọng tài đã có Quyết định trọng tài vụ kiện số 85/16 HCM ngày 20/02/2019.

Tòa án nhận định

Hội đồng trọng tài bác yêu cầu của K đối với các khoản nợ của A từ IPC số 34 đến số 38 và chỉ chấp nhận IPC số 33 là không phù hợp. Mặc dù đây là phần nội dung của vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết nhưng đã chứng minh việc Hội đồng Trọng tài có khách quan hay không khi giải quyết vụ tranh chấp. Hội đồng trọng tài chấp nhận yêu cầu kiện lại của A về chi phí xây dựng bổ sung là không phù hợp với bản chất vụ việc và sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng mà yêu cầu khởi kiện của K đối với các IPC đã được A phê duyệt lại không được Hội đồng trọng tài chấp nhận là không hợp lý. Trong vụ việc này Hội đồng trọng tài đã có sự phân biệt đối xử không công bằng với K.

Hội đồng trọng tài đã có sự không công bằng trong quá trình giải quyết vụ tranh chấp. Như vậy, Hội đồng trọng tài đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Cụ thể Hội đồng trọng tài đã vi phạm Điều 5 Bộ luật dân sự 2005 (tương ứng Điều 3 Bộ luật dân sự 2015) qui định về nguyên tắc bình đẳng và Điều 4 Luật Trọng tài thương mại qui định về nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng trọng tài đã xâm phạm nghiêm trọng đến lợi ích của K.

Vì vậy, yêu cầu hủy phán quyết nêu trên của Hội đồng trọng tài do K khởi kiện có căn cứ chấp nhận.

Tòa án quyết định

Chấp nhận yêu cầu Hủy quyết định Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 85/16 được lập ngày 20/02/2019 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng xây dựng.

Công ty K chịu 500.000 đồng lệ phí kinh doanh thương mại đã nộp tạm ứng theo biên lai số 0017357 ngày 02/5/2019 tại Cục thi hành án dân sự thành phố Hà Nội.

118-126

Quyết định số 07/2019/QĐ-PQTT ngày 18/7/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 04/5/2011 S A & E (Gọi là S) có ký kết Hợp đồng thầu phụ số 0129A/VC-BXD (Gọi là Hợp đồng thầu phụ) với Tổng Công ty Cổ phần X (Gọi là V) liên quan đến Dự án Khu đô thị mới B – Giai đoạn 2 cho dịch vụ tư vấn thiết kế kiến trúc và dịch vụ quản lý thiết kế (Chủ đầu tư của dự án là Công ty Liên doanh TNHH Phát triển Đô thị mới A). Liên quan đến dịch vụ kiểm tra thiết kế và Quản lý thiết kế V cho rằng S vẫn chưa hoàn thành các mốc công việc theo đúng hợp đồng và chưa đáp ứng các điều kiện theo hợp đồng để được nhận thanh toán.

Do có tranh chấp đối với Hợp đồng thầu phụ nên S đã khởi kiện V đến Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) yêu cầu giải quyết theo thoả thuận của các bên trong hợp đồng, cho rằng phán quyết trọng tài trái nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định

Hội đồng Trọng tài (cho S được 04 lần sửa đổi đơn khởi kiện, kể cả trong trường hợp kết thúc phiên họp cuối cùng nhưng lại không ghi nhận các tài liệu do V xuất trình) tức là đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam. Trong vụ tranh chấp 19/18 các bên không có bất kỳ một thoả thuận nào, như vậy việc Hội đồng trọng tài nhận tài liệu của nguyên đơn sau phiên họp cuối cùng là vi phạm qui tắc tố tụng trọng tài.

Nhận thấy Phán quyết trọng tài đã vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam, vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài theo qui định tại điểm b; điểm đ khoản 2 Điều 68 Luật Trọng tài thương mại.

Tòa án quyết định

Chấp nhận yêu cầu Hủy quyết định Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 19/18 được lập ngày 23/02/2019 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp phát sinh từ Hợp đồng dịch vụ tư vấn

127-135

Quyết định số 04/2019/QĐ-PQTT ngày 21/5/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 29/9/2008, Công ty cổ phần khai thác Thủy điện SG và Công ty BFL ký Hợp đồng số 08/SG2-BLFISH/ 2008 (“Hợp Đồng 08”) và các phụ lục hợp đồng, theo đó phía Công ty BFL sẽ cung cấp cho Công ty SG các thiết bị cơ điện đồng bộ cho Nhà máy thủy điện SG 2 với tổng giá trị hợp đồng là 11.375.000 USD. Quá trình thực hiện hợp đồng hai bên đã phát sinh tranh chấp nên ngày 17/01/2018, Công ty BFL đã có đơn khởi kiện Công ty SG tại VIAC yêu cầu thanh toán khoản nợ 1.206.388 USD tương ứng 10% giá trị hợp đồng và yêu cầu Công ty SG thanh toán tiền lãi chậm trả trên số tiền phải trả.

Hội đồng trọng tài ra phán quyết trọng tài buộc: – Công ty SG phải trả cho Công ty BFL khoản 5% đầu tiên của Hợp đồng là 656.194 USD – Công ty SG phải trả cho Công ty BFL 50% của khoản 5% còn lại của Hợp đồng là 314.097 USD. Không đồng ý với phán quyết của trọng tài, Công ty SG có đơn đề nghị Tòa án huỷ phán quyết số 03/18 với lý do: Thỏa thuận trọng tài vô hiệu, trình tự, thủ tục tố tụng Trọng tài không đúng.

Tòa án nhận định

Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 40/15 ngày 26/12/2016 là tranh chấp bồi thường thiệt hại phát sinh từ Hợp đồng số 08/ESG2- BFL- ISH/2008 ngày 29/9/2008 giữa Công ty BFL và Công ty SG. Tuy nhiên, yêu cầu khởi kiện của Công ty BFL đã bị HĐTT bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện.

Còn Phán quyết số 03/18 là tranh chấp số tiền còn nợ và yêu cầu thanh toán tiền lãi chậm trả của Hợp đồng số 08/ESG2- BFL- ISH/2008 ngày 29/9/2008 giữa Công ty BFL và Công ty SG.

Như vậy, đây là hai quan hệ pháp luật khác nhau, một quan hệ là bồi thường thiệt hại phát sinh từ hợp đồng, một quan hệ pháp luật là thanh toán số tiền còn nợ và tiền lãi chậm trả trên số tiền còn nợ, nên việc Công ty SG cho rằng cùng một số tiền, cùng một số tiền tranh chấp, cùng một hợp đồng và đã được giải quyết bằng Phán quyết có hiệu lực pháp luật, nên VIAC cần trả lại đơn cho người khởi kiện là không có căn cứ.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận hủy phán quyết trọng tài của Công ty SG đối với Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 03/18 ngày 21/12/2018 của Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam.

136-146

Quyết định số 03/2019/QĐ-KDTM ngày 10/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Giữa Công ty X và Ngân hàng Đ có phát sinh tranh chấp với nhau, hai bên đã đưa sự việc ra giải quyết tranh chấp tại VIAC. Theo phán quyết của trọng tại thì Ngân hàng Đ phải trả cho Công ty X số tiền là 1.650.325.281 đồng.

Không đồng ý với phán quyết trọng tài, Ngân hàng Đ lập Đơn yêu cầu hủy Phán quyết cho Tòa án với lý do Hội đồng trọng tài đã vi phạm nguyên tắc tố tụng trong việc điều hành phiên họp, không tạo cơ hội để Bị đơn và Nguyên đơn được nói, tranh luận.

Tòa án nhận định

Theo qui định tại Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại qui định về các căn cứ hủy phán quyết trọng tài: Khi xem xét căn cứ hủy Phán quyết trọng tài Hội đồng xét đơn phải trên cơ sở Luật Trọng tài thương mại và Qui tắc tố tụng trọng tài để xác định xem Phán quyết có vi phạm một trong các trường hợp qui định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại không.

Tuy nhiên các căn cứ do bên yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài không có căn cứ chấp nhận.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu Hủy Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 15/18 được lập ngày 12/9/2018 của Hội đồng Trọng tài về giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm máy móc thiết bị giữa Công ty X và Ngân hàng Đ.

147-152

Quyết định số 251/2019/QĐ-PQTT ngày 19/3/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Theo Nội dung phán quyết trọng tài, Hội đồng trọng tài quyết định: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, buộc Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn các khoản tiền sau: Khoản tiền Nguyên đơn đã trả trước cho các Hợp đồng, tổng cộng là: 202.335 USD; Tiền lãi chậm trả của Hợp đồng số 15 và Hợp đồng số 22: 145.640.198 VNĐ, tương đương 6.421,53 USD.

Cho rằng những chứng cứ mà Công ty X IR cung cấp là giả mạo, không trung thực, vi phạm pháp luật, Công ty Cao su L yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài.

Tòa án nhận định

Việc Hội đồng trọng tài căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ và quy định pháp luật để xác định Công ty L đã vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng 73 – 76 đối với Công ty X là vấn đề thuộc nội dung của vụ tranh chấp, không thuộc các căn cứ hủy phán quyết trọng tài tại Khoản 2, Điều 68 Luật trọng tài Thương mại 2010. Theo quy định Khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài Thương mại 2010 và Khoản 2 Điều 15 Nghị quyết 01/2014/NQ-HĐTP quy định Hội đồng xét đơn không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết.

Do đó, Hội đồng xét đơn xét thấy không có căn cứ để chấp nhận ý kiến này của Công ty Cao su L.

Tòa án quyết định

Không hủy Phán quyết trọng tài số 83/12HCM của hội đồng trọng tài thuộc VIAC.

153-156

Quyết định số 12/2018/QĐ-KDTM ngày 09/11/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Công ty Y khởi kiện yêu cầu Chủ Doanh nghiệp tư nhân B ngay lập tức khôi phục hoạt động kinh doanh tại Cửa hàng Y BC, tuân thủ và tiếp tục thực hiện Hợp đồng trong thời gian còn lại của Hợp đồng. Yêu cầu Chủ Doanh nghiệp tư nhân B ngay lập tức chấm dứt hoạt động trưng bày, bán, phân phối, xúc tiến các sản phẩm cạnh tranh cũng như không cạnh tranh với các sản phẩm của Công ty Y tại Cửa hàng Y BC và các địa điểm khác trong tỉnh Trà Vinh. Bồi thường cho Công ty Y toàn bộ các khoản thiệt hại của Nguyên đơn phát sinh do hành vi đơn phương chấm dứt Hợp đồng trái pháp luật của Bị đơn.

Sau khi nhận được phán quyết trọng tài, Công ty Y đã có đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài với lý do: Hội đồng Trọng tài không cho phép Công ty Y có thêm thời gian cung cấp tài liệu, bổ sung chứng minh cho yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại và tuyên bố phiên họp là phiên họp giải quyết tranh chấp cuối cùng đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty Y.

Phán quyết trọng tài số 04/18 đã được lập trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định

Lý do Công ty Y đề nghị hủy phán quyết của Hội đồng Trọng tài là do Hội đồng Trọng tài đã từ chối không cho Công ty Y có thêm thời gian xem xét, thu thập thêm tài liệu để chứng minh cho yêu cầu đòi bồi thường khoản lợi nhuận đáng lẽ được hưởng từ những quyền mà còn là nghĩa vụ của Công ty Y (Bên yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại).

Theo Công ty Y thì yêu cầu này được thể hiện ngay tại phiên họp ngày 11/7/2018 nhưng Hội đồng Trọng tài không chấp nhận. Tại phiên họp cuối, dù được nhắc nhiều lần về việc cung cấp chứng cứ nhưng Công ty Y từ chối với lý do “Công ty chưa cho phép”. Hội đồng Trọng tài chỉ chấp nhận yêu cầu khởi kiện không cho phép Cửa hàng Y BC được mở cửa hàng kinh doanh bất kỳ sản phẩm cùng loại nào cạnh tranh với các sản phẩm của Công ty Y tại cửa hàng mà không chấp nhận yêu cầu đòi bồi thường khoản lợi nhuận đáng lẽ được hưởng là không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật về việc không cho Công ty Y thời gian để xem xét, thu thập chứng cứ.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu Hủy quyết định Phán quyết trọng tài vụ kiện số 04/18 được lập ngày 09/8/2018 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng đại lý.

157-162

Quyết định số 1579/2018/QĐST-KDTM ngày 06/11/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Về việc Hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung:

Công ty Xây Dựng M đề nghị Tòa án hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 86/17 HCM do Trung tâm Trọng tài lập ngày 16/5/2018 với lý do:

– Việc áp dụng thủ tục tố tụng không phù hợp theo quy định pháp luật làm bị đơn mất quyền thỏa thuận ngôn ngữ giải quyết và quyền thỏa thuận pháp luật giải quyết được quy định tại khoản 2 Điều 10 và Điều 14 của Luật Trọng tài Thương mại 2010.

– Bị đơn đã gửi đơn đề nghị Trung tâm Trọng tài tiến hành tổ chức hòa giải cho các bên, nhưng Trung tâm Trọng tài không tổ chức bất kỳ một buổi làm việc, hay hòa giải nào cho các bên trước khi đưa vụ kiện ra xét là chưa phù hợp với quy định tại Điều 58 Luật Trọng tài Thương mại 2010.

Tòa án nhận định:

Công ty có phần vốn góp của nước ngoài mà phía Công ty Xây Dựng M nêu ra không thuộc trường hợp có yếu tố nước ngoài theo quy định của Luật Trọng tài Thương mại. Do vậy, Công ty Xây Dựng M khiếu nại Trung tâm Trọng tài không áp dụng các quy định giải quyết tranh chấp có yếu tố nước ngoài để giải quyết vụ kiện là không có cơ sở chấp nhận.

Theo yêu cầu của các bên, Hội đồng trọng tài tiến hành hòa giải để các bên thỏa thuận với nhau về việc giải quyết tranh chấp. Khi các bên thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết trong vụ tranh chấp thì Hội đồng trọng tài lập biên bản hoà giải thành có chữ ký của các bên và xác nhận của các Trọng tài viên.

Hội đồng trọng tài ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các bên. Quyết định này là chung thẩm và có giá trị như phán quyết trọng tài. Xét tại phiên họp ngày 20/4/2018 do các bên không thỏa thuận được với nhau về các nội dung tranh chấp nên Hội đồng Trọng tài đã ban hành Phán quyết trọng tài là đúng theo trình tự thủ tục Tố tụng.

Tòa án quyết định:

Không hủy Phán quyết Trọng tài vụ tranh chấp số 86/17 HCM do Trung tâm Trọng tài Quốc tế V lập ngày 16/5/2018.

163-166

Quyết định số 11/2018/QĐ-PQTT ngày 12/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 04/3/2014, Ngân hàng TMCP Đ và Ngân hàng TMCP H đã kí Hợp đồng mua bán trái phiếu số 0001/2014/MSB-OJB. Theo đó, Ngân hàng H mua trái phiếu của Công ty cổ phần Tài chính và đầu tư G với số lượng là 500 trái phiếu, mệnh giá trái phiếu là 1.000.000.000 đồng/trái phiếu; Ngân hàng Đ cam kết mua lại hoặc chỉ định bên thứ ba mua lại toàn bộ trái phiếu mà Ngân hàng H đã mua nếu xảy ra các trường hợp mà các bên đã thỏa thuận. Trường hợp Ngân hàng Đ vi phạm cam kết hoặc đến ngày thỏa thuận là 364 ngày thì Ngân hàng H có quyền tự động khấu trừ khoản tiền bằng tổng mệnh giá trái phiếu. Ngày 24/11/2017, Ngân hàng H đã khởi kiện tại VIAC, yêu cầu Ngân hàng Đ phải thực hiện việc nhận lại các trái phiếu để thực hiện quyền trái chủ từ các trái phiếu theo quy định của pháp luật cũng như thực hiện theo đúng thỏa thuận mà các bên đã ký kết.

Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam ra Phán quyết vụ tranh chấp số 40/17: buộc bị đơn phải thực hiện nghĩa vụ nhận lại 500 trái phiếu có mã trái phiếu là GIAPHAT BOND 500.2013 và phải chịu toàn bộ phí trọng tài.

Ngày 02/6/2018, Ngân hàng Đ đã nộp đơn yêu cầu Hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 40/17 vì vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tòa án nhận định

Hội đồng xét đơn nhận thấy nội dung về thời hiệu khởi kiện của vụ tranh chấp đã được Hội đồng trọng tài nhận định trong phần nội dung của Phán quyết và thuộc phần nội dung vụ tranh chấp. Thời hiệu khởi kiện cũng không phải là một trong các nguyên tắc cơ bản được quy định trong pháp luật Việt Nam.

Ngoài ra, khi xem xét đến thời hiệu trong vụ án này Hội đồng xét đơn sẽ phải xem xét lại toàn bộ quá trình ký kết, giao dịch, thực hiện hợp đồng thời điểm phát sinh tranh chấp có nghĩa là Hội đồng xét đơn phải xem xét lại toàn bộ nội dung vụ kiện, điều này trái với quy định tại khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại Tòa án không xét xử lại nội dung khi xét thời hiệu trong vụ kiện này. 87 – 93 Theo hợp đồng mua bán trái phiếu được kí kết giữa các bên ngày 04/3/2014 có thỏa thuận trọng tài. Trường hợp một trong các bên cho rằng quyền lợi của mình liên quan đến việc mua bán trái phiếu bị xâm phạm thì có quyền khởi kiện.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 3, Điều 5 Luật TTTM, Ngân hàng H có quyền khởi kiện và việc khởi kiện tại Trung tâm trọng tài trọng tài Quốc tế Việt Nam là phù hợp thỏa thuận và đúng thẩm quyền theo quy định pháp luật.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 40/17 của Hội đồng trọng tài thuộc VIAC.

167-173

Quyết định số 06/2018/QĐ-PQTT ngày 11/9/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc không hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 25/10/2017, Công ty PTN (sau đây gọi tắt là bên liên quan) đã khởi kiện Công ty TNHH MTV toà nhà điện VL (sau đây gọi tắt là bên yêu cầu) ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (gọi tắt là VIAC) yêu cầu thanh toán số tiền liên quan đến việc thực hiện Hợp đồng thi công xây lắp số XL 3.2/2009/VLBC về việc xây dựng công trình khách sạn và văn phòng cho thuê tại Viêng Chăn, Lào, ký ngày 16/6/2009 giữa bên liên quan và bên yêu cầu với tổng số tiền là 26.147.038.258 đồng (bao gồm tiền gốc và lãi tính theo lãi suất 13,5%/năm).

Sau phán quyết trọng tài, ngày 25/5/2018, bên yêu cầu có đơn đề nghị đến Tòa án hủy phán quyết trọng tài số 35/17 với lý do:

– Các bên không có thỏa thuận trọng tài; – Hội đồng trọng tài không có thẩm quyền giải quyết;

– Phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định:

Hội đồng xét đơn cho rằng, đến tại phiên họp hôm nay bên yêu cầu cũng không xuất trình được cho Tòa án các văn bản pháp luật của Lào có quy định về trách nhiệm chậm thanh toán trong hợp đồng xây dựng, nên việc Hội đồng trọng tài áp dụng luật Việt Nam để giải quyết vụ kiện có cơ sở và phù hợp với thỏa thuận của bên yêu cầu và bên liên quan trong Hợp đồng. Việc Hội đồng trọng tài áp dụng quy định của pháp luật Việt Nam để giải quyết tranh chấp giữa hai bên cũng hoàn toàn phù hợp với thỏa thuận tại Hợp đồng số XL 3.2/2009/VLBC.

Tòa án quyết định:

Không chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Công ty TNHH MTV tòa nhà điện VL đối với Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 35/17 ngày 25/4/2018 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.

174-181

Quyết định số 04/2018/QĐ-PQTT ngày 24/7/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 18/6/2014, PDC (sau đây gọi tắt là bên liên quan) và Công ty TNHH ADM VN (sau đây gọi tắt là bên yêu cầu) ký kết hai Hợp đồng mua bán số QQC-DJ140618-1 và QQC DJ140618-2 về việc mua bán máy sản xuất cần gạt nước mưa ô tô. Trong quá trình thực hiện các Hợp đồng mua bán, ngày 30/8/2015 hai bên đã ký kết Hợp đồng thế chấp số 01/2015/GDBĐ/DWIADM21, trong đó hai bên đã chốt công nợ là bên yêu cầu còn nợ bên liên quan số tiền 884,721.8 USD và hai bên nhất trí lùi thời hạn trả nợ đến hết ngày 30/11/2015.

Sau khi ký và thực hiện Hợp đồng thế chấp, bên yêu cầu mới chỉ thanh toán được một phần cho bên liên quan là 109,433.9 USD. Tính đến ngày ra Phán quyết trọng tài, bên yêu cầu còn nợ bên liên quan số tiền nợ gốc là 775,287.9 USD. Ngày 17/4/2017, VIAC nhận được đơn khởi kiện của bên liên quan yêu cầu Hội đồng trọng tài buộc bên yêu cầu phải thanh toán số tiền nợ gốc là 775,287.9 USD, lãi chậm thanh toán phát sinh trên nợ gốc, đồng thời yêu cầu xử lý tài sản thế chấp để thu hồi các khoản tiền yêu cầu thanh toán.

Ngày 19/12/2017, VIAC ra Phán quyết vụ kiện số 15/17 buộc bên yêu cầu chậm nhất là 30 ngày kể từ ngày ra Phán quyết, phải thanh toán cho bên liên quan về số tiền là 867,557.78 USD, hoàn trả chi phí Trọng tài và số tiền 10.127.500 đồng để hoàn trả lệ phí Trọng tài. Ngày 17/1/2018, bên yêu cầu đã nộp Đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài.

Tòa án nhận định

Bên yêu cầu và bên liên quan ký kết hai Hợp đồng mua bán, đã thực hiện các Hợp đồng này và hai bên không có khiếu nại hay khởi kiện vụ án về chất lượng hàng hóa hay về thẩm quyền ký kết và thực hiện các Hợp đồng này. Khi ký kết Hợp đồng thế chấp cả hai bên đều thừa nhận các Hợp đồng mua bán trước đó hai bên đã ký kết và thực hiện (không bên nào có ý kiến cho rằng chữ ký của người đại diện bên yêu cầu là giả mạo, cần được xem xét lại).

Do hai Hợp đồng mua bán không có tranh chấp nên bên yêu cầu đưa ra lập luận là Hội đồng trọng tài sử dụng chứng cứ giả là không có cơ sở để chấp nhận.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 15/17 ngày 19/12/2017 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam.

182-191

Quyết định số 755/2018/QĐ-PQTT ngày 12/6/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 10/10/2015, Công ty TNHH X và bà Đỗ Thị Mai T ký kết hợp đồng lao động với thời hạn 12 tháng (từ ngày 10/10/2015 đến 31/10/2016), bà T làm việc tại Recess với vị trí là trưởng bộ phận tuyển dụng. Ngày 21/10/2015, Công ty X và bà T đã ký kết Thỏa thuận bảo mật thông tin và không Cạnh tranh (sau đây viết tắt là NDA). Các bên cùng thỏa thuận nếu tranh chấp sẽ được giải quyết bằng phán quyết trọng tài. Sau khi tiếp tục gia hạn 12 tháng, bà T chấm dứt Hợp đồng lao động với Công ty X. Ngày 2/10/2017, công ty X nộp đơn khởi kiện kèm hồ sơ đến VIAC yêu cầu bà T bồi thường cho Công ty X số tiền 205.197.300 đồng, bằng 03 (ba) lần tiền lương tháng liền kề trước khi bà Trang đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động năm 2016 vì bà T đã vi phạm Khoản 1, Điều 3 NDA.

Hội đồng trọng tài đã ra Phán quyết, chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn thanh toán cho nguyên đơn số tiền bồi thường là 205.197.3000 đồng. Không đồng ý với phán quyết của Trọng tài, bà T đã nộp đơn khởi kiện tại Tòa án để yêu cầu xem xét hủy toàn bộ Phán quyết.

Tòa án nhận định

Bà T với Công ty X đã tự nguyện ký kết, khi ký bà T là người có đầy đủ năng lực hành vi theo quy định của pháp luật, không bị ép buộc, lừa dối hay áp đặt ý chí để bà T phải chấp nhận ký NDA. Do đó, NDA có hiệu lực.

Việc Hội đồng Trọng tài công nhận hiệu lực của NDA là hoàn toàn đúng pháp luật. Luật sư của bà T đã khẳng định lại quan điểm NDA hoàn toàn độc lập với các Hợp đồng lao động giữa Công ty X và bà T. Do đó, Hội đồng xét đơn xác định thỏa thuận NDA là một thỏa thuận độc lập, khi có tranh chấp thì thuộc thẩm quyền giải quyết của trọng tài như sự lựa chọn của các bên từ khi ký kết.

Đối với các chứng cứ này là các tài liệu do Ngân hàng ANZ và Công ty X xác nhận nên không thể xem là giả mạo.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu của bà T về việc hủy Phán quyết trọng tài số 75/1 HCM của Hội đồng Trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài VIAC.

192-198

Quyết định số 605/2018/QĐST-KDTM ngày 16/5/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Tranh chấp về việc thanh toán tiền nợ của Hợp đồng Xây dựng số 04/2016/HDKT-NICON ngày 18/7/2016 và Hợp đồng Xây dựng số 05/2016/HDKT-NICON ngày 15/8/2016. Giá trị tranh chấp là 1.245.120.411 VND, trong đó nợ gốc theo 2 hợp đồng số 04 và 05 là 1.245.120.411 VND, tiền lãi tạm tính là 49.804.816 VND. Ngày 03/10/2016, Công ty H đã tạm ứng cho Công ty X số tiền là 400.208.160 VND và Công ty X cấn trừ số tiền này vào số nợ gốc nên Công ty H còn phải trả cho Công ty X số tiền 844.912.251 VND. Tại VIAC, Công ty X đề nghị Hội đồng Trọng tài xem xét buộc Công ty H phải trả số tiền là 894.717.068 VND trong đó gồm tiền gốc là 844.912.251 VND và tiền lãi đến 15/8/2017 là 49.804.816 VND.

Tại phán quyết trọng tài vụ tranh chấp 17/17HCM của VIAC quyết định Công ty TNHH H phải trả cho Công ty X tổng số tiền là 892.649.793 VND trong đó tiền nợ gốc từ Hợp đồng 04 và Hợp đồng 05 là 844.912.251 VND và tiền lãi chậm thanh toán là 47.737.542 VND.

Ngày 20/10/2017, Công ty TNHH H có đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài vụ tranh chấp 17/17HCM của VIAC với các căn cứ cho rằng hội đồng trọng tài vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Tòa án nhận định

Trung tâm Trọng tài đã thực hiện việc gửi thông báo và tài liệu vụ kiện đến Công ty TNHH H phù hợp theo quy định tại Điều 12 Luật Trọng tài Thương mại. Đồng thời căn cứ Điều 415 Bộ luật tố tụng dân sự và Điều 28 Luật Trọng tài Thương mại thì việc Trung tâm Trọng tài ban hành Quy tắc tố tụng Trọng tài ngày 01/3/2017, đồng thời áp dụng để giải quyết vụ tranh chấp giữa các bên là phù hợp quy định pháp luật.

Việc người đại diện Công ty TNHH H căn cứ theo quy định về thủ tục tống đạt văn bản tố tụng do Bộ luật tố tụng dân sự quy định là không đúng trong trường hợp này.

Tòa án quyết định

Không hủy phán quyết trọng tài vụ Tranh chấp số 17/17HCM ngày 20/9/2017 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế V về việc giải quyết vụ tranh chấp giữa Công ty X và Công ty H.

199-202

Quyết định số 02/2018/QĐ-KDTM ngày 25/01/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Hội đồng trọng tài căn cứ theo quy định pháp luật Việt Nam. Quy tắc tố tụng trọng tài đã phán quyết giải quyết tranh chấp giữa nguyên đơn G I A LL C và các bị đơn Công ty F, ông Q, ông B, bà H, bà P, ông A:

– Nguyên đơn được hưởng khoản tiền gốc là 4.000.000.000 VNĐ. Vì vậy, Bị đơn phải thanh toán cho Nguyên đơn số tiền gốc là 4.000.000.000VNĐ trong vòng 30 ngày kể từ ngày ra Phán quyết Trọng tài.

– Bác bỏ yêu cầu bồi thường đối với lãi suất, các chi phí pháp lý và các chi phí khác; – Yêu cầu phải bồi hoàn số tiền thực tế của khoản chi phí này là 25.900.000 VND là chi phí đi lại và ăn ở của thành viên của Hội đồng Trọng tài;

– Yêu cầu hoàn trả số tiền 213.429.000 đồng cho nguyên đơn trong vòng 30 ngày kể từ ngày Phán quyết trọng tài.

Công ty F và ông Nguyễn Thanh B đề nghị hủy phán quyết trọng tài với lý do các bên không có thỏa thuận trọng tài và vụ việc không thuộc thẩm quyền giải quyết của Hội đồng Trọng tài. Đồng thời, ông Nguyễn Tuấn A, bà Hoàng Thị Thu H, bà Nguyễn Thị P cũng đề nghị hủy Phán quyết trọng tài vì Quyền thành lập Hội đồng Trọng tài chưa được đảm bảo, vi phạm quy định pháp luật.

Tòa án nhận định

Tại giấy ghi nợ các Bị đơn xác nhận sẽ có nghĩa vụ thanh toán trả G 4.000.000.000đ, mọi tranh chấp, mâu thuẫn hoặc khiếu nại phát sinh từ hoặc liên quan đến Thỏa thuận này hoặc sự vi phạm, chấm dứt hoặc vô hiệu hóa thỏa thuận sẽ được xét xử chung thẩm tại Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam – Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam “VIAC” theo các quy tắc Trọng tài VIAC. Giấy ghi nợ chỉ thể hiện ý chí đơn phương của bị đơn, không có sự xác nhận của G (chủ nợ) hay thông tin qua lại cho rằng đồng ý với Giấy ghi nợ.

Hội đồng xét quyết định thấy rằng việc Giấy nhận nợ chỉ có các Bị đơn ký xác nhận nhưng không có xác nhận của G không thể coi là có sự thỏa thuận giữa các bên và như vậy cũng không có thỏa thuận trọng tài. Đồng thời, nội dung ghi trên giấy ghi nợ cũng không đúng hình thức thỏa thuận trọng tài theo quy định của Luật Trọng tài thương mại.

Tòa án quyết định

Chấp nhận yêu cầu Hủy quyết định Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 14/16 được lập ngày 13/7/2017 của Hội đồng Trọng tài VIAC giữa nguyên đơn là G I A LL C và các bị đơn Công ty F, ông Qt, ông B, bà H, bà P, ông A.

203-209

Quyết định 01/2018/QĐ-PQTT ngày 04/1/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 22/01/2009, Công ty KE. Ltd là nhà thầu chính của Dự án Keangnam Hanoi Landmark Tower (bên giao thầu) đã ký hợp đồng về việc thực hiện thiết kế, kỹ thuật, cung cấp và lắp đặt lớp nhôm bên ngoài với Liên danh Nhà thầu phụ, các Nhà thầu phụ là Công ty SYAIE và Công ty SYAIE 2. Dựa vào công việc đã hoàn thành, các bên đã ký Giấy chứng nhận tạm thời. Tuy nhiên, các Nhà thầu phụ sau đó đã không cung cấp Bảo lãnh bảo hành theo quy định tại PAC, Công ty KE. Ltd gặp khó khăn về mặt tài chính nên đã không thanh toán thêm khoản nào cho Nhà thầu phụ.

Ngày 07/4/2015, Tòa phá sản của Tòa án Seoul- Hàn Quốc có quyết định về việc bắt đầu thủ tục phục hồi kinh doanh đối với Công ty KE. Ltd. Tòa Phá sản yêu cầu các chủ nợ của Công ty KE. Ltd đăng ký ghi nhận các khoản nợ trước ngày 13/05/2015. Sau khi thủ tục phục hồi kinh doanh bắt đầu, Công ty KE. Ltd bị cấm thực hiện các khoản thanh toán không nằm trong kế hoạch phục hồi kinh doanh và không được Tòa Phá sản phê duyệt. Các nhà thầu phụ đã đưa vụ việc ra giải quyết tại Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC). VIAC đã ra phán quyết cho rằng Công ty KE. Ltd phải thanh toán số tiền gốc và lãi cho các nhà thầu phụ.

Ngày 31/7/2017, Công ty KE. Ltd đã nộp đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài do vi phạm quy định của luật hiện hành.

Tòa án nhận định

Thời hiệu khởi kiện bắt đầu kể từ ngày sau ngày 30/8/2016 mà Công ty KE. Ltd cam kết sẽ thanh toán cho các Nhà thầu phụ. HĐTT áp dụng Điều 162 Bộ luật dân sự năm 2005 là hoàn toàn có cơ sở khi Công ty KE. Ltd đã thừa nhận nghĩa vụ của mình đối với các Nhà thầu phụ. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp với Điều 23 khoản 5.c Nghị quyết số 03/2012/NQHĐTP của Hội đồng thẩm phán – Tòa án nhân dân tối cao. Công ty KE. Ltd cho rằng Phán quyết trọng tài trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam vì HĐTT đã công nhận tư cách khởi kiện của Nguyên đơn 2 là Công ty SYAIE 2 khi Công ty này không có giấy phép nhà thầu theo quy định của pháp luật. Tại phiên họp, Bên yêu cầu đã rút lại ý kiến trình bày về vấn đề này.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 28/16 ngày 01/07/2017 của Hội đồng trọng tài VIAC.

210-216

Quyết định số 09/2017/QĐ-PQTT ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 21/10/2015, Công ty TNHH quốc tế G (viết tắt là Bên liên quan) ký Hợp đồng cho thuê khu bán lẻ với Công ty TNHH nhà hàng J (viết tắt là Bên yêu cầu). Theo đó, Bên liên quan cho thuê khu bán lẻ tại tầng 01 khu bán lẻ thuộc tòa nhà K Hanoi Landmark Tower, với diện tích 842,01m2 để Bên yêu cầu mở nhà hàng. Thời hạn thuê từ ngày 21/10/2015 đến ngày 20/10/2020 giá thuê từ ngày 21/10/2015 đến ngày 31/12/2015 là 331.191.000 VND/tháng. Từ ngày 01/01/2016 đến ngày 20/10/2016 giá cho thuê hàng tháng sẽ được điều chỉnh tăng 5% so với mức giá áp dụng trong giai đoạn từ ngày 21/10/2015 đến ngày 31/12/2015. Từ ngày 21/10/2016 đến ngày 20/10/2020 đơn giá cho thuê hàng tháng sẽ được điều chỉnh tăng 5% so với mức giá áp dụng cho tháng trước tại ngày 21/10 hàng năm. Giá thuê trên có hiệu lực từ thời điểm ký Hợp đồng và chưa bao gồm các loại thuế theo quy định của pháp luật hiện hành. Bên yêu cầu đã vi phạm nghĩa vụ thanh toán, do đó Công ty G đã nộp đơn khởi kiện ra Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC).

Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 09/17 ngày 26/9/2018 quyết định:

– Buộc bên yêu cầu phải thanh toán cho Bên liên quan số tiền tiếp tục sử dụng mặt bằng, khoản tiền lãi chậm thanh toán.

– Bên yêu cầu phải chịu toàn bị phí trọng tài. Ngày 20/7/2017, Bên yêu cầu đề nghị Tòa án hủy Phán quyết trọng tài với lý do: Phán quyết trọng tài trái nguyên tắc tại Luật Trọng tài thương mại và nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định

Tòa án sẽ không xét xử lại các vấn đề về nội dung tranh chấp đã được Hội đồng trọng tài giải quyết mà chỉ xem xét các vấn đề nhằm giải quyết đơn yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Bên yêu cầu theo căn cứ quy định tại Điều 68 Luật trọng tài thương mại. Bởi vậy các nhận định và lập luận Bên yêu cầu đưa ra để khẳng định việc Trọng tài viên đã không độc lập, khách quan, vô tư và tuân theo quy định pháp luật khi giải quyết vụ việc này là hoàn toàn không có căn cứ pháp luật. Quyền sửa đổi, bổ sung ngay tại phiên họp nếu không vượt quá phạm vi khởi kiện, do đó ý kiến này của Bên yêu cầu Hội đồng xét đơn nhận thấy không có căn cứ pháp luật để chấp nhận.

Từ những phân tích trên, Hội đồng phiên họp xét đơn xác định phiên họp hôm nay không xét xử lại nội dung vụ án theo quy định tại Điều 71 Luật trọng tài thương mại nên những lập luận của Bên yêu cầu thuộc nội dung vụ án, đã được Hội đồng trọng tài xem xét và giải quyết. Do đó, Hội đồng xét đơn thấy không có căn cứ để chấp nhận yêu cầu hủy phán quyết trọng tài của Bên yêu cầu.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu hủy quyết định Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 09/17 được lập ngày 29/06/2017 của Hội đồng trọng tài VIAC.

217-227

Quyết định số 07/2017/QĐ-PQTT ngày 18/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 20/01/2000, tại tỉnh Lào Cai, Công ty L (bên liên quan) và Công ty G (Bên yêu cầu) ký Hợp đồng hợp tác kinh doanh. Đầu năm 2015, khi thấy lượng hàng tiêu thụ ở Cửa hàng có dấu hiệu giảm sút, Bên liên quan đã tìm hiểu giá nhập của các đơn vị khác kinh doanh cùng mặt hàng trên địa bàn và cho rằng Bên yêu cầu cung cấp hàng hóa với giá cao hơn so với giá thị trường. Đến tháng 6/2015, Cửa hàng không còn hàng bán, nhưng Bên yêu cầu không có bất kỳ kế hoạch cung cấp hàng cho Cửa hàng, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến kết quả kinh doanh của Cửa hàng, trong khi Cửa hàng vẫn phải duy trì bộ máy hoạt động. Bên liên quan đã nộp đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết tranh chấp.

Nội dung Phán quyết trọng tài ngày 16/01/2016:

– Chấp nhận yêu cầu của Bên liên quan về việc chấm dứt Hợp đồng hợp tác kinh doanh Cửa hàng miễn thuế L C ký ngày 20/01/2000 giữa Bên liên quan và Bên yêu cầu.

– Không chấp nhận yêu cầu của Bên liên quan về việc buộc Bên yêu cầu phải bồi thường thiệt hại với số tiền 181.398.000 đồng.

– Bên liên quan phải chịu phí trọng tài là 22.768.000 đồng. Ngày 14/2/2016, Công ty G gửi đơn yêu cầu hủy phán quyết trọng tài với lý do Phán quyết đã đưa ra nhiều nhận định và kết luận không phù hợp với tình tiết khách qua và trái các quy định pháp luật Việt Nam.

Tòa án nhận định

Hội đồng xét đơn xét thấy, căn cứ vi phạm thủ tục tố tụng của Bên yêu cầu đưa ra đề nghị Tòa án hủy Phán quyết trọng tài không thuộc một trong các trường hợp quy định tại Điều 68 của Luật Trọng tài thương mại, mà đây là những vấn đề thuộc về nội dung của vụ tranh chấp.

Do đó, Hội đồng xét đơn không có căn cứ chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài của Bên yêu cầu. Đối chiếu với các quy định nêu trên của Quy tắc, Hội đồng trọng tài khẳng định trong toàn bộ quá trình giải quyết 148 – 156 vụ tranh chấp số 29/16, Hội đồng trọng tài không nhận được bất kỳ Đơn kiện lại nào của Bên yêu cầu về việc đề nghị Hội đồng trọng tài xem xét, giải quyết hậu quả của việc chấm dứt hợp đồng. Do vậy, Hội đồng trọng tài không có cơ sở để xem xét các yêu cầu của Bên yêu cầu.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 29/16 ngày 16/1/2016 của VIAC.

228-236

Quyết định số 08/2017/QĐKDTM ngày 24/8/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Tranh chấp hợp đồng bảo hiểm giữa Công ty T và Tổng Công ty Bảo hiểm BV. Hội đồng trọng tài căn cứ vào các quy định liên quan của pháp luật Việt Nam, quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC phán quyết như sau:

1. Buộc Bị đơn (tức Tổng Công ty Bảo hiểm BV), phải bồi thường cho Nguyên đơn (tức Cty T), ½ số tổn thất thực tế đối với hàng hóa thuộc hạng mục “Sản phẩm dở dang” trên dây chuyền sản xuất với số tiền là 1.534.000.000 đồng;

2. Nguyên đơn phải chịu phí trọng tài là 88.792.000 đồng; Bị đơn phải chịu phí trọng tài là 88.792.000 đồng;

3. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày Phán quyết trọng tài này được lập, Bị đơn có trách nhiệm thực hiện các nghĩa vụ thanh toán. Ngày 13/6/2017, Tổng Công ty bảo hiểm BV đề nghị Tòa án hủy Phán quyết trọng tài vụ tranh chấp số 01/17 của VIAC.

Tòa án nhận định

Khi xem xét căn cứ hủy Phán quyết trọng tài Hội đồng xét đơn phải trên cơ sở Luật Trọng tài thương mại và Qui tắc tố tụng trọng tài để xác định xem Phán quyết có vi phạm một trong các trường hợp qui định tại Điều 68 Luật Trọng tài thương mại không. Tuy nhiên các căn cứ do bên yêu cầu đưa ra để hủy phán quyết trọng tài thuộc về nội dung của vụ tranh chấp do đó Hội đồng xét đơn căn cứ khoản 4 Điều 71 Luật Trọng tài thương mại không xét xử lại nội dung vụ tranh chấp mà Hội đồng trọng tài đã giải quyết.

Tòa án quyết định

Không chấp nhận yêu cầu Hủy quyết định Phán quyết Trọng tài vụ kiện số 01/17 được lập ngày 11/5/2017 của Hội đồng Trọng tài Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam về giải quyết tranh chấp hợp đồng bảo hiểm hàng hóa giữa Công ty TNHH T và Tổng công ty bào hiển BV.

237-241

Quyết định số 02/2005/XQĐTT-ST ngày 11/5/2005 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội

Về việc: Yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

Tóm tắt nội dung

Ngày 17/11/2003. Công ty PT VINDOEXIM do ông Phan Bá Hưng đại diện có ký hợp đồng kinh tế số 071 với Công ty TNHH Thủ đô II để mua bán phân URÊ số lượng 25.000 tấn, trị giá hợp đồng là 4.000.000USD. Hai bên có thỏa thuận phương thức thanh toán: “bên mua sẽ mở thư tín dụng chuyển khoản không thể thu hồi với toàn bộ giá trị hợp đồng trong vòng 5 ngày làm việc sau khi nhận được đơn hàng từ bên bán ngày 01/12/2003”. Sau khi ký hợp đồng, đến ngày 15/12/2003 Công ty TNHH Thủ đô II đã gửi thư cho Công ty PT VINDOEXIM đề nghị bổ xung ngày hết hạn của PB là 15/02/2004 nhưng Công ty PT VINDOEXIM không chấp nhận nên công ty Thủ đô II không thực hiện hợp đồng.

Ngày 24/01/2004, Công ty PT VINDOEXIM do ông Phan Bá Hưng ký đơn khởi kiện gửi Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam và yêu cầu Công ty TNHH Thủ đô II phải trả số tiền phạt 2,5% tổng giá trị hợp đồng như đã ký kết tương đương với 100.000 USD do không mở L/C đúng thời hạn; và tiền chi phí dịch vụ pháp lý là 11.000 USD.

Tòa án nhận định

Theo giấy phép thành lập công ty ngày 8/9/2003 do cơ quan có thẩm quyền của Nhà nước INDONESIA xác nhận thì ông LIYANTO là chủ tịch công ty, còn ông INWANTO là thành viên công ty, không có ông 174 – 177 Phan Bá Hưng ở công ty này (BL số 15, 16 ngày 03/02/2005) và tại điều lệ của công ty VINDOEXIM cũng không có tên ông Hưng tham gia làm giám đốc công ty.

Ngoài các tài liệu trên cũng không có một văn bản pháp lý nào của Công ty PT VINDOEXIM ủy quyền hợp lệ cho ông Phan Bá Hưng được phép ký thỏa thuận trọng tài ở thời điểm ký kết hợp đồng kinh tế ngày 17/11/2003. Vì thế việc ông Hưng thỏa thuận trọng tài là không đúng thẩm quyền nên ông không có quyền thỏa thuận trọng tài với Công ty TNHH Thủ đô II nên việc thỏa thuận trọng tài này là vô hiệu.

Tòa án quyết định

1. Chấp nhận đơn yêu cầu hủy quyết định trọng tài của Công ty TNHH Thủ đô II do ông Nguyễn Anh Cường đại diện.

2. Hủy quyết định vụ kiện 03/04 ngày 21/7/2004 được công bố ngày 31/8/2004 của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam bên cạnh phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam.

3. Công ty TNHH Thủ đô II phải nộp 500.000đ lệ phí yêu cầu được trừ vào dự phí đã nộp tại biên lai số 004925 ngày 29/9/2004 tại Phòng thi hành án thành phố Hà Nội.

242-245

LINK TÀI LIỆU PDF: Tổng hợp 31 Quyết định của Tòa án về giải quyết yêu cầu hủy phán quyết trọng tài

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan