FDVN giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh – thương mại có yêu cầu phạt vi phạm nhưng tòa án không chấp nhận” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
Tóm tắt nội dung
Tổng hợp 20 bản án về tranh chấp hợp đồng trong kinh doanh – thương mại có yêu cầu phạt vi phạm nhưng tòa án không chấp nhận
STT |
TÓM TẮT NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số: 12/2023/KDTM-ST ngày 29/3/2023 của Tòa án nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương.
V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa” Nội dung vụ án: Công ty TNHH B và Công ty TNHH nhà thép H có thỏa thuận ký Hợp đồng cung cấp bê tông số: HD-0306-2021 ngày 03/6/2021 về việc cung cấp sản phẩm bê tông trộn sẵn. Thực hiện theo hợp đồng Công ty B đã bán bê tông cho Công ty nhà thép H và đã xuất các hóa đơn giá trị gia tăng qua các hóa đơn tổng cộng: 480.280.000 đồng và Công ty nhà thép H đã thanh toán số tiền 443.890.000 đồng, vậy số tiền còn nợ: 36.390.000 đồng từ ngày 01/4/2022 cho đến nay Công ty nhà thép H chưa thanh toán. Các bên có thỏa thuận, trường hợp Công ty nhà thép H thanh toán chậm tiền mua bê tông thì ngoài số tiền chậm thanh toán, bên Công ty nhà thép H còn có nghĩa vụ thanh toán tiền lãi chậm thanh toán và tiền phạt vi phạm hợp đồng theo quy định của Luật Thương Mại 2005. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Nguyên đơn cung cấp các hóa đơn giá trị gia tăng với tổng số tiền bị đơn phải thanh toán là 480.280.000 đồng và chứng cứ chứng các lần bị đơn thanh toán tiền hàng cho nguyên đơn với số tiền 443.890.000 đồng. Bị đơn còn nợ số tiền 36.390.000 đồng. Xét yêu cầu phạt vi phạm hợp đồng: Trong hợp đồng hai bên có thỏa thuận phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận mức phạt vi phạm. Nguyên đơn căn cứ Điều 301 Luật thương mại yêu cầu bị đơn thanh toán tiền phạt vi phạm do chậm thanh toán với mức 8% trên số tiền 36.390.000 đồng là không có cơ sở chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Buộc Công ty TNHH nhà thép H thành toán cho Công ty TNHH B số tiền: 37.900.185 đồng (Trong đó: tiền nợ gốc 36.390.000 đồng và nợ lãi 1.510.185 đồng). Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH B đối với Công ty TNHH nhà thép H về tiền phạt vi phạm: 2.911.200 đồng. |
1- 4 |
|
Bản án số: 413/2022/DS-ST ngày 15/9/2022 của Tòa án nhân dân quận 8, thành phố Hồ Chí Minh.
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ Nội dung vụ án: Ngày 14/9/2013, Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP (bị đơn) và ông Nguyễn Đức H (nguyên đơn) có ký Hợp đồng mua bán căn hộ chung cư số: 63C/2012/HĐMBCH-VHP Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-VHP để mua căn hộ B2C-LA, tổng giá trị căn hộ là 1.940.184.180 đồng. Ngay sau khi ký hợp đồng ông H đã thanh toán cho Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP theo thỏa thuận là 1.843.174.971 đồng. Theo đó, bị đơn phải bàn giao căn hộ cho ông H vào quý I năm 2013 (tức là ngày 30/3/2013). Kể từ ngày 30/3/2014 mà Công ty vẫn chưa bàn giao căn hộ thì Công ty chịu phạt 15% trên tổng giá trị đã thanh toán. Tuy nhiên, đã quá thời hạn theo thỏa thuận nhưng bị đơn vẫn không bàn giao căn hộ đã ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của ông H. Ông Nguyễn Đức H khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP thực hiện nghĩa vụ giao căn hộ số B2C-LA, trường hợp Tòa án tuyên Hợp đồng mua bán căn hộ số 63C/2012/HĐMBCH-VHP ngày 14/9/2013 vô hiệu do lỗi của bị đơn, ông H yêu cầu Công ty trả lại số tiền đã nhận là 1.843.174.971 đồng và bồi thường thiệt hại 1.598.032.700 đồng; nguyên đơn yêu cầu rút lại một phần yêu cầu khởi kiện về việc buộc Công ty TNHH Thương mại – 3 Xây dựng VHP phải thanh toán tiền phạt vi phạm hợp đồng là 276.467.245 đồng, tuyên Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP đã sử dụng trái phép tài sản là tiền thuế giá trị gia tăng phải nộp cho ngân sách Nhà nước mà Công ty đã thu của ông H. Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Hợp đồng mua bán căn hộ số 63C/2012/HĐMBCH-VHP ngày 14/9/2013 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-VHP ngày 14/9/2013 được ký kết giữa ông Nguyễn Đức H và Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP vô hiệu do vi phạm điều cấm của luật. Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP là chủ đầu tư dự án nhưng không tuân thủ các quy định của pháp luật trước khi ký hợp đồng bán căn hộ cho khách hàng nên Công ty hoàn toàn có lỗi trong việc làm cho hợp đồng bị vô hiệu. Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP phải hoàn trả cho ông H toàn bộ số tiền mà ông H đã đóng là 1.843.174.971 đồng và phải bồi thường thiệt hại theo lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố là 9%/năm trên số tiền 1.843.174.971 đồng tính từ ngày 15/9/2013 cho đến ngày Tòa án xét xử (ngày 15/9/2022). Cụ thể số tiền bồi thường thiệt hại là 1.492.971.726 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu của ông Nguyễn Đức H, tuyên bố Hợp đồng mua bán căn hộ số 63C/2012/HĐMBCH-VHP ngày 14/9/2013 và Phụ lục hợp đồng số 01/PLHĐ-VHP ngày 14/9/2013 vô hiệu; buộc Công ty TNHH Thương mại – Xây dựng VHP thanh toán cho ông Nguyễn Đức H tổng số tiền là 3.336.146.697 (bao gồm tiền vốn và bồi thường thiệt hại) ngay sau khi bản án có hiệu lực pháp luật. |
6 – 13 |
|
Bản án số 42/2023/DS-ST ngày 24/4/2023 tại Tòa án nhân thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam.
V/v: “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”. Nội dung vụ án: Vào tháng 3/2019, ông Lương Tuấn V và Công ty TNHH Xây dựng, Thương Mại và Dịch vụ AD (viết tắc là: Công ty AD) đã ký kết Hợp đồng hợp tác đầu tư số 74/LK15-18/2019/HĐHTĐT để nhận chuyển nhượng lô đất số LK15-18, diện tích 108,72m2 tại Dự án Khu đô thị Ánh Dương tại Đô thị mới Điện Nam – Điện Ngọc, Quảng Nam với giá trị lô đất là 1.542.856.392 đồng. Theo hợp đồng ký kết số tiền trên được chia thành 4 đợt thanh toán. Sau khi ký hợp đồng, ông V đã thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ đã ký kết với Công ty AD, thanh toán tiền đúng thời hạn là 1.465.713.573 đồng. Tuy nhiên, Công ty AD vẫn không thực hiện đúng các nội dung đã thỏa thuận, cũng không làm thủ tục thanh lý hợp đồng và hoàn trả lại khoản tiền đã nhận, tiền phạt, tiền lãi như cam kết. Vào ngày 14/01/2022, ông V và đại diện Công ty AD đã làm việc với nhau, theo đó ông V yêu cầu Công ty AD thanh toán lại số tiền mà ông V đã đóng và tính lãi, giải quyết nhanh nhất có thể trước ngày 28/01/2022. Tuy nhiên, Công ty AD tìm lý do kèo dài thời gian thanh toán cho ông V. Tính đến thời điểm hiện tại đã hơn 2 năm nhưng Công ty AD vẫn không thực hiện được việc làm thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho ông V, cũng không làm thủ tục để thanh lý hợp đồng và trả lại khoản tiền đã nhận, tiền lãi như cam kết. Đến ngày 01/3/2022 Công ty Luật Quốc Tế Đà Nẵng đại diện theo ủy quyền của ông V đã gửi Thư yêu cầu thanh toán đến Công ty AD, nhưng ông V không nhận được bất kỳ phản hồi nào từ Công ty AD. Quá trình thực hiện hợp đồng, ông V thực hiện đúng các nội dung đã thỏa thuận, Công ty AD không thực hiện đúng nội dung đã thỏa thuận, vi phạm hợp đồng. Nay ông V yêu cầu Công ty AD phải có nghĩa vụ thanh toán cho vợ chồng ông V số tiền tổng cộng là: 2.022.768.387 đồng Tòa án cấp sơ thẩm nhận định: Các bên tham gia ký kết hợp đồng hoàn toàn tự nguyện, mục đích và nội dung hợp đồng không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội, do đó Hợp đồng hợp tác đầu tư số 74/LK15-18/2019/HĐHTĐT có hiệu lực pháp luật. Việc ông V yêu cầu trả số tiền gốc 1.265.713.573 đồng và lãi suất là có căn cứ chấp nhận, đối với yêu cầu phạt vi phạm 30% với số tiền 439.714.072 đồng không có căn cứ nên HĐXX bác yêu cầu này của ông V. Mức lãi suất ông V yêu cầu phù hợp với khoản 2 Điều 468 BLDS và thời gian yêu cầu tính lãi phù hợp quy định tại Điều 4 của hợp đồng nên HĐXX chấp nhận. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Lương Tuấn V đối với Công ty TNHH Xây dựng, Thương Mại và Dịch vụ AD về việc: “Tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư”. Buộc Công ty TNHH Xây dựng, Thương Mại và Dịch vụ AD phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Lương Tuấn V và bà Bùi Thị Tý số tiền tổng cộng: 1.583.054.315 đồng (một tỷ, năm trăm tám mươi ba triệu, không trăm năm mươi bốn nghìn, ba trăm mười lăm đồng). Bác yêu cầu của ông Lương Tuấn V về việc khởi kiện Công ty TNHH Xây dựng, Thương Mại và Dịch vụ AD yêu cầu thanh toán số tiền phạt vi phạm 30% là 439.714.072 đồng (bốn trăm ba mươi chín triệu, bảy trăm mười bốn nghìn, không trăm bảy mươi hai đồng). |
14 – 20 |
|
Bản án số: 11/2023/DS-PT ngày 04/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ Nội dung vụ án: Ngày 22/5/2017 bà L và Công ty TNHH Sản xuất – Thương mại – Dịch vụ TB (gọi tắt là Công ty TB) có ký Hợp đồng mua bán chung cư cao tầng AS – Asalight số: C-17-2/HĐMB/ANSINH-ASALIGHT và các phụ lục kèm theo để mua căn hộ số C-17-2 thông qua Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh bất động sản L&L. Tổng giá bán căn hộ là 1.211.236.488 đồng, thời hạn bàn giao căn hộ là 30/6/2018. Bà L đã thanh toán cho Công ty TB số tiền 363.367.298 đồng. Đến nay Công ty TB vẫn chưa xây dựng xong và không bàn giao căn hộ cho bà L theo đúng thời hạn như hợp đồng đã ký kết. Qua tìm hiểu, bà L được biết Công ty TB không đủ điều kiện kinh doanh căn hộ tại thời điểm ký kết hợp đồng với bà L. Bà L khởi kiện yêu cầu Tòa án hủy hợp đồng mua bán căn hộ đã ký kết với Công ty TB và buộc Công ty TB phải giải quyết hợp đồng, bồi thường cho bà L số tiền cụ thể như sau: Số tiền đã nhận: 363.367.298 đồng; tiền phạt do vi phạm hợp đồng (30% trên số tiền đã thanh toán) 109.010.189 đồng; tiền lãi chậm trả tính từ ngày 01/5/2019 đến ngày 26/8/2022 với mức lãi suất 18%/năm là 220.200.582 đồng. Tổng số tiền phải trả là: 692.578.069 đồng. Tóa án cấp sơ thẩm tuyên: – Hợp đồng mua bán chung cư cao tầng AS – Asalight số: C-17-2/HĐMB/ANSINH-ASALIGHT ngày 22/5/2017 vô hiệu, chấm dứt các Phụ lục hợp đồng kèm theo hợp đồng mua bán căn hộ chung cư nói trên. – Chấp nhận một phần yêu cầu của bà Trương Thị Châu L, buộc Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ TB hoàn trả cho bà Trương Thị Châu L số tiền đã nhận là 363.367.298 đồng và bồi thường thiệt hại số tiền 120.617.755 đồng. Tổng số tiền Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ TB phải trả cho bà Trương Thị Châu L là 483.985.053 đồng. Thanh toán ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Để giải quyết vụ án một cách toàn diện, cần phải đưa Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích Quận T và Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh bất động sản L&L vào tham gia tố tụng, vì quyền và trách nhiệm của các công ty này theo Hợp đồng kinh tế số 21/2016/HĐHTĐT-KD ngày 13/5/2016 giữa Công ty TNHH MTV Dịch vụ Công ích Quận T và Công ty TNHH Sản xuất Thương mại dịch vụ TB và Hợp đồng ủy quyền bán căn hộ thương mại qua sàn giao dịch bất động sản số 01.09/HĐMG/TB-LL ngày 01/9/2016 giữa Công ty TNHH Sản xuất Thương mại Dịch vụ TB và Công ty cổ phần đầu tư kinh doanh bất động sản L&L đều có liên quan khi xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, từ đó đánh giá tính pháp lý của các Hợp đồng. Đối với Hợp đồng mua bán chung cư cao tầng AS – Asalight số: C-17- 2/HĐMB/ANSINH-ASALIGHT ngày 22/5/2017, cấp sơ thẩm nhận định đây là hợp đồng vô hiệu, xác định việc bồi thường bằng hình thức tính lãi suất là không đúng với quy định pháp luật. Trong trường hợp này, cần phải xác định lỗi các bên, có thể phải định giá tài sản, xem xét giá trị chênh lệch mới giải quyết được vụ án. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 353/2022/DS-ST ngày 29/8/2022 của Toà án nhân dân Quận 8, Thành phố Hồ Chí Minh về việc: “Tranh chấp hợp đồng mua bán căn hộ”. |
21 – 26 |
|
Bản án số 586/2023/KDTM-PT ngày 17/5/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh.
V/v tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. Nội dung bản án: Ngày 07/10/2020, Công ty D và Công ty A đã ký kết Hợp đồng Mua bán số 01-A-DB về việc “Cung cấp và lắp đặt máy phát điện”, giá trị hợp đồng là 192.500.000 đồng. Công ty D đã thực hiện nghĩa vụ thanh toán đợt một với số tiền là 35.000.000 đồng cho Công ty A. Tuy nhiên, việc thực hiện Hợp đồng này bị tạm ngưng. Công ty D và Công ty A đã thỏa thuận thanh lý Hợp đồng số 01-A DB và ký kết Hợp đồng Cung cấp số 10082021/HĐCC/DBP-A vào ngày 10/08/2021 với nội dung công việc, giá trị Hợp đồng tương tự, theo đó các quyền, nghĩa vụ và giá trị đã thanh toán từ Hợp đồng số 01-A-DB sẽ được chuyển giao qua hợp đồng mới và Công ty D đã tiếp tục thực hiện nghĩa vụ thanh toán các đợt tiếp theo, tổng giá trị mà Công ty D đã thanh toán cho Công ty A trước thời điểm giao hàng là 175.000.000 đồng. Tuy nhiên, sau khi nhận đủ các khoản thanh toán theo quy định Hợp đồng thì Công ty A đã liên tục trì hoãn việc thực hiện Hợp đồng. Để theo kịp tiến độ dự án đã cam kết với chủ đầu tư, Công ty D phải ký kết hợp đồng với một nhà cung cấp mới là Công ty TNHH Thương Mại Dịch vụ Kỹ thuật Điện P để thay thế Công ty A, tổng giá trị Hợp đồng là 275.000.000 đồng. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu: buộc Công ty A hoàn trả lại toàn bộ số tiền mà Công ty D đã tạm ứng, thanh toán các khoản phạt vi phạm, bồi thường thiệt hại. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Đình chỉ việc yêu cầu buộc Công ty A bồi thường thiệt hại số tiền 100.000.000 đồng, do hành vi vi phạm hợp đồng đã gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến tiến độ tổng của cả dự án. – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, buộc Công ty A trả lại số tiền mua hàng đã nhận là 175.000.000 đồng, bồi thường cho Công ty D tổng số tiền là 120.183.333 đồng (trong đó bao gồm tiền bồi thường phạt vi phạm hợp hợp đồng là 23.100.000 đồng, tiền bồi thường để mua máy phát điện từ nơi khác thay thế và khắc phục hậu quá đã gây ra là 82.500.000 đồng, bồi thường tiền lãi phát sinh là 14.583.333 đồng). Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Căn cứ Khoản 2 Điều 21 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, vụ án này thuộc trường hợp phải tiến hành xác minh, thu thập chứng cứ nên Viện kiểm sát tham gia phiên tòa sơ thẩm. Việc cấp sơ thẩm chấp nhận thỏa thuận của các bên với mức phạt 12% giá trị của hợp đồng mà không điều chỉnh lại cho phù hợp là vi phạm quy định pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 542/QĐKNPT-VKS-KDTM ngày 03/10/2022 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố T; Hủy bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 3521/2022/KDTM-ST ngày 15/9/2022 của Tòa án nhân dân thành phố T, Thành phố Hồ Chí Minh. |
27 – 36 |
|
Bản án số: 13/2023/KDTM-PT Ngày: 05/10/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
V/v “Tranh chấp Hợp đồng thi công” Nội dung vụ án: Ngày 05/6/2020, Công ty K và Công ty L cùng ký hợp đồng thi công số VN 20107. Theo đó, Công ty L chế tạo và lắp đặt 09 bồn chứa 50 KL bằng thép không gỉ 304 cho Công ty K, giá trị hợp đồng là 6.182.000.000 đồng. Trước khi thi công, Công ty L có nghĩa vụ đề xuất kế hoạch công việc và được Công ty K chấp thuận để làm căn cứ thực hiện gia công thiết bị. Công ty K có quyền chỉ định đơn vị giám sát độc lập. Phạt hợp đồng là 0,01%/ tổng giá trị hợp đồng/ ngày vi phạm. Ngày 22/6/2020, Công ty K ủy quyền cho Công ty TNHH K2 VN chuyển tiền cho Công ty L 1.854.600.000 đồng theo thỏa thuận trong hợp đồng. Số tiền còn lại được thanh toán khi kết thúc hợp đồng Ngày 22/6/2020, Công ty L ký hợp đồng số VN20107A thuê Công ty  chế tạo và lắp đặt chín (09) bồn chứa 50 KL (Tương đương 50m3) bằng thép không gỉ 304 nhưng không thông qua ý kiến của Công ty K. Thực tế Công ty  đã chuẩn bị vật tư và thi công được 30,2% tổng khối lượng công việc. Tại thời điểm này, Công ty K yêu cầu Công ty S thực hiện giám sát việc thi công theo thỏa thuận trong hợp đồng đã ký. Qua giám sát, Công ty K phát hiện sản phẩm thi công sai thiết kế. Sau đó, Công ty L đã chuyển sang thiết kế bồn theo tiêu chuẩn API 650 Ngày 29/12/2020, Công ty K và Công ty L đã ký Biên bản ghi nhớ hợp tác trong đó các bên xác định sản phẩm bồn chứa theo tiêu chuẩn API650, Công ty L chịu chi phí phát sinh theo yêu cầu đầu tiên là 379.000.000 đồng; chi phí phát sinh theo yêu cầu thứ hai do Công ty K chịu là 639.000.000 đồng. Mặc dù đã có thỏa thuận nhưng Công ty L đã sản xuất một số hạng mục không theo tiêu chuẩn API 650. Để khắc phục lỗi này, Công ty K đồng ý cho Công ty L sửa chữa, thay thế, tuy nhiên thực tế phía Công ty L đã thi công không đáp ứng tiêu chuẩn cũng như theo hợp đồng, gây khó khăn cho Công ty K trong quá trình vận hành. Công ty L không đồng ý cho đơn vị tư vấn giám sát của Công ty K tham gia làm việc và không tiếp tục thực hiện hợp đồng. Các bên sau đó đã có những trao đổi để tiếp tục thực hiện thỏa thuận nhưng không thống nhất. Ngày 11/6/2021, Công ty L đã tự ý thanh lý toàn bộ vật tư chuẩn bị cho việc thi công chế tạo và lắp đặt chín (09) bồn chứa 50 KL bằng thép không gỉ 304 cho Công ty K mà chưa được sự chấp thuận từ K. Công ty K khởi kiện yêu cầu: Buộc Công ty L phải thanh toán lại 1.854.600.000 đồng, thanh toán số tiền 3.576.896.700 đồng (bao gồm lãi suất trả chậm 10%/năm, phạt quá hạn mỗi ngày là 0,01%, phạt vi phạm hợp đồng, tiền trả cho đơn vị tư vấn giám sát S) Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Buộc Công ty L phải thanh toán cho Công ty K số tiền tính đến ngày 12 tháng 5 năm 2023 là 3.036.899.000đồng – Tuyên chấm Hợp đồng thi công số VN20107 ngày 05/6/2020 giữa Công ty K với Công ty L kể từ ngày 12 tháng 5 năm 2023. – Không chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của Công ty L về việc buộc Công ty K thanh toán số tiền 1.346.163.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Hợp đồng thi công số VN20107 ngày 05/6/2020 được hai bên ký kết và thưnc hiện đồng thời nội dung hộp đồng không vi phạm điều cấm của luật, do đó Hợp đồng thi công số VN20107 là hợp pháp và có hiệu lực thi hành. Việc Công ty L đưa ra những lý do và yêu cầu như đã viện dẫn để đơn phương chấm dứt hợp đồng đã ký với Công ty K là vi phạm thỏa thuận tại Điều 6 và Điều 7 của hợp đồng cũng như vi phạm quy định của Luật thương mại. Như vậy, lỗi dẫn đến đình chỉ thực hiện Hợp đồng thi công số VN20107 ngày 05/6/2020 giữa Công ty K và Công ty L thuộc về Công ty L. Do đó, Công ty L phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh do lỗi của mình gây ra. Công ty K đã thanh toán cho Công ty L 30% giá trị Hợp đồng số VN20107 ngày 05/6/2020 là 1.854.600.000 đồng nhưng hợp đồng chấm dứt thực hiện là do lỗi của Công ty L nên Công L phải trả lại cho Công ty K 1.854.600.000 đồng là có căn cứ. Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty L phải trả lãi chậm trả cho Công ty K 386.375.000 đồng là không phù hợp Theo thỏa thuận tại Điều 5 và Điều 9 của hợp đồng thi công số VN20107 thì số tiền phạt hợp đồng mà bên vi phạm phải chịu là 0,01% /ngày/tổng giá trị của hợp đồng thi công tạm tính là 432.740.000 đồng. Đồng thời, số tiền phạt mà Công ty K yêu cầu Công ty L phải chịu thấp hơn mức quy định tại các Điều 300, 301 của Luật thương mại nên Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty L phải trả cho Công ty K số tiền 432.740.000 đồng phạt do vi phạm hợp đồng là có căn cứ. Điều 5 và Điều 9 của Hợp đồng thi công số VN20107 đã có thỏa thuận về phạt vi phạm hợp đồng 8% đối với số tiền thanh toán trước là 1.854.600.000 đồng. Vì vậy, Công ty K yêu cầu Công ty L phải chịu phạt theo thỏa thuận này với số tiền 148.368.000 đồng là không hợp lý. Do đó, không có cơ sở để chấp nhận yêu cầu kháng cáo này của Công ty K. Công ty K đã ký Hợp đồng dịch vụ số: C/S/2020-12, ngày 09/7/2020 để thuê Công ty TNHH Tư vấn dự án S thực hiện việc giám sát sản phẩm do Công ty L thi công là phù hợp với quy định tại các Điều 181, 182 Luật thương mại cũng như thỏa thuận tại Điều 7 của hợp đồng VN20107. Vì vậy, Tòa án cấp sơ thẩm buộc Công ty L phải thanh toán cho Công ty K số tiền 394.094.000 đồng là có căn cứ. Như vậy, tổng số tiền mà Công ty L phải trả cho Công ty K là 2.681.434.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng thi công số VN-20107 ngày 05/6/2020 kể từ ngày 12 tháng 5 năm 2023. – Buộc Công ty L phải thanh toán cho Công ty K số tiền là 2.681.434.000 đồng. |
37 – 52 |
|
Bản án số: 117/2023/DS-PT ngày 17-7- 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng.
V/v tranh chấp hợp đồng hợp tác đầu tư xây dựng Nội dung vụ án: Ngày 13/02/2015, nguyên đơn ông Trần Nguyễn Hoàng M và bà Trương Thị Thanh Đ có ký kết Hợp đồng số: 29/HĐ-TTTMVC với Công ty TNHH H (bị đơn), về việc hợp tác đầu tư xây dựng hạ tầng nhà ở. Theo Hợp đồng, trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày ký Hợp đồng, Công ty TNHH H có trách nhiệm bàn giao cho vợ chồng ông M 01 lô đất nền ký hiệu theo bản vẽ là D24, tổng giá trị góp vốn là 1.134.000.000 đồng. Đồng thời, hai bên còn ký phục lục hợp đồng số 01 với các điều khoản là bên A đồng ý giảm 10% trên giá trị hợp đồng cho bên B, tổng giá trị góp vốn sau khi trừ đi 10% thì còn là 1.020.600.000 đồng. Ngày 16/5/2018, nguyên đơn đã hoàn thành đóng góp 95% theo giá trị hợp đồng, tương ứng số tiền là 937.251.000 đồng cho bị đơn nhưng bị đơn lại giao lô D24 đã ký kết hợp đồng với nguyên đơn cho bà S. Do đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc Công ty cổ phần H phải thực hiện đúng Hợp đồng đã ký với ông M, bà Đ; xử lý hành vi bán cho nhiều người một lô đất nền D24 trong khi đã thu tiền của ông M, bà Đ theo quy định của pháp luật. Nguyên đơn cho rằng vị trí tranh chấp là D24 nằm 01 phần trong lô nền D25 có diện tích 78,4m2 hiện là lô đất do bà Lý Thị S đã xây dựng nhà kiên cố, còn bị đơn thì xác định vị trí lô nền D24 có diện tích 78,3m2 là phần đất trống Tòa án đã thẩm định. Các bên không thống nhất về vị trí lô đất tranh chấp là lô nền D24 hay lô D24 nằm một phần trong lô nền D25. Ngoài ra, các nguyên đơn yêu cầu bị đơn phải chịu hậu quả khi vi phạm hợp đồng do chậm giao nền nhà lô D24 với số tiền là 843.525.900 đồng và hủy phần diện tích 78,4m2 (diện tích lô đất nền D24) mà Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Sóc Trăng đã cấp cho bà S ngày 14/10/2020. Phía bị đơn phản tố cho rằng các nguyên đơn góp không đủ số tiền 95%, nên phải trả lãi và tiền đóng 10 cọc bê tông với số tiền là 494.451.300 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn, buộc bị đơn thực hiện nghĩa vụ giao lô đất nền D24 theo Hợp đồng số: 29/HĐ-TTTMVC ngày 13 tháng 02 năm 2015 cho nguyên đơn. – Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về yêu cầu xử lý hành vi của Công ty cổ phần H bán lô đất nền D24 cho nhiều người. – Chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn, buộc nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn tổng số tiền 782.223 đồng bao gồm số tiền góp vốn là 538.650 đồng và số tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 243.573 đồng. – Không chấp nhận yêu cầu của bị đơn yêu cầu các nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán tổng số tiền 493.669.077 đồng. Trong đó, tiền góp vốn là 31.780.350 đồng, tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 377.888.727 đồng và số tiền đóng 10 cọc bê tông là 84.000.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Số thứ tự nền trong hợp đồng không có thay đổi so với thiết kế phân lô. Do đó, không có căn cứ xác định lô D24 nằm 1 phần ở vị trí trong lô D25 hiện do bà S đang quản lý, sử dụng. Lô đất nền D24 không phải là lô đất nền mà Công ty TNHH H đã ký hợp đồng bán cho bà Lý Thị S. Lô đất nền mà Công ty TNHH H đã xây dựng xong là lô đất nền D25 và D26 nhập lại thành lô đất nền D25. Các lô đất bên trái (liền trước) lô đất nền D24 không bị điều chỉnh, thay đổi ký hiệu lô cũng như số đo chiều ngang của mỗi lô, nên không thay đổi vị trí của lô đất nền D24. Mặt khác, lô đất nền D25 và D26 nhập lại thành một lô đất nền D25 cũng không làm ảnh hưởng đến vị trí lô đất nền D24. Kháng cáo của nguyên đơn về hồ sơ thiết kế cơ sở Dự án Trung tâm thương mại thị xã C – Giai đoạn 1 (tháng 06/2015) là tài liệu không thật, tài liệu làm giả do bị đơn cung cấp là không có căn cứ. Nguyên đơn cho rằng, cấp sơ thẩm tiến hành xem xét, thẩm định lô đất số D24, nhưng lô đất này không phải là đối tượng của hợp đồng, không phải là đối tượng khởi kiện của nguyên đơn, nên biên bản xem xét, thẩm định ngày 27/12/2018 của Tòa án cấp sơ thẩm không được xem là chứng cứ. Tuy nhiên, việc xem xét, thẩm định tài sản này để xem xét yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, chứ không phải xác định lô D24 là phần đất của bà S đang cất nhà. Nên kháng cáo này của nguyên đơn là cũng không có căn cứ. Đối với yêu cầu của nguyên đơn đề nghị xử lý hành vi bán cho nhiều người một Lô đất nền D24, trong khi đã thu tiền của nguyên đơn thì thấy rằng Lô nền D24 hiện nay vẫn để trống, bị đơn chưa bán cho ai, khi bị đơn giao đất nền cho nguyên đơn thì nguyên đơn lại không nhận, nên yêu cầu này của nguyên đơn là không có cơ sở chấp nhận. Nguyên đơn cho rằng bị đơn vi phạm hợp đồng do chậm giao nền nhà lô D24 với số tiền là 843.525.900 đồng và hủy phần diện tích 78,3m2 (diện tích lô đất nền D24) đã cấp cho bà S. Xét thấy, nguyên đơn ông M không có yêu cầu khởi kiện yêu cầu đối với nghĩa vụ chậm thực hiện hợp đồng. Mặt khác, tại thời điểm bàn giao đất hai bên xảy ra tranh chấp nên nguyên đơn kháng cáo yêu cầu thanh toán số tiền này là không có cơ sở xem xét giải quyết và vượt quá phạm vi yêu cầu khởi kiện ban đầu. Đối với yêu cầu phản tố của bị đơn về việc nguyên đơn chưa nộp đủ 95% tương ứng số tiền còn phải nộp theo hợp đồng là 32.319.000 đồng và yêu cầu ông M và bà Đ phải thanh toán tiền phạt do vi phạm hợp đồng với số tiền là 378.132.300 đồng. Cấp sơ thẩm chấp nhận một phần yêu cầu phản tố của bị đơn và buộc nguyên đơn có nghĩa vụ thanh toán cho bị đơn số tiền góp vốn để đạt 95% là 538.650 đồng và số tiền phạt do vi phạm hợp đồng là 243.573 đồng là không có căn cứ. Cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu yêu cầu thanh toán tiền đóng 10 cọc bê tông (cừ bê tông) trên lô nền D24 với số tiền là 84.000.000 đồng của bị đơn là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: – Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn. – Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bị đơn đối với các nguyên đơn. – Hủy một phần bản án sơ thẩm đối với phần tuyên xử “Buộc bị đơn Công ty cổ phần H giao lô đất nền D24 cho nguyên đơn ông Trần Nguyễn Hoàng M và bà Trương Thị Thanh Đ theo Hợp đồng số: 29/HĐ-TTTMVC ngày 13 tháng 02 năm 2015.” |
53 – 67 |
|
Bản án số 209/2023/KDTM-PT ngày 12/9/2023 tại Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
V/v: “Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa”. Nội dung vụ án: Công ty cổ phần V, sau đổi tên thành Công ty cổ phần V, nay là Công ty cổ phần V (sau đây viết tắt là Công ty V) với Công ty TNHH T (sau đây viết tắt là Công ty T) ký kết hợp đồng mua bán số 0219/HĐMB/VD-TP ngày 01/01/2019 có nội dung: Công ty V bán cho Công ty T các sản phẩm giấy Chánh Dương với số lượng và đơn giá theo từng lần đặt hàng cụ thể. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty V đã hai lần xuất hàng cho Công ty T. Quá trình thực hiện hợp đồng, Công ty V đã hai lần xuất hàng cho Công ty T: – Ngày 12/02/2019 Công ty V cung cấp cho Công ty T số lượng 26.436 kg, đơn giá tùy theo chủng loại giấy, thành tiền là 362.946.540 đồng -Ngày 14/02/2019 Công ty V cung cấp cho Công ty T số lượng 27.781 kg, đơn giá tùy theo chủng loại giấy, thành tiền là 381.988.750 đồng Ngày 28/02/2019 Công ty V xuất hóa đơn số 0000334 với tổng số tiền của hai lần xuất hàng là 744.935.290 đồng. Ngày 08/4/2019 Công ty V và Công ty T đã lập biên bản đối chiếu và xác nhận công nợ trong đó số tiền Công ty T còn nợ Công ty V là 744.935.290 đồng. Nhưng ông H khẳng định không ký vào Biên bản đối chiếu công nợ, còn con dấu của Công ty T ông H cũng đề nghị xem lại. Đến thời điểm hiện tại Công ty T chưa thanh toán tiền nợ mua hàng cho Công ty V, nhiều lần Công ty V yêu cầu Công ty T trả nợ nhưng Công ty T đều trây ỳ không trả nợ. Đơn đặt hàng hai bên không làm văn bản mà chỉ điện thoại qua tin nhắn, trao đổi qua Zalo, hiện tại Công ty V không giữ được các tin nhắn của việc đặt hàng. Tòa sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V đối với Công ty TNHH T. Buộc Công ty TNHH T phải thanh toán cho Công ty cổ phần V số tiền gốc là 744.935.290 đồng, và số tiền lãi chậm trả tính đến ngày 19/4/2023 là 262.248.261 đồng. Tổng cộng là 1.007.183.551 đồng (Một tỷ không trăm bảy một trăm tám ba nghìn năm trăm năm mốt đồng) và tiền lãi chậm trả từ ngày 20/4/2023 đến khi thanh toán hết số tiền cho Công ty V. Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V đối với Công ty TNHH T về việc yêu cầu thanh toán số tiền phạt vi phạm hợp đồng. Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tương ứng với thời gian chưa thi hành án. Tòa án phúc thẩm nhận định: Tranh chấp giữa Công ty cổ phẩn V với Công ty TNHH T phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa, nên được xác định là tranh chấp kinh doanh thương mại. Án sơ thẩm xác định Công ty T còn nợ Công ty V số tiền nợ gốc 744.935.290 đồng và buộc Công ty T phải thanh toán cho Công ty V số tiền nợ gốc trên là có căn cứ. Bản án sơ thẩm tuyên: “Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án” đồng thời tuyên buộc bị đơn phải thanh toán cho nguyên đơn “tiền lãi chậm trả từ ngày 20/4/2023 đến khi thanh toán hết số tiền cho Công ty V” là không đúng, nên sửa lại phần này của bản án sơ thẩm. HĐXX chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH, sửa một phần bản án sơ thẩm. Tòa án phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của Công ty TNHH T. Sửa một phần bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 09/2023/KDTMST ngày 19/4/2023 của Tòa án nhân dân huyện HĐ, thành phố Hà Nội và xử như sau: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V đối với Công ty TNHH T. Buộc Công ty TNHH T phải thanh toán cho Công ty cổ phần V: Tổng cộng là 1.003.591.109 đồng Kể từ ngày người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án cho đến khi thi hành án xong, hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất theo quy định tại Điều 357 và Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với thời gian chưa thi hành án. – Đình chỉ yêu cầu khởi kiện của Công ty cổ phần V đối với Công ty TNHH T về việc yêu cầu thanh toán số tiền phạt vi phạm hợp đồng. |
68 – 76 |
|
Bản án số 03/2023/KDTM-PT ngày 09/02/2023 tại Tòa án nhân dân tỉnh Cà Mau.
V/v: Tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. Nội dung vụ án: Hợp đồng mua bán hàng hóa và lắp đặt số 59/2020 ngày 19/8/2020, Công ty Đồng Phát kí hợp đồng mua hàng hóa và lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời hòa lưới 990kw của Công ty Thịnh Vượng với giá trị hợp đồng là 12.375.000.000 đồng, đến ngày 25/10/2020 Công ty Đồng Phát và Công ty Thịnh Vượng đã kí lại Hợp đồng số 68/2020 để thay thế hợp đồng 59/2020 được các bên thừa nhận. Theo Hợp đồng số 68/2020 thể hiện Công ty Đồng Phát kí hợp đồng mua hàng hóa và lắp đặt hệ thống pin năng lượng mặt trời hòa lưới 990kw của Công ty Thịnh Vượng tổng giá trị theo hợp đồng là 17.328.042.000 đồng. Thời gian thực hiện hoàn thành công trình là 60 ngày kể từ ngày kí hợp đồng, các hạng mục công trình Công ty Thịnh Vượng phải thực hiện gồm việc lắp đặt hệ thống móng, dàn khung kèo, xà gồ, chằng néo và tôn lợp của mái che, mỗi modul 700m2 với giá 3.519.596.000 đồng. Lắp đặt hệ thống đường dây trung thế 3 pha và trạm 1.000kw với giá 1.433.446.697 đồng, lắp đặt hệ thống năng lượng mặt trời hòa lưới 990kw với giá 12.375.000.000 đồng. Công ty Đồng Phát cho rằng trước khi ký Hợp đồng số 68/2020 thì Công ty Đồng Phát đã thi công được một số hạng mục như mua 1.000m2 tôn trị giá 150.000.000 đồng, đổ 365 cây cột và thuê nhân công cặm cột với giá trị là 890.000.000 đồng, thi công trạm biến áp là 1.433.446.697 đồng, tổng trị giá 2.473.446.697 đồng và bàn giao cho Công ty Thịnh Vượng nhưng khi kí hợp đồng vẫn giao cho Công ty Thịnh Vượng thực hiện các hạng mục công trình gồm việc lắp đặt hệ thống móng, dàn khung kèo, xà gồ, chằng néo và tôn lợp của mái che, mỗi modul 700m2 với giá 3.519.596.000 đồng. Lắp đặt hệ thống đường dây trung thế 3 pha và trạm 1.000kw với giá 1.433.446.697 đồng. Mục đích đưa các hạng mục công trình này vào hợp đồng số 68/2020 là để nâng giá trị hợp đồng lên nhằm thuận lợi cho việc vay vốn nhưng Công ty Thịnh Vượng không thừa nhận. Công ty Thịnh Vượng cho rằng các hạng mục công trình đã được Công ty Thịnh Vượng thực hiện sau khi kí Hợp đồng số 68/2020. Tổng giá trị phần gia công và vật tư phía Công ty Thịnh Vượng đã thi công trị giá khoảng 250.000.000 đồng (trong đó tiền gia công là 50.000.000 đồng, tiền vật tư kèo, đòn tay khoảng 200.000.000 đồng). Việc Công ty Thịnh Vượng xác định đã thi công được phần mái che trị giá 638.694.894 đồng và phần nhà tiền chế chưa lợp mái trị giá 482.994.894 đồng là không đúng vì trong các hạng mục này có một phần phía Công ty Đồng Phát đã thực hiện. Đối với các vật tư như Inverter Solis 110kw, tủ điện DC, dây diện DC 1.000m, phụ kiện lắp đặt mái cho 990kw, hiện các vật tư này do phía Công ty Thịnh Vượng chưa lắp đặt và cũng không tiến hành bàn giao cho phía Công ty Đồng Phát nên không đồng ý đối trừ theo yêu cầu của Công ty Thịnh Vượng. Do Công ty Thịnh Vượng đã vi phạm hợp đồng, không thi công đúng thời gian, tự ý ngưng thi công và các bên cũng chưa tiến hành nghiệm thu công trình nên không đồng ý đối trừ phần việc phía Công ty Thịnh Vượng đã thực hiện. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn. Tuyên bố chấm dứt Hợp đồng mua bán hàng hóa và lắp đặt số 68/2020/HĐMB&LĐ ngày 25/10/2020 giữa Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn với Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng. Buộc Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng thanh toán cho Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn tổng số tiền là 1.290.880.000 đồng. Tòa án cấp phúc thẩm nhận định: Do đó không có cơ sở cho rằng trước khi kí hợp đồng số 68/2020, Công ty Đồng phát đã mua 1.000m2 tôn trị giá 150.000.000 đồng và bàn giao cho Công ty Thịnh Vượng. Không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Đồng Phát về việc buộc Công ty Thịnh Vượng phải trả giá trị 365 cây cột trị giá 800.000.000 đồng và tiền nhân công cặm cột là 90.000.000 đồng. HĐXX không chấp nhận việc Công ty Đồng Phát kháng cáo yêu cầu Công ty Thịnh Vượng trả tổng số tiền là 2.473.446.697 đồng vì không có cơ sở. Không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Đồng Phát về việc không thừa nhận số tiền 695.000.000 đồng do ông D chuyển vào tài khoản của ông L. Do đó, chấp nhận số tiền Công ty Thịnh Vượng đã chuyển hoàn cọc cho Công ty Đồng Phát là 2.410.000.000 đồng. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Đồng Phát về việc không thừa nhận số tiền 695.000.000 đồng. Tổng số tiền Công ty Đồng Phát chuyển cho Công ty Thịnh Vượng 4.802.500.000 đồng, Công ty Thịnh Vượng đã chuyển lại cho Công ty Đồng Phát 2.410.000.000 đồng, còn lại Công ty Thịnh Vượng còn giữ của Công ty Đồng Phát là 2.473.446.697 đồng. Không có cơ sở chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty Thịnh Vượng về việc xác định các hạng mục công trình Công ty Thịnh Vượng đã thực hiện có giá trị 1.946.879.772 đồng. Số tiền Công ty Thịnh Vượng còn giữ của Công ty Đồng Phát là 2.473.446.697 đồng, được đối trừ với giá trị công trình do Công ty Thịnh Vượng đã thực hiện là 1.101.620.000 đồng, nên Công ty Thịnh Vượng còn phải trả cho Công ty Đồng Phát là 1.290.880.000 đồng là có cơ sở. Tại phiên tòa phúc thẩm, người đại diện theo ủy quyền của Công ty Đồng Phát và người đại diện theo pháp luật của Công ty Thịnh Vượng không có chứng cứ chứng minh cho yêu cầu kháng cáo của mình nên không có cơ sở để Hội đồng xét xử chấp nhận. HĐXX sửa bản án sơ thẩm của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. HĐXX chấp nhận việc các đương sự yêu cầu ghi nhận phần các vật tư tại công trình chưa được thi công vào bản án để làm cơ sở thi hành án. Vì vậy, cần sửa một phần bản án sơ thẩm để ghi nhận sự thỏa thuận. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH MTV xây dựngĐồng Phát Năm Căn. Không chấp nhận yêu cầu kháng cáo của Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng. Sửa bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 23/2022/KDTM-ST ngày 13 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân thành phố Cà Mau. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn. Tuyên bố chấm dứt hợp đồng mua bán hàng hóa và lắp đặt số 68/2020/HĐMB&LĐ ngày 25/10/2020 giữa Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn với Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng. Buộc Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng thanh toán cho Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn tổng số tiền là 1.290.880.000 đồng Không chấp nhận số tiền yêu cầu chênh lệch Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn yêu cầu Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng thanh toán là 4.270.066.697 đồng. Đình chỉ đối với yêu cầu của Công ty TNHH MTV xây dựng Đồng Phát Năm Căn về việc buộc Công ty TNHH thương mại dịch vụ Võ Gia Thịnh Vượng phạt vi phạm số tiền là 1.386.360.243 đồng. … xem thêm tại link PDF |
77 – 87 |
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
366 Phan Chu Trinh, phường An Cựu, Thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
Phòng 801, Tầng 8, Toà nhà Bluesea, số 205B Hoàng Hoa Thám, phường 6, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn