FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 22 bản án ly hôn vì lý do ngoại tình” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 22 bản án ly hôn vì lý do ngoại tình
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG VỤ ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 06/2023/HNGĐ-ST ngày 17 tháng 03 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Bắc Bình, tỉnh Bình Thuận.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Kim T, sinh năm 1992 trú tại Thôn T, xã S, huyện B, tỉnh Bình Thuận cùng anh Nông Thế M sinh năm 1991 kết hôn trên sở sở tự nguyện tìm hiểu nhau, hai bên có tổ chức đám cưới truyền thống và đăng ký kết hôn ngày 29/10/2012 tại UBND xã S. Trong thời gian hôn nhân, hai anh chị chỉ hạnh phúc một thời gian và có với nhau 01 con gái sinh năm 2013. Do anh M đi làm xa, sau đó ngoại tình với người phụ nữ khác. Đến năm 2016 anh M dọn ra ở riêng với người phụ nữ khác không quan tâm đến chị M và con cái. Chị M và gia đình đã nhiều lần khuyên nhủ và bỏ qua cho anh M nhưng anh M không thay đổi, kiếm chuyện, đánh đập chị M. Nhận thấy mục đích hôn nhân vợ chồng không đạt được, không thể đoàn tụ. Nay yêu cầu Tòa án giải quyết được ly hôn với anh M. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa cũng như căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, HĐXX nhận định: Xét yêu cầu khởi kiện của Chị T, HĐXX nhận thấy: quan hệ hôn nhân giữa chị T và anh M được xác lập trên cơ sở tự nguyện có đăng ký kết hôn tại xã S, huyện B theo Giấy chứng nhận kết hôn số 48 ngày 29/10/2012 nên là hôn nhân hợp pháp, chị T có đơn ly hôn nên áp dụng Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 để giải quyết. Chị T và anh M xác lập quan hệ hôn nhân vào năm 2012 cuộc sống vợ chồng sống chỉ hạnh phúc một thời gian ngắn thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân là do anh M có quan hệ với người phụ nữ khác. Năm 2016 anh M dọn ra ở riêng với người phụ nữ khác từ đó đến nay không ai quan tâm đến vợ con. Chị T nhiều lần tạo điều kiện, cơ hội, khuyên nhủ anh M thay đổi để vợ chồng cung nhau chung sống nhưng anh M không chịu quay về. Hai bên gia đình anh M, chị T hòa giải nhiều lần nhưng anh M không thay đổi do đó không thể hàn gắn được. Tòa án tiến hành triệu tập, tổ chức hòa giải tuy nhiên anh M không đến Tòa án để làm việc, hòa giải chứng tỏ anh M cũng không còn muốn níu kéo, hàn gắn tình cảm, hôn nhân với chị T. Vợ chồng đã không còn sống chung với nhau một thời gian dài. Như vậy mâu thuẫn trong hôn nh n giữa chị T và anh M sự đã thật sự trầm trọng, mục đích hôn nh n không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên có c n cứ chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về con chung: cháu Nông Thị Như Y, sinh năm 2013 có nguyện vọng ở với mẹ. Chị T cũng là người trực tiếp con chung khi xảy ra mâu thuẫn nên HĐXX giao cho chị T tiếp tục nuôi dưỡng con chung. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn. Về hôn nhân: chị Nguyễn Thị Kim T được ly hôn với anh Nông Thế M. Về con chung: Giao con chung tên Nông Thị Như Y – sinh ngày 31/7/2013 cho chị Nguyễn Thị Kim T chăm sóc, nuôi dưỡng, chị T không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con. Người không trực tiếp nuôi con có quyền thăm nom và chăm sóc con chung, không ai được quyền cản trở. Về tài sản và nợ chung: Không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Về án phí: Chị T phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng được trừ vào 300.000 đồng tạm ứng án phí đã nộp. |
1 – 6 |
2 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 142/2023/HNGĐ-PT ngày 05 tháng 04 năm 2023 của TAND huyện P, tỉnh An Giang.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Năm 1996, Bà V, sinh năm 1978 và ông X sinh năm 1978 cùng trú tại tổ 08, ấp L, xã H, huyện P, tỉnh An Giang qua mai mối hai ông bà đã đồng ý kết hôn và đăng ký kết hôn tại UBND xã H1 ngày 30/01/2012. Sau khi kết hôn vợ chồng sống hạnh phúc có với nhau 03 người con (02 trai, 01 gái) đều đã thành niên nhưng khoảng đến năm 2004 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do ông X ham chơi cờ bạc. Sau đó, năm 2015 ông X có quan hệ ngoại tình và vẫn chơi cờ bạc, được khuyên ngăn nhưng ông X không nghe. Đến năm 2022 gia đình khó khăn, cả nhà phải đi làm công nhân và ở chung nhà trọ nhưng ông X vẫn không thay đổi. Tháng 3/2022 bà V đuổi ông X ra khỏi nhà trọ và ly thân, sau này có hàn gắn nhưng bà V không đồng ý bởi ông X ăn chơi, ngoại tình hết tiền bạc, gần đây còn lấy của bà V 80.000.000 đồng để ăn chơi. Nay, bà V không còn tình cảm với ông X và đề nghị Tòa án yêu cầu ly hôn với ông X. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Về nội dung giải quyết vụ án: Căn cứ lời khai trình bày của đương sự, chứng cứ và nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án cho thấy hôn nhân của ông V và bà X lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà V và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát, cho ly hôn giữa bà V và ông X. Về nuôi con chung: anh Huỳnh V1, Huỳnh K đã có vợ con, riêng chị N đã thành niên đang làm công nhân, có thu nhập tự nuôi sống bản thân. Bà V không có yêu cầu giải quyết về con chung, nên Tòa án không đề cập. Về chia tài sản: bà V không có yêu cầu giải quyết, nên không xem xét. Về nợ chung: ghi nhận bà V xác định không có nợ chung, nhưng sau khi bản án ly hôn có hiệu lực pháp luật, nếu có đương sự xuất trình chứng cứ chứng minh nợ chung của bà V và ông X trong thời kỳ hôn nhân thì hai bên phải liên đới chịu trách nhiệm trong vụ án khác. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: 1. Quan hệ hôn nhân: cho ly hôn giữa bà V và ông X. Giấy chứng nhận kết hôn số 09/HT, quyển số 01/2012 ngày 30/01/2012 của Ủy ban nhân dân xã H1, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý. 2. Về nuôi con chung: bà V và ông X có 03 con chung tên Huỳnh V1, sinh năm 1997, Huỳnh K, sinh năm 1998 và Huỳnh N, sinh năm 2001. Cả 03 con đã thành niên. Các đương sự không yêu cầu giải quyết nên không đề cập. 3. Về chia tài sản: không có; Về nợ chung: ghi nhận bà V xác định không có nợ chung. 4. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà V phải chịu án phí 300.000 đồng nhưng được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp. |
7 – 10 |
3 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 17/2023/HNGĐ-ST ngày 10 tháng 03 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Chị Phạm Thị Lệ H, sinh năm 1986 cùng anh Nguyễn Thành T1, sinh năm 1982 trú tại Áp 7, xã L, huyện B2, tỉnh Vĩnh Long qua mai mối được sự đồng ý của gia đình, hai anh chị đã cùng nhau tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn ngày 24/3/2008 tại UBND xã L. Sau lễ cưới hai anh chị cất nhà và chung sống hạnh phúc được 13 năm, có với nhau 02 cháu trai, một cháu sinh năm 2008 và một cháu sinh năm 2015. Đến năm 2021, vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do anh T1 có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác bỏ bê gia đình. Anh T1 thường xuyên dùng lời lẽ xúc phạm, đuổi chị H ra khỏi nhà rồi còn thách thức chị ly hôn. Gia đình hai bên đã tiến hành hòa giải đề hàn gắn tình cảm nhưng không đạt kết quả. Hai anh chị đã ly thân từ tháng 3/2022 đến nay không trở về đoàn tụ. Nay, chị H nhận thấy vợ chồng không còn tình cảm, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, chị yêu cầu được ly hôn với anh T1. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Tòa án nhận định như sau: – Về nội dung: Xét trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa sơ thẩm, xuất phát từ việc anh T1 có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác, thiếu sự quan châm chăm lo đời sống kinh tế của gia đình diễn ra trong thời gian dài. Chị H xác định không còn tình cảm vợ chồng, không muốn ý tiếp tục chung sống với anh T1. Căn cứ vào lời trình bày của các đương sự, nhận định của Tòa án, đủ cơ sở kết luận hôn nhân giữa chị H và anh T1 đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Căn cứ vào khoản 1 Điều 51, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình, Tòa án giải quyết cho ly hôn giữa chị H và anh T1. Về con chung: Xét nguyện vọng của các cháu sau khi cha mẹ ly hôn, cháu Q muốn được sống chung với chị H, cháu T2 muốn được sống chung với anh T1 và chị H. Hai anh chị cùng nhau đồng ý nội dung này và không yêu cầu bên kia cấp dưỡng do đó Tòa án đồng ý với nội udng tên. Về tài sản và nghĩa vụ chung của vợ chồng: Do không có yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: 1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Phạm Thị Lệ H và anh Nguyễn Thành T1. 2. Về con chung, nuôi con và cấp dưỡng cho con: Giao cháu Q, sinh năm 2015 cho chị H được trực tiếp nuôi dưỡng; Giao cháu T2 sinh năm cho anh T1 được trực tiếp nuôi dưỡng. Ghi nhận ý kiến của chị H và anh T1 không yêu cầu nhau phải cấp dưỡng cho con chung của nhau. Chị H, anh T1 có quyền, nghĩa vụ trong việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở. 3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản của vợ chồng: Không xem xét, giải quyết trong vụ án này. 4. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị H phải nộp án phí ly hôn là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp. |
11 – 15 |
4 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 08/2023/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 03 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Tháng 01/2020, chị Nguyễn Thị H sinh năm 1995 và anh Triệu Văn T sinh năm 1996 cùng trú tại Xóm DD, xã TX, huyện VN, tỉnh Thái Nguyên, có đăng ký kết hôn tại UBND xã TX. Cuộc sống vợ chồng thời gian đầu hòa thuận, hạnh phúc có với nhau 01 con chung Triệu Nhất L sinh năm 2020, hiện đang ở với chị L. Tháng 11/2021 chị H phát hiện anh T có quan hệ ngoại tình, tháng 3/2022 chị phát hiện anh T có con riêng với người phụ nữ khác, cùng thời điểm đó chị cũng đang mang thai nhưng do bị sốc và tâm lý nên đã bị xảy thai. Nay không thể tiếp tục chung sống với anh T nên chị H đề nghị Tòa án được ly hôn với anh T. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, thẩm tra các chứng cứ tại phiên tòa, sau khi nghe các bên tranh luận, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, HĐXX nhận định: – Về tố tụng: Sau khi thụ lý đơn khởi kiện của chị H, Tòa án đã nhiều lần triệu tập hợp lệ anh T đến tòa án để giải quyết nhưng anh T đều vắng mặt không có lý do. Toà án đã xác minh tại UBND xã TX, Công an xã TX, Ban xóm ĐD và gia đình anh T xác nhận các văn bản tố tụng và giấy triệu tập của Toà án đã được tống đạt hợp lệ cho anh T, anh T đã biết, nhưng không đến Tòa án giải quyết. Căn cứ Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt đối với bị đơn do đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. – Về quan hệ vợ chồng: Chị H và anh T đăng ký kết hôn tại UBND xã TX năm 2020 nên đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống thời gian đầu vợ chồng hòa thuận, hạnh phúc, đến tháng 11.2021 chị H phát hiện anh T có quan hệ ngoại tình, có con riêng với người khác, vợ chồng đã ly thân từ tháng 11/2022, hai bên không còn quan tâm đến nhau. Như vậy, có thể xác định được quan hệ vợ chồng giữa chị H và anh T đã lâm vào tình trạng mâu thuẫn trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không thể đạt được, nếu tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân này cũng không mang lại hạnh phúc cho cả hai bên. Xét, yêu cầu xin ly hôn của chị H là chính đáng, do vậy cần chấp nhận yêu cầu của chị H. – Về con chung: Chị H có nguyện vọng được nuôi cháu L, không đề nghị anh T đống góp cấp dưỡng nuôi con chung. HĐXX thấy rằng, cháu L tính đến ngày xét xử sơ thẩm chưa đủ 3 tuổi, chị H có đủ điều kiện về nhà ở, thu nhập để nuôi con chung. Để đảm bảo điều kiện sống và học tập, cần giao cháu L cho chị H nuôi dưỡng. – Về tài sản chung, nợ chung: Không có. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của chị Nguyễn Thị H. 1. Về quan hệ vợ chồng: Cho chị H được ly hôn anh T. 2. Về con chung: Giao cháu L, sinh năm 2020 cho chị H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến khi cháu L đủ 18 tuổi hoặc có sự kiện khác Tạm hoãn việc đóng góp cấp dưỡng nuôi con cho anh T do chị H không yêu cầu. Anh T vẫn được quyền đi lại thăm và chăm sóc con chung. 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không có, không yêu cầu giải quyết. 4. Về án phí: Chị H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm và đuwọc trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp. |
16 – 19 |
5 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 38/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Phú Bình, tỉnh Thái Nguyên.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Năm 1990, ông Thạch Đang H sinh năm 1963 và bà Trịnh Thị N sinh năm 1971 (hiện đã được Tòa án tuyên bố mất tích) cùng trú tại Xóm V, xã L, huyện P, tỉnh Thái Nguyên tự nguyện kết hôn với nhau, có đăng ký kết hôn tại UBND xã M, huyện C, tỉnh Lạng Sơn. Cuộc sống chung vợ chồng hòa thuận, có với nhau 02 con trai sinh đã thành niên Cháu H năm 1992 và cháu L sinh năm 2002. Khoảng đầu năm 2018 mâu thuẫn vợ chồng phát sinh do bà N có quan hệ ngoại tình. Đến ngày 08/5/2018 bà N tự bỏ nhà biệt tích, ông H và gia đình đã tìm kiếm và tìm mọi cách liên lạc nhưng không có tin tức gì về bà N, cho đến nay cũng không biết bà N hiện đang sinh sống ở đâu và làm gì. Do đó, ông H đã đề nghị Tòa án giải quyết yêu cầu tuyên bố một người mất tích đối với bà N theo quy định của pháp luật. Đến ngày 17/8/2022 TAND huyện Phú Bình đã ra Quyết định giải quyết việc dân sự số 03/2022/QĐST-DS, chấp nhận yêu cầu của ông H và tuyên bố bà N mất tích. Nay vẫn không có tin tức gì về bà N cho nên ông H yêu cầu Tòa án giải quyết việc ly hôn giữa ông và bà N. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: – Về thủ tục tố tụng: Sau khi thụ lý vụ án Tòa án đã tiến hành niêm yết đầy đủ, hợp lệ các văn bản tố tụng cho bà N theo quy định của BLTTDS, nhưng tại phiên tòa bà N vẫn vắng mặt lần thứ hai không có lý do. Căn cứ quy định khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 của BLTTDS, Hội đồng xét xử quyết định tiến hành xét xử vắng mặt bà Trịnh Thị N là phù hợp quy định pháp luật. – Về nội dung: Về quan hệ hôn nhân: HĐXX, xét thấy, bà Trịnh Thị N đã bỏ nhà đi biệt tích từ tháng 5/2018 đến nay. Trên thực tế ông H và bà N đã sống ly thân từ tháng 5/2018 đến nay, ông H xác định cảm vợ, chồng không còn nữa. Xét yêu cầu của ông Thạch Đan H là căn cứ phù hợp quy định tại khoản 2 Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình cho cần chấp nhận và cho ông H được ly hôn với bà Trịnh Thị N. Về con chung: Quá trình chung sống ông H và bà N có hai con chung là: cháu H, sinh năm 1992 và cháu L, sinh năm 2002 hiện các con chung đã trưởng thành và không bị mất năng lực hành vi dân sự, ông H không yêu cầu gì về con chung, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết. Về tài sản chung, nợ chung: Ông H xác định quá trình chung sống vợ, chồng không có tài sản chung, nợ chung, nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết. Nếu sau này bà N trở về, bà N và ông H có tranh chấp về tài sản chung, nợ chung thì có quyền khởi kiện để giải quyết bằng một vụ án khác theo thủ tục tố tụng dân sự. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: 1. Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận đơn khởi kiện xin ly hôn của ông Thạch Đan H, cho ông H được ly hôn với bà Trịnh Thị N (Tên gọi khác là Trịnh Thúy N). 2. Về con chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết. 3. Về tài sản chung, nợ chung: Không đặt ra xem xét, giải quyết. 4. Về án phí ly hôn sơ thẩm: Ông H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trược trừ vào tạm ứng án phí đã nộp. |
20 – 23 |
6 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 305/2022/HNGĐ-ST ngày 30 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Chị Nguyễn Thị Bích Ng, sinh năm 1994 và anh Nguyễn Việt L sinh năm 1991, địa chỉ số 342, ấp A, xã H, huyện C, tỉnh An Giang đăng ký kết hôn ngày 11/12/2014 tại UBND xã H, có 01 con chung Nguyễn Ngọc Thảo Tr, sinh năm 2014. Trong quá trình chung sống, chị Ng bắt gặp qua tin nhắn việc anh L nói chuyện tình cảm với phụ nữ khác. Mặc dù đã được chị Ng khuyên nhủ anh L không nên tiếp tục có mối quan hệ bất minh với người phụ nữ bên ngoài nhưng anh L lại âm thầm kết bạn với người phụ nữ đó, đặt hình ảnh cá nhân của người đó trên hình nền zalo làm cho chị Ng không còn niềm tin vợ chồng với anh L. Do đó, hôn nhân của chị Ng và anh L không còn hạnh phúc, Chị Ng đã mang con về nhà mẹ để sinh sống 01 tháng nay và yêu cầu Tòa án cho ly hôn với anh L. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Căn cứ vào tài liệu, chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, kết quả tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử phân tích, đánh giá và nhận định như sau: Anh L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai mà vắng mặt tại phiên tòa không có lý do. Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định điểm b khoản 2 Điều 227, khoản 3 Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự. Quan hệ hôn nhân giữa chị Ng và anh L được xác lập tự nguyện, có đăng ký và được UBND xã H cấp chứng nhận kết hôn nên quan hệ vợ chồng hợp pháp được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Tuy nhiên, quá trình chung sống, chị Ng cho rằng anh L ngoại tình làm vợ chồng xảy ra mâu thuẫn và đã ly thân nhau nhiều lần. Theo đó, anh L thừa nhận có nhắn tin tình cảm với người phụ nữ khác, hứa sửa đổi và mong muốn hàn gắn lại với vợ nên không chấp nhận ly hôn với chị Ng. Như vậy, Tòa án xác định, chị Ng yêu cầu ly hôn do vợ chồng có xảy ra mâu thuẫn xuất phát từ việc anh L không thực hiện đúng nghĩa vụ sống chung thủy với người vợ hợp pháp của mình là chị Ng. Mặt khác, kể từ khi Tòa án thụ lý, hòa giải, xét xử vụ việc hôn nhân và gia đình, Tòa án đã tạo điều kiện, tổ chức hòa giải vụ việc ly hôn, động viên vợ chồng hàn gắn nhưng chị Ng vẫn giữ nguyên ý kiến ly hôn do anh L không chịu sửa đổi bản tính nên Tòa án xét thấy khả năng hàn gắn, duy trì mối quan hệ hôn nhân của chị Ng và anh L không được bảo đảm. Theo quy định tại khoản 2 Điều 92 Bộ luật tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 19, khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, chị Ng yêu cầu ly hôn với anh L là có căn cứ do vợ chồng đã không còn tình nghĩa với nhau, anh L đã vi phạm quyền, nghĩa vụ của vợ chồng, làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài và mục đích hôn nhân không đạt. Do đó, Tòa án chấp nhận yêu cầu của chị Ng về việc ly hôn đối với anh L. Tòa án chấp nhận yêu cầu nuôi con của chị Ng, giao con Nguyễn Ngọc Thảo Tr, sinh ngày 05/11/2014 cho chị Ng trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và không yêu cầu anh L cấp dưỡng cho con nên Tòa án không xem xét, giải quyết. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: 1. Đình chỉ xét xử đối với phần chị Ng yêu cầu Tòa án giải quyết về cấp dưỡng cho con. 2. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Nguyễn Thị Bích Ng đối với bị đơn anh Nguyễn Việt L về ly hôn, nuôi con. Chị Nguyễn Thị Bích Ng được ly hôn với anh Nguyễn Việt L. Giấy chứng nhận kết hôn số 233/2014, quyển số 02/2014, ngày đăng ký 11/12/2014 do Ủy ban nhân dân xã H cấp cho chị Ng và anh L không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật. Giao con Nguyễn Ngọc Thảo Tr, sinh ngày 05/11/2014 cho chị Ng được trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con và không yêu cầu cấp dưỡng cho con. Anh L không trực tiếp nuôi con nhưng có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. 3. Về án phí sơ thẩm: chị Nguyễn Thị Bích Ng phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp. |
24 – 28 |
7 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 1632/2022/HNGĐ-ST ngày 19 tháng 10 năm 2022 của Tòa án nhân dân quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Chị Trần Nguyễn T, sinh năm 1995 và anh Nguyễn Hoài B sinh năm 1990 cùng trú tại số 114/20 đường P, phường C, quận G, TP. Hồ Chí Minh, sau 02 năm tìm hiểu và yêu thương nhau từ năm 2015 đến năm 2017 hai anh chị tự nguyện kết hôn, đăng ký kết hôn tại UBND phường C ngày 22/3/2017. Trong quá trình chung sống hai người sống hạnh phúc, có với nhau 01 con chung Nguyễn Trần Minh Đ sinh năm 2021 nhưng đến tháng 11/2019 hai vợ chồng xảy ra mâu thuẫn do anh B có quan hệ tình cảm khác với người phụ nữ khác bên ngoài làm cho vợ chồng bất hòa và sống ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm giữa hai bên không còn, không đạt được mục đích hô nhân nên chị T yêu cầu Tòa án cho ly hôn với anh B để ổn định cuộc sống. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Về yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn: Căn cứ vào Giấy chứng nhận kết hôn ngày 22/03/2017 do UBND phường C, quận G, TP. Hồ Chí Minh cấp cho chị T và anh B đã có đủ cơ sở để kết luận quan hệ hôn nhân của chị T và anh B là quan hệ hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa ngày hôm nay, chị T xác định tình cảm dành cho anh B hiện nay không còn vì giữa hai bên phát sinh mâu thuẫn do anh B có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài dẫn đến vợ chồng bất hòa, thường hay cãi vã nhau, không tìm được tiếng nói chung. Chị T và anh B đã sống ly thân từ tháng 02/2021 cho đến nay. Nay nhận thấy tình cảm dành cho anh B không còn, mục đích của hôn nhân không đạt nên chị cương quyết xin được ly hôn với anh B để ổn định cuộc sống. Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ và từ phân tích trên chứng tỏ mâu thuẫn giữa chị T và anh B là có thật, một trong hai bên đã không tha thiết vun đắp cuộc sống chung là tôn trọng, bình đẳng, hạnh phúc và quan tâm chia sẻ lẫn nhau làm cho hôn nhân giữa họ lâm vào tình trạng trầm trọng, anh B có quan hệ tình cảm với người phụ nữ khác bên ngoài chị T đã tạo cơ hội khắc phục nhưng vẫn không thay đổi, do đó đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được. Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật HNGĐ năm 2014, HĐXX chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị T. Xét về yêu cầu nuôi con chung và cấp dưỡng nuôi con: HĐXX ghi nhận sự tự thỏa thuận của chị T và anh B giao chị T nuôi con chung là hoàn toàn chính đáng, đảm bảo quyền lợi về mọi mặt cho trẻ phát triển bình thường, đồng thời HĐXX ghi nhận anh B tự nguyện cấp dưỡng nuôi con chung số tiền là 10.000.000 đồng/tháng. Về tài sản chung và nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết nên HĐXX không xem xét. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn chị T được ly hôn với anh B. 1. Về quan hệ hôn nhân: Chị Trần Nguyễn T được ly hôn với Anh Nguyễn Hoài B. 2. Về con chung: Giao cháu Đ sinh năm 2001 cho chị Trần Nguyễn T trực tiếp nuôi dưỡng con chung đến tuổi tưởng thành. 3. Về tài sản chung và nợ chung: Hai bên tự khai không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên Tòa không xét. 4. Về án phí sơ thẩm: chị T chịu án phí dân sự sơ thẩm số tiền là 300.000 đồng. Anh Nguyễn Hoài B phải chịu tiền án phí cấp dưỡng nuôi con là 300.000 (Ba trăm ngàn) đồng. |
29 – 35 |
8 |
Bản án Hôn nhân và gia đình sơ thẩm số 29/2022/HNGĐ-ST ngày 29 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Nghĩa Lộ, tỉnh Yên Bái.
Về việc: “Ly hôn vì lý do ngoại tình” Tóm tắt nội dung vụ án: Bà Lò Thị U, sinh năm 1964 và ông Lường Văn T, sinh năm 1968 cùng trú tại địa chỉ Tổ A, phường T, thị xã N, tỉnh Yên Bái tự nguyện tìm hiểu, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục, tập quán địa phương vào năm 1986 nhưng không đăng ký kết hôn. Sau khi kết hôn hai vợ chồng sống chung, sinh được 02 người con gái đều đã thành niên, đến năm 2021 thì phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng. Nguyên nhân: do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau. Mặt khác, ông T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác từ đó thường xuyên gây sự, đe dọa và có hành vi bạo lực đối với bà U nhiều lần. Mặc dù đã được tổ dân phố hòa giải nhưng ông T vẫn không thay đổi. Ngày 20/6/2022, bà U đã đến ở nhà con gái từ đó đến nay. Bà thấy rằng tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc sống chung với ông T nên đề nghị tòa án giải quyết ly hôn. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Về quan hệ hôn nhân: Bà Lò Thị U và ông Lường Văn T kết hôn trên cơ sở tự nguyện vào năm 1986, mặc dù không đăng ký kết hôn nhưng theo quy định tại khoản 1 Điều 131 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, được coi là hôn nhân thực tế. Cuộc sống chung vợ chồng từ khoảng năm 2021 phát sinh mâu thuẫn và ngày càng trầm trọng, nguyên nhân theo bà U do tính cách, quan điểm sống không hợp nhau. Ông T có quan hệ bất chính với người phụ nữ khác từ đó thường xuyên gây sự, đe dọa và có hành vi bạo lực đối với bà nhiều lần (ông T cũng thừa nhận có việc này). Hiện nay hai người đang sống ly thân, không còn tình cảm, không còn quan tâm đến nhau. Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên hòa giải, ông Lường Văn T đồng ý ly hôn theo nguyện vọng của bà U, đây là quyền tự định đoạt của đương sự được Hội đồng xét xử chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa Bà Lò Thị U và ông Lường Văn T. Về án phí dân sự sơ thẩm: Bà Lò Thị U phải chịu án phí ly hôn: 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp. |
36 – 43 |
LINK TẢI PDF: Tổng hợp 22 bản án ly hôn vì lý do ngoại tình
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn