Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TỔNG HỢP 25 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

TỔNG HỢP 25 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

FDVN tiếp tục chia sẻ bộ tài liệu “TỔNG HỢP 25 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI” do các Luật sư/Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm và tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ mục đích học tập, nghiên cứu. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và các mục đích bất hợp pháp.

MỤC LỤC

Tổng hợp 25 Bản án và Quyết định giám đốc thẩm có bị cáo là người chưa thành niên phạm tội

STT

TÊN VĂN BẢN

SỐ TRANG

1

Bản án số 12/2020/HS-ST ngày 15/05/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bảo Thắng tỉnh Lào Cai về tội buôn bán hàng cấm.

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo, khi phạm tội các bị cáo
các bị cáo Lý Xuân T; Hoàng Văn T chưa đủ 18 tuổi; bản thân các bị cáo là học sinh, sống phụ thuộc không có tài sản riêng. Vì vậy, không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền theo quy định tại khoản 4 Điều 190 Bộ luật hình sự đối với các bị cáo.

Đối với Hoàng Đại H là người được bị cáo Hoàng Văn T nói cho biết việc Hoàng Văn T mua pháo mang đi bán, nhưng Hoàng Văn T cũng không bàn bạc, hứa hẹn rủ Haoàng Đại H đi cùng thì sẽ được cho hưởng lợi ích gì. Khi bị bắt Hoàng Đại H mới 15 tuổi 04 ngày. Do đó, Hoàng Đại H chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự. Cơ quan điều tra không xử lý trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Tòa án tuyên các bị cáo Lý Xuân T; Hoàng Văn T phạm tội “Buôn bán hàng cấm”.

Xử phạt bị cáo Lý Xuân T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 03 (Ba) năm, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Xử phạt bị cáo Hoàng Văn T 09 (Chín) tháng tù, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

1 – 9

2

Bản án số 28/2020/HS-ST ngày 16/05/2020 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh, tỉnh Hải Dương về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Nguyễn Xuân P (không có giấy phép lái xe theo quy định) điều khiển xe môtô không giảm tốc độ tại nơi đường giao nhau, không nhường đường tại nơi có vạch kẻ đường dành cho người đi bộ qua đường đã va chạm với bà Nguyễn Thị D đang đi bộ qua đường trên vạch kẻ đường dành cho người đi bộ. Hậu quả làm bà D chết tại hiện trường.

Tại thời điểm ngày 22/10/2011 bị cáo 16 tuổi 7 tháng 3 ngày lại phạm tội rất nghiêm trọng, do vậy không có căn cứ để miễn trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.

Bị cáo là người dưới 18 tuổi phạm tội. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng quy định tại Điều 91 và Điều 101 Bộ luật hình sự để lượng một hình phạt phù hợp đối với bị cáo.

Tòa án tuyên:

Tòa án tuyên bị cáo Nguyễn Xuân P phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển Phương tiện giao thông đường bộ”.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Xuân P 30 (Ba mươi) tháng tù cho hưởng án
treo, thời gian thử thách 05 (Năm) năm, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm.

10 – 17

3

Bản án số 06/2020/HS-ST ngày 10/01/2020 của Tòa án nhân dân thành phố H tỉnh TT H về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.

Trần N L đã trực tiếp điều khiển xe mô tô biển số 92H1- 161.70 lưu thông trên đường Lê D theo hướng từ cầu Dã V đến cầu Phú X. Khi đi đến đoạn qua trước cột điện số 98 đường Lê D, xe mô tô do L điều khiển đã tông vào anh Bùi Văn Ln đang đi bộ qua đường, theo hướng từ phải qua trái theo chiều đi của bị cáo L, gây tai nạn. Anh Bùi Văn L bị chết do tai nạn giao thông.

Tòa án tuyên: Căn cứ vào điểm a, c khoản 2 Điều 260, điểm b, s khoản 1, 2 Điều 51, Điều 54, Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần N L 1 năm tù, về tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ”.

18 – 25

4

Bản án số 50/2019/HS-ST  ngày 28/11/2019 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Nam Định về tội cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh.

C có hành vi trêu chị L là bạn gái của K, C ôm chị L và nói là “Cho anh ôm cái cho tình cảm đi lên”, khi có người nói “người yêu nó đang ở đấy” thì C nói “người yêu nó là cái L… gì”, sau đó C cầm 01 chiếc ghế nhựa màu đỏ dạng ghế tựa cao 69 cm, rộng 49 cm vụt liên tiếp 1-2 phát từ trên xuống dưới trúng vào đầu và lưng của K. K nhìn thấy con dao gọt hoa quả để ở trong chiếc giá nhựa, lưỡi dao bằng kim loại màu trắng có đầu nhọn 12,5cm, rộng 02cm, chuôi bằng nhựa màu đen dài 10cm liền cầm lên để sát hông người. C tiếp tục dùng chân tay đấm đá K khoảng 2-3 phát, Đ là bạn C cũng lao vào dùng tay, chân đấm, đạp vào lưng và bắp chân trái của K. Bị C và Đ đánh, K dùng tay phải cầm dao đâm 1 phát hướng từ sau ra trước, từ dưới lên trên trúng vào bụng dưới rốn của C gây thương tích cho anh C với tỷ lệ thương tích là 43%.

Tòa án tuyên: Căn cứ vào khoản 1 Điều 135; điểm b, i, s khoản 1 Điều 51; khoản 2 Điều 51; Điều 90, 91; 100; 101 và Điều 36 của Bộ luật Hình sự. Điều 325 Bộ luật Tố tụng hình sự.

– Tuyên bố bị cáo Hoàng Duy K phạm tội “Cố ý gây thương tích trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh”.

– Xử phạt bị cáo K 18 (mười tám) tháng cải tạo không giam giữ (bị cáo được trừ đi thời gian đã bị tạm giữ từ ngày 23-8-2019 đến ngày 28-11-2019 là 03 tháng 08 ngày, được quy đổi thành 09 tháng 24 ngày cải tạo không giam giữ).

26 – 33

5

Bản án số 89/2019/HS-ST ngày 29/10/2019 của Tòa án nhân dân thị xã Hoàng Mai – Nghệ An về tội cưỡng đoạt tài sản.

Nguyễn Bá T rủ K, Tr, C, H, S, Sinh,Đậu Danh T, D, B, Nguyễn Nho T ra QL1A và đến khu Công nghiệp Hoàng Mai để chặn xe xin tiền; K, Tr đến bên cửa lái xe ô tô 29LD – 304.34 của C ty TNHH MTV TPB đập cánh cửa, dùng lời nói đe dọa, các đối tượng đi cùng dùng đá ném vào ca bin xe để xin tiền của anh Hà Văn T, buộc anh T phải miễn cưỡng đưa 50.000đ, lấy tiền xong các đối tượng chê ít đòi thêm nhưng anh T không đưa mà nổ xe ô tô lùi về cây xăng gần đó, các đối tượng tiếp tục dùng đá ném vào xe ô tô, làm bể kính chắn gió có giá trị 1.500.000đ và làm anh T bị thương nhẹ đã cấu thành tội cưỡng đoạt tài sản.

Đối với Nguyễn Nho T là đối tượng cũng tham gia cưỡng đoạt tài sản trong vụ án, nhưng tính đến ngày phạm tội T mới đủ 15 tuổi 7 tháng 13 ngày, đây là vụ án thuộc trường hợp nghiêm trọng nên Nguyễn Nho T không phạm tội.

Đối với hành vi gây thương tích cho anh Hồ Văn T và hành vi ném vỡ kính xe ô tô biển kiểm soát 29LD – 304.34 của Nguyễn Bá T, do anh T từ chối giám định tỷ lệ thương tật và thiệt hại kính xe là 1.500.000đ, hành vi chưa đủ yếu tố cấu thành tội phạm nên cơ quan CSĐT Công an thị xã Hoàng Mai đã xử phạt hành chính đối với Nguyễn Bá T.

Tòa án tuyên: Căn cứ vào khoản 1 Điều 170; điểm b, s khoản 1, khoản 2 (trừ T, K) Điều 51; điểm o Điều 52 (đối với T); Điều 65 (đối với Tr, T, D, S, C, H, S, B); Điều 58; Điều 91; Điều 100 (trừ T) Bộ luật hình sự. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Bá T, Vũ Lê K, Nguyễn Bá Tr, Nguyễn Bá C, Lê Đăng H, Nguyễn Bá S, Bùi Văn S, Đậu Danh T, Nguyễn Văn D, Ngô Trí B phạm tội “Cưỡng đoạt tài sản“.

34 – 45

6

Bản án số 54/2019/HS-ST ngày 09/09/2019 của Tòa án nhân dân huyện Phú Yên, tỉnh Sơn La về tội hiếp dâm người dưới 16 tuổi.

Lò Văn C đã có hành vi quan hệ tình dục với Vì Thị Kiều O trên cơ
sở tự nguyện của hai người. Khi phạm tội bị cáo Lò Văn C được 17 tuổi 25 ngày, người bị hại Vì Thị Kiều O được 12 tuổi 7 tháng 28 ngày (chưa đủ 13 tuổi). Đã vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 142 Bộ luật Hình sự năm 2015, khung hình phạt có mức hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm và thuộc trường H rất nghiêm trọng.

Tòa án tuyên: Căn cứ điểm b khoản 1 điều 142, điểm b, s khoản 1, khoản 2 điều 51; điều 54; khoản 1, 2 điều 65; điều 91, điều 36 Bộ luật Hình sự năm 2015:

Tuyên bố bị cáo Lò Văn C phạm tội: “Hiếp dâm người dưới 16 tuổi”.
Xử phạt bị cáo Lò Văn C 03 (Ba) năm tù nhưng cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (Năm) năm.

46 – 57

7

Bản án số 22/2019/HSST ngày 20/6/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thanh Thủy, tỉnh Phú Thọ về tội đánh bạc.

S1, sinh năm 1990, bị cáo Hsinh năm 1992, bị cáo N, sinh ngày 14/4/2001, bị cáo P, sinh năm 1974 đã có hành vi đánh bạc trái phép bằng hình thức đánh liêng ăn tiền tại nhà tập thể của Công ty cổ phần xây dựng và thương mại ĐX, bị Công an huyện Thanh Thủy bắt quả tang. Tổng số tiền các bị cáo sử dụng vào mục đích đánh bạc là 6. 335.000đ (Sáu triệu ba trăm ba mươi lăm ngàn đồng) đã đến mức sử lý về hình sự.

Đối với bị cáo Trần Văn N khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo là người dưới 18 tuổi, tuy nhiên bị cáo cũng đã nhận thức được các hành vi đánh bạc trái pháp luật đều bị nghiêm cấm, nhưng bị cáo vẫn cố tình thực hiện. Vì vậy, cần đưa các bị cáo ra xét xử và có hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội đối với từng bị cáo mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Tòa án tuyên:

– Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321 – Bộ luật Hình sự. Tuyên bố: Bị cáo H, bị cáo N, bị cáo P phạm tội “Đánh bạc”.

– Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 1, Khoản 2, Khoản 4 Điều 36 – Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo: H 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 7 ngày bị tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 26/12/2018.

– Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm s Khoản 1 Điều 51, Khoản 1, Khoản 2, Khoản 4 Điều 36 – Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo: Trương Công P 12 (Mười hai) tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 7 ngày bị tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 26/12/2018.

– Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 321, điểm i, điểm s Khoản 1 Điều 51, Điều 36, Điều 91, Điều 98, Điều 100 – Bộ luật Hình sự Xử phạt bị cáo: Trần Văn N 6 (Sáu) tháng cải tạo không giam giữ được khấu trừ 7 ngày bị tạm giữ từ ngày 20/12/2018 đến ngày 26/12/2018.

58 – 72

8

Bản án số 23/2019/HS-ST ngày 03/05/2019 của Tòa án nhân dân huyện H1, tỉnh Thái Bình về tội tang trưc trái phép chất ma túy.

Nguyễn Đức H đang có hành vi tang trữ 01 gói ma túy loại Heroine có khối lượng 0,2493 gam  trong túi áo ngực bên trái phía trước H đang mặc thì bị tổ công tác Công an huyện T1 bắt quả tang.

Do bị cáo là người chưa thành niên, mức hình phạt áp dụng bằng 3/4 đối với người chưa thành niên nên cần áp dụng Điều 91, Điều 101 Bộ luật hình sự xét xử bị cáo dưới khung hình phạt.

Tòa án tuyên: Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50; Điều 91; Điều 101 Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Điểm a khoản 2 Điều 106; khoản 2 Điều 136; Điều 331; Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đức H phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức H 09 (chín) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày chấp hành án, được trừ thời gian tạm giữ từ ngày 22/01/2019 đến ngày 31/01/2019. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

73 – 78

9

Bản án số 55/2019/HSST ngày 18/4/2019 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Lạt về tội cướp giật tài sản.

Bị cáo tuy là người chưa thành niên khi phạm tội nhưng đã có đầy đủ nhận thức, bị cáo biết rất rõ việc lợi dụng người bị hại là khách du lịch đến thành phố Đà Lạt, không có sự cảnh giác cần thiết để công nhiên chiếm đoạt tài sản, sau khi giật được tài sản bị cáo đã nhanh chóng tẩu thoát khỏi sự truy đuổi của người bị hại.

Tòa án tuyên:  bị cáo Hoàng Anh K phạm tội “Cướp giật tài sản”. Áp dụng khoản 1 điều 171; điểm s khoản 1 điều 51; điều 91 và điều 101 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Hoàng Anh K 12 (Mười hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 12/3/2019.

79 – 83

10

Bản án số 22/2019/HSST ngày 28/03/2019 của Tòa án nhân dân quận Ô Môn, thành phố Cần Thơ về tội tang trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo Q tàng trữ 0,2930 gram ma túy loại Methamphetamin.

Đối với Đào Tấn V sinh ngày 28/7/2003 là người chưa thành niên có hành vi mua bán ma túy dùm Q chưa đủ cơ sở cấu thành tội phạm nên cơ quan điều tra đã áp dụng biện pháp nhắc nhờ tại chỗ.

Đối với Huỳnh Công H và Nguyễn Thị Diễm X có sử dung ma túy chung với Q nhưng gói ma túy công an thu giữ Hiếu và Xương không có hùn tiền mua, không đủ cơ sở để xử lý hình sự nên Cơ quan điều tra đã chuyển hồ sơ đến Công an phường Thới Long, quận Ô Môn và Công an xã Thới Hưng, huyện Cờ Đỏ để xử lý hành chính theo quy định pháp
luật.

Riêng Nguyễn Văn Lúa không thừa nhận có bán ma túy cho Q nên không đủ cơ sở thụ lý.

Tòa án tuyên: Căn cứ vào Điểm c Khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự năm 2015. Tuyên bố: Trần Phú Q phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Xử phạt: Trần Phú Q
02(hai) năm 06(sáu) tháng tù.

84 – 90

11

Bản án số 02/2019/HS-ST ngày 11/01/2019 của Tòa án nhân dân quận 11, thành phố Hồ Chí Minh về tội cố ý gây thương tích.

Các bị cáo dùng cây gỗ gây thương tích cho các bị hại trong đó có một người thương tích 60%. Hành vi của các bị cáo đã đủ dấu hiệu cấu thành tội “Cố ý gây thương tích” thuộc trường hợp “dùng hung khí nguy hiểm” theo quy định tại điểm a khoản 1, khoản 3 Điều 104 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009). Tuy nhiên, khung hình phạt về tội “Cố ý gây thương tích” quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 là nhẹ hơn; do đó, áp dụng các nội dung có lợi cho bị cáo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt theo quy định tại điểm c khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 đối với các bị cáo.

Tòa án tuyên:

-Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Tấn L, Trần Minh T và Hồ Đình S phạm tội “Cố ý gây thương tích”.

– Xử phạt bị cáo Huỳnh Tấn L 05 (năm) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2018.
– Xử phạt bị cáo Trần Minh T 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo. Thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án 11/01/2019.

91 – 104

12

Bản án số 20/2019/HS-ST ngày 10/01/2019 của Tòa án nhân dân quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội về tội hiếp dâm.

Nguyễn Phan N (sinh ngày 16/8/2001, tính đến ngày phạm tội là 17 tuổi 17 ngày) lợi dụng chị Lê Thị Châu A ( sinh ngày 15/01/2001, tính đến ngày bị xâm hại là 17 tuổi 07 tháng 13 ngày) say rượu không thể tự vệ được đã thực hiện hành vi giao cấu trái ý muốn với chị Châu A.
Hành vi của bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “Hiếp dâm” được quy định tại Điều 141 Bộ luật hình sự. Thời điểm bị cáo có hành vi giao cấu trái với ý muốn với nạn nhân, chị Châu A mới 17 tuổi 07 tháng 13 ngày, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự với tình tiết tăng nặng định khung hình phạt “Phạm tội đối với người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18
tuổi”,
 theo quy định tại khoản 4 Điều 141 Bộ luật hình sự.

Về áp dụng hình phạt bổ sung: Xét bị cáo là người chưa thành niên nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền.

Tòa án tuyên:

-Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Phan N phạm tội “Hiếp dâm”.
– Áp dụng khoản 4 Điều 141; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91, Điều 98; khoản 1 Điều 101; Điều 38 Bộ luật hình sự; Điều 135; khoản 2 Điều 136; Điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/ UBTVQH 14 ngày 30/12/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
– Xử phạt bị cáo Nguyễn Phan N 40 (Bốn mươi) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt thi hành án, được trừ thời gian tạm giữ là 09 ngày (từ ngày 03/9/2018 đến ngày 12/9/2018).

105 – 112

13

Bản án số 61/2018/HS-ST ngày 09/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang về tội xúc phạm quốc kỳ.

Nguyễn Văn điều khiển xe môtô mang biển số kiểm soát 52P9 – 1468 chở Ngô Ch; Đoàng V điều khiển xe môtô mang biển số kiểm
soát 68V7 – 3437 chở Danh S chạy trên lộ nông thôn cùng nhau giựt 11 lá cờ tổ quốc  để làm dụng cụ gọt trái cây và treo lên trên cây bạch đàn ven đường với mục đích nhát ma người đi đường. Đối chiếu tại Điều 351 BLDS năm 2015 thì “Người nào cố ý xúc phạm Quốc kỳ, Quốc huy, Quốc ca, thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc  phạt tù 06 tháng đến 03 năm”. Như vậy, việc các bị cáo giựt các lá cờ Quốc kỳ treo trên đường của các hộ dân để gói để gựt trái cây, cột lại thành nhiều lá cờ treo lên trên cây bạch đàn ven đường để nhát ma nhiều người đi đường đủ yếu tố cấu thành tội “Xúc phạm Quốc kỳ”.

Tòa án tuyên:

Căn c vào Điều 351; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 38 B S. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn và Đoàng V phạm tội: “Xúc phạm Quốc kỳ”.

1/ Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn 06 sáu tháng tù.

2/ Xử phạt bị cáo Đoàng V 03 ba tháng tù.

Căn c vào Điều 351; điểm i, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 91 và khoản 1, khoản 2 Điều 100 BLDS

Tuyên bố các bị cáo Danh ng S và Ngô Ch phạm tội: “Xúc phạm Quốc kỳ”.
3/ Xử phạt bị cáo Danh ng S 06 sáu tháng cải tạo không giam giữ .
4/ Xử phạt bị cáo Ngô Ch 06 sáu tháng cải tạo không giam giữ .

113 – 121

14

Bản án số 33/2018/HS-ST ngày 06/09/2018 của Tòa án nhân dân huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định về tội trộm cắp tài sản và cố ý gây thương tích.

Tòa án tuyên:

Tuyên bố các bị cáo Trần Minh V, Huỳnh Văn H, Trần Thanh T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm n khoản 1 Điều 48; điểm p khoản
1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009):
– Xử phạt bị cáo Trần Minh V 12 (Mười hai) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009), tổng hợp hình phạt 12 tháng tù của Bản án này với 36 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 22/2018/HS-ST ngày 27/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định, buộc bị cáo Trần Minh V phải chấp hành hình phạt chung là 48 (Bốn mươi tám) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo Trần Minh V tính từ ngày bị tạm giam ngày 17/01/2018.

2. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009):

– Xử phạt bị cáo Huỳnh Văn H 09 (Chín) tháng tù.

Áp dụng khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009), tổng hợp hình phạt 09 tháng tù của Bản án này với 30 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 22/2018/HS-ST ngày 27/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định, buộc bị cáo Huỳnh Văn H phải chấp hành hình phạt chung là 39 (Ba mươi chín) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo Huỳnh Văn H tính từ ngày bị tạm giam ngày 17/01/2018.

3. Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 69; Điều 74 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009):
– Xử phạt bị cáo Trần Thanh T 06 (Sáu) tháng tù.
Áp dụng khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 1999 (Sửa đổi, bổ sung năm 2009), tổng hợp hình phạt 06 tháng tù của Bản án này với 24 tháng tù về tội “Cố ý gây thương tích” tại Bản án số 22/2018/HS-ST ngày 27/7/2018 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Bình Định, buộc bị cáo Trần Thanh T phải chấp hành hình phạt chung là 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù của bị cáo Trần Thanh T tính từ ngày bị tạm giam ngày 17/01/2018.

122 – 130

15

Bản án số 126/2018/HS-ST ngày 17/08/2018 của Tòa án nhân dân huyện Quế Võ, Tỉnh Bắc Ninh về tội mua bán trái phép chất ma túy.

Bị cáo đã có hành vi bán trái phép 0,0256 gam ma túy, là chất Methamphetamine cho Nguyễn Văn T, sinh năm 1998 ở thôn Mao Dộc, xã Phượng Mao, huyện Quế Võ, tỉnh Bắc Ninh lấy số tiền 500.000 đồng.

Tòa án tuyên:

Căn cứ Khoản 1 – Điều 251; Điểm s – Khoản 1- Điều 51; Điều 54; Điều 91; Điều 101; Điều 38; Điều 47- BLHS; ; Điều 106; Khoản 2- Điều 136; Khoản 1, Điều 329 – Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án:

– Tuyên bố bị cáo Hà Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.
– Xử phạt Hà Văn Th 18 (Mười tám) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ 12/5/2018.

-Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.
– Tịch thu tiêu hủy số ma túy Methamphetamine còn lại sau giám định, được đóng gói niêm phong trong phong bì thư có dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bắc Ninh. Tịch thu sung quỹ Nhà nước 500.000đ của bị cáo do bán ma túy mà có. Trả lại cho bị cáo 01 nhẫn kim loại là vàng 9999 có khối lượng 0,5 chỉ, 01 nhẫn kim loại là Bạc có
khối lượng 08 phân, nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

131 – 136

16

Bản án số 138/2018/HS-ST ngày 26/07/2018 của Tòa án nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La về tội chống người thi hành công vụ

Bị cáo Điêu Chính Tr, Điêu Chính Đ, Lò Văn H, Điêu Chính Th, Hoàng Văn H, Lò Văn T, Cà Văn Ph dùng vũ lực như sau: Các bị cáo dùng chân đạp đổ cánh cổng phụ của nhà trường làm cánh cổng bật khỏi bản lề đổ xuống sân trường. Các bị cáo Điêu Chính Đ, Điêu Chính Tr, Hoàng Văn H dùng chân, tay để đánh, đấm vào chân, tay, đùi, mặt của ông Quý. Các bị cáo Lò Văn H, Lò Văn T, Cà Văn Ph dùng tay không
đánh ông Ngọc; riêng bị cáo Điêu Chính Th dùng gậy sắt vụt vào vai, sườn của ông Ngọc. Các bị cáo có hành vi vũ lực tấn công ông Vũ Văn Ng, Đỗ Văn Q là cán bộ bảo vệ đang làm nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự của Trường THPT BT theo kế hoạch, nhiệm vụ được phân công của nhà trường khi ngăn cản không cho các bị cáo vào trường gây rối trật
tự là vi phạm pháp luật.

Tòa án tuyên:

1.Về tội danh và hình phạt

Căn cứ khoản 1 Điều 257; các điểm b,g,h,p khoản 1 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60 BLHS 1999

– Tuyên bố bị cáo Điêu Chính Tr phạm tội Chống người thi hành công vụ;
– Xử phạt bị cáo Điêu Chính Tr 07 (bảy) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Căn cứ khoản 1 Điều 257; các điểm b,g,h,p khoản 1 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60; Điều 53 BLHS 1999

– Tuyên bố các bị cáo Lò Văn H, Điêu Chính Th, Cà Văn Ph phạm tội Chống người thi hành công vụ;

– Xử phạt bị cáo Điêu Chính Th 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
– Xử phạt bị cáo Lò Văn H 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
– Xử phạt bị cáo Cà Văn Ph 06 (sáu) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
Căn cứ khoản 1 Điều 257; các điểm b,g,h,p khoản 1 Điều 46; khoản 1,2 Điều 60; Điều 53; Điều 69, Điều 71, Điều 74 BLHS 1999

– Tuyên bố các bị cáo Điêu Chính Đ; Hoàng Văn H; Lò Văn T phạm tội Chống người thi hành công vụ;

– Xử phạt bị cáo Điêu Chính Đ 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
– Xử phạt bị cáo Hoàng Văn H 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.
– Xử phạt bị cáo Lò Văn T 04 (bốn) tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

137 – 151

17

Bản án số 26/2018/HS-PT ngày 11/04/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước về tội cướp tài sản.

Cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn M, Lý Hải Đ, Nông Văn T, Hoàng Hữu T, Hoàng Ngọc H phạm tội “Cướp tài sản”

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46, các điểm n, g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn M 07 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/3/2017.
Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, 74 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lý Hải Đ 04 năm tù 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, 74 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Hữu T 04 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt đi thi hành án.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, 74 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc H 04 năm tù.

Cấp phúc thẩm tuyên:

– Căn cứ điểm b, đ khoản 1 Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015; Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện B về tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Hoàng Hữu T và bị cáo Lý Hải Đ;

– Chấp nhận một phần kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện B đối với Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2017/HSST ngày 20/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện B về phần áp dụng pháp luật và án phí dân sự sơ thẩm;

– Không chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân huyện B về phần tăng nặng hình phạt đối với bị cáo Trần Văn M, giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2017/HSST ngày 20/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện B về mức hình phạt của bị cáo Trần Văn M.
– Chấp nhận một phần kháng cáo của các bị cáo Hoàng Hữu T, bị cáo Lý Hải Đ, bị cáo Hoàng Ngọc H;

– Sửa một phần bản án Bản án hình sự sơ thẩm số 111/2017/HSST ngày 20/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện B về phần hình phạt, áp dụng pháp luật và phần án phí dân sự sơ thẩm.

1/ Về tội danh và hình phạt: Tuyên bố các bị cáo Trần Văn M, Lý Hải Đ, Nông Văn T, Hoàng Hữu T, Hoàng Ngọc H phạm tội “Cướp tài sản”;
+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Trần Văn M 07 (bảy) năm tù.

+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46, điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự; xử phạt bị cáo Lý Hải Đ 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Hữu T 03 (ba) năm 06 tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, khoản 1 Điều 74 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Hoàng Ngọc H 03 (ba) năm 06 tháng tù.

Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo đi thi hành án.

+ Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133, các điểm b, p khoản 1 khoản 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 20, 33, 53, 69, khoản 2 Điều 74 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo Nông Văn T 03 (ba) năm tù.

152 – 163

18

Bản án số 161/2018/HS-PT ngày 27/03/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại thành phố Hồ Chí Minh về tội giết người.

Trương Gia T đã dùng dao đâm chết anh Sơn Phú C chỉ vì bị cáo cho rằng anh Sơn Phú C đã lái xe mô-tô ép xe của một người học sinh nào đó Lê Quốc B và Bùi Đăng K tham gia với vai trò là đồng phạm, cụ
thể như sau:

– Bùi Đăng K là người trực tiếp lái xe mô-tô chở Trương Gia T và Lê Quốc B đuổi theo và chặn xe của người bị hại để sau đó, Trương Gia T dùng dao đâm chết người bị hại;

– Sau khi Trương Gia T dùng dao đâm người bị hại, Bùi Đăng K là người dùng xe mô-tô chở Trương Gia T và Lê Quốc B rời khỏi hiện trường, đi nơi khác.

Tòa án tuyên:

Căn cứ Điều 345 và Điều 355 của Bộ luật tố tụng Hình sự năm 2015;
1/Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Bùi Đăng K; sửa bản án hình sự sơ thẩm số 76/2017/HSST ngày 19/12/2017 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về phần hình phạt đối với bị cáo Bùi Đăng K, như sau:
Tuyên bố bị cáo Bùi Đăng K phạm tội “Giết người”. Áp dụng Điểm n Khoản 1 Điều 93; Điểm p Khoản 1, Khoản 2 Điều 46; Điều 53; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009); Xử phạt bị cáo Bùi Đăng K 04 (bốn) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 14/06/2017.

164 – 170

19

Bản án số 72/2017/HS-ST ngày 28/12/2017 của Tòa án nhân dân huyện H, tỉnh T về tội vi phạm quy định điều khiển phương tiện giao thông đường bộ.

Nguyễn Quốc T không có giấy phép lái xe theo quy định, đã điều khiển xe mô tô biển số 70C1-038.30 vượt đèn đỏ gây tại nạn giao thông làm bà Nguyễn Thị Lệ Quyên tử vong, đã vi phạm khoản 9 Điều 8; Điều 9; điểm b khoản 3 Điều 10; khoản 1 Điều 11 Luật giao thông đường bộ.

Tòa án tuyên:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quốc T phạm tội “Vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ”. Áp dụng điểm a, khoản 2, Điều 202; điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 60, Điều
69, Điều 74 Bộ luật Hình sự. Xử phạt bị cáo Nguyễn Quốc T 03 (ba) năm tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 05 (năm) năm tính từ ngày tuyên án.

171 – 176

20

Bản án số 118/2017/HS-ST ngày 30/11/2017 của Tòa án nhân dân quận 6 thành phố Hồ Chí Minh về tội cướp giật tài sản.

Đây là vụ án có đồng phạm mang tính giản đơn, với bị cáo Nguyễn Ngọc N là người rủ rê, xúi giục và trực tiếp chiếm đoạt tài sản. Còn bị cáo Huỳnh Trung C là đồng phạm giữ vai trò giúp sức tích cực cho bị cáo Nguyễn Ngọc N thực hiện hành vi phạm tội.

Tòa án tuyên:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Ngọc N, Huỳnh Trung C phạm tội: « Cướp giật tài sản ».

– Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 69; khoản 2 Điều 74 và Điều 45 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

– Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc N 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù.
Thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2017.

– Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136; điểm g, điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47;Điều 69; khoản 2 Điều 74 và Điều 45 của Bộ luật hình sự năm 1999 được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

– Xử phạt bị cáo Huỳnh Trung C 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 09/7/2017.

– Áp dụng khoản 2 Điều 41 của Bộ luật hình sự và điểm b khoản 2 Điều 76 của Bộ luật tố tụng hình sự. Trả lại ông Huỳnh Văn N 01 (một) chiếc xe gắn máy biển số 94H4-7498, số khung RLCS5C6308Y-077127, số máy 5C63-077127 (loại xe hai bánh từ 50-175cm3, nhãn hiệu Sirius, số loại 5C63, sơn màu Bạc Đen, dung tích 110).

– Áp dụng Điều 99 của Bộ luật tố tụng hình sự và Nghị quyết số
326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Mỗi bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

177 – 184

21

Bản án số 07/2017/HS-ST ngày 28/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Tam Đường, tỉnh Lai Châu về tội cố ý gây thương tích.

Giàng A N đã thực hiện hành vi dùng hung khí nguy hiểm là con dao, loại dao gấp bằng kim loại, kích thước dài 21 cm, phần lưỡi dao nhọn dài 9 cm đâm một nhát theo hình vòng cung từ sau ra trước, từ phải qua trái theo chiều song song với mặt đất trúng vào phần bụng bên trái của Hàng A L gây tổn hại sức khỏe với tỷ lệ tổn thươnglà 31% (ba mốt phần trăm).

Căn cứ vào khoản 3 Điều 104, điểm b, đ, p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 47, Điều 41, Điều 68, Điều 69, Điều 74 của Bộ luật hình sự 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009; Khoản 3 Điều 7, khoản 3 Điều 134 của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, Nghị quyết số 41/2017/QH14, ngày 20/6/2017 của Quốc hội; Điều76, Điều 99, Điều 234 của Bộ luật tố tụng hình sự; Điểm đ, khoản 1 Điều 12 Nghị quyết số 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Giàng A N phạm tội “Cố ý gây thương tích”.
2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Giàng A N 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 24/8/2017.

185 – 193

22

Bản án số 132/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Đức Hòa, Tỉnh Long An về tội cướp giật tài sản.

Bị cáo Nghiêm Dương H đã thực hiện hành vi điều khiển xe mô tô biển số 51L4-6400 chở bị cáo Đặng Văn T áp sát chị Trần Thị Mai Tr đang điều khiển xe mô tô đi trên đường cho bị cáo T ngồi sau giật một điện thoại di động hiệu Oppo F1S, màu vàng đồng của chị Tr có trị giá là 3.493.000 đồng nhằm mục đích đem bán lấy tiền chia nhau tiêu xài thì bị bắt quả tang cùng tang vật.

Tòa án tuyên:

Tuyên bố các bị cáo Nghiêm Dương H và bị cáo Đặng Văn T phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự; điểm p khoản 1 Điều 46, Điều 20, Điều 33, Điều 53 Bộ luật hình sự; Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Nghiêm Dương H 03 (Ba) năm tù. Thời iant ù tính từ ngày 13 tháng 7 năm 2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo Nghiêm Dương H 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án
(15/11/2017) để đảm bảo cho công tác kháng nghị, kháng cáo và thi hành án. Áp dụng điểm d khoản 2 Điều 136 Bộ luật hình sự; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 74, Điều 20, Điều 53 Bộ luật hình sự; Điều 228 Bộ luật tố tụng hình sự. Xử phạt bị cáo Đặng Văn T 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời iant ù tính từ ngày 13
tháng 7 năm 2017. Tiếp tục tạm giam bị cáo Đặng Văn T 45 (Bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án (15/11/2017) để đảm bảo cho công tác kháng nghị, kháng cáo và thi hành án. Tang vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật hình sự Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự.

194 – 201

23

Bản án số 14/2017/HS-ST ngày 15/11/2017 của Tòa án nhân dân huyện Vũ Quang, tỉnh Hà Tỉnh  về trộm cắp tài sản.

Nguyễn Đình T đã nãy sinh ý định trộm cắp tài sản của ông Đ. T lén lút đi bộ qua hàng rào cây xanh của nhà ông Đoàn Văn B (nhà không có người ở) vào nhà ông Đ lấy trộm 01 chiếc điện thọai di động Iphone 5, màu trắng; 01 sạc pin điện thoại; 01 chiếc máy tính bảng
Galaxy Tab A, màu đen và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu HUA WEI, màu vàng. Sau khi lấy trộm được số tài sản nói trên, T đã cất dấu chiếc máy tính bảng Galaxy Tab A, màu đen ở dưới tấm gỗ trong nhà ông Đoàn Văn L (nhà không có người ở) rồi bỏ 02 chiếc điện thoại di động và 01 bộ sạc pin vào túi quần đi về nhà mình. Đến ngày
03/8/2017, do sợ bị phát hiện nên T đã đến nhà ông L đưa chiếc máy tính bảng Galaxy Tab A đặt trên chiếc xe đạp điện của anh Đoàn Văn Đ để ở sân với mục đích trả lại cho ông Đ, còn chiếc điện thoại Iphone 5 thì T đưa đến gửi cho anh Võ Quốc T sửa chữa để sử dụng.

Tòa án tuyên:

Tuyên bố bị cáo Nguyễn Đình T phạm tội “ Trộm cắp tài sản”. Áp dụng Khoản 1 Điều 138, Điểm h, p Khoản 1 và Khoản 2 Điều 46, Điều 69, Điều 73 Bộ luật hình sự năm 1999; Điểm b Khoản 1 Điều 2 Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc Hội; Khoản 3 Điều 7, Điều 91, Điều 100 của Bộ Luật hình sự năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 của Quốc Hội xử
phạt Nguyễn Đình T 06 (sáu) tháng cãi tạo không giam giữ.

202 – 207

24

Bản án số 234/2017/HS-ST ngày 28/09/2017 của Tòa án nhân dân thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế về tội trộm cắp tài sản và tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có.

Nguyễn Viết T thực hiện 05 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị 14 400 000đ, Phan Tấn Th thực hiện 01 vụ trộm cắp tài sản với tổng giá trị 6 500 000đ, Lương Trung H tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có 02 lần với giá trị 3 100 000đ.

Bị cáo Nguyễn Viết T mặc dù khi phạm tội là người chưa thành niên nhưng có nhân thân rất xấu, là người khởi xướng, trực tiếp tham gia tất cả 05 vụ trộm, hành vi phạm tội liên tục, rất táo bạo, liều lĩnh, rủ rê các bị cáo khác phạm tội, bị cáo phạm tội nhiều lần nên phạm vào tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm g khoản 1 Điều
48 Bộ luật Hình sự Do đó, bị cáo phải chịu trách nhiệm chính trong vụ án và chịu mức án cao nhất so với các bị cáo khác, cần cách ly ra khỏi xã hội một thời gian đ có tác dụng giáo dục và phòng ngừa.

Bị cáo Lương Trung H là người đã thành niên, 02 lần giúp sức tích cực cho bị cáo T đem tài sản đi tiêu thụ nên cũng phải chịu tình tiết tăng nặng được quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự. Do đó bị cáo phải chịu vai trò thứ hai trong vụ án này. Bị cáo Phan Tấn Th là người chưa thành niên, chỉ giữ vai trò đồng phạm giúp sức cho bị
cáo T trong một lần thực hiện trộm cắp tài sản nên phải chịu trách nhiệm hình sự tương xứng đối với mức độ hành vi của mình gây ra .

Tòa án tuyên:

Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Viết T (C), Phan Tấn Th phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Lương Trung H (R) phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” . Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm b, o, p khoản 1, 2 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Nguyễn Viết T 01 (một) năm tù Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt giam thi hành án
Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm g, h, p khoản 1, 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60; Điều 69; Điều 74 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Phan Tấn Th 04 tháng tù nhưng cho hưởng án treo Thời gian thử thách 01 năm k từ ngày tuyên án sơ thẩm .

Áp dụng khoản 1 Điều 250; điểm b, g, p khoản 1 Điều 46; điểm g khoản 1 Điều 48; Điều 60 của Bộ luật Hình sự; Xử phạt bị cáo Lương Trung H 06 tháng tù nhưng cho hưởng án treo.

208 – 220

25

Quyết định giám đốc thẩm số 13/2014/HS-GĐT của Toà hình sự tòa án nhân dân tối cao ngày 02/04/2014 về vụ án Nguyễn Quốc Anh cùng đồng phạm bị kết án tội cướp tài sản.

Nguyễn Quốc Anh, Trần Hữu Điềm và Trần Ngọc Duy có hành vi dùng vũ lực đối với các anh Võ Văn Khỏe, Đoàn Văn Diệu và Nguyễn Hữu Việt nhằm chiếm đoạt tài sản và thực tế các bị cáo đã chiếm đoạt chiếc xe mô tô biển kiểm soát 92N8-3613 của anh Khỏe (trị giá 3.000.000 đổng). Vì thế, Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm kết án Nguyễn Quốc Anh, Trần Hữu Điềm và Trần Ngọc Duy về tội “Cướp tài sản”.

Cấp sơ thẩm tuyên: Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2012/HSST ngày 07-9-2012, Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam áp dụng điểm d khoản 2 Điều 133; các điểm b, p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 47; Điều 60 Bộ luật hình sự và áp dụng thêm Điều 69, Điều 74 Bộ luật hình sự đối với Trần Hữu Điềm, Trần Ngọc Duy, xử phạt Nguyễn Quốc Anh 36 tháng tù, Trần Hữu Điềm 30 tháng tù và Trần Ngọc Duy 30 tháng tù, đều về tội “Cướp tài sản”, nhưng cho tất cả các bị cáo trên được hưởng án treo.

Cấp phúc thẩm tuyên:

Bản án hình sự phúc thẩm số 230/2012/HSPT ngày 14-11-2012, Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam đã hủy bản án hình sự sơ thẩm nêu trên để điều tra lại.

Giám đốc thẩm quyết định:

Hủy bản án hình sự phúc thẩm số 230/2012/HSPT ngày 14/11/2012 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Nam và bản án hình sự sơ thẩm số 42/2012/HSST ngày 07/09/2012 của Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình; chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam để xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.

221 – 224

LINK TẢI: TỔNG HỢP 25 BẢN ÁN VÀ QUYẾT ĐỊNH GIÁM ĐỐC THẨM CÓ BỊ CÁO LÀ NGƯỜI CHƯA THÀNH NIÊN PHẠM TỘI

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quân Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

336 Phan Chu Trinh, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại Quảng Ngãi:

359 đường Nguyễn Du, thành phố Quảng Ngãi, tỉnh Quảng Ngãi

Luật sư tại Hà Nội:

45C Trần Quốc Toản, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàng Kiếm, thành phố Hà Nội

Luật sư tại Phú Quốc

65 Hùng Vương, Dương Đông, Phú Quốc, Kiên Giang

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0935 643 666    –  0906 499 446

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

Bài viết liên quan