FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI, TRỢ CẤP KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI, TRỢ CẤP KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
STT |
NỘI DUNG BẢN ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án số 01/2022/LĐ-PT ngày 25/02/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về “tranh chấp trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động”
Nội dung vụ án: Ông Lê Tài B khởi kiện Công ty Cổ phần Khoai mì N nội dung: Đến tháng 3 năm 1989 làm cán bộ Phòng tổ chức cán bộ Nông trường T và nhiều chức vụ khác thuộc Liên Hiệp Xí nghiệp đường tổng hợp Tây Ninh, nay là Công ty Mía đường Tây Ninh. Tháng 11 năm 2005, ông công tác tại Công ty Cổ phần Khoai mì N, đến tháng 3 năm 2011 Tổng giám đốc Công ty TNHH MTV Mía đường Tây Ninh (nay là Công ty Cổ phần Mía đường T) điều động ông đến nhận công tác tại Công ty TNHH Khoai mì Tây Ninh (nay là Công ty Cổ phần Khoai mì T). Do Công ty Cổ phần Khoai mì T thay đổ cơ cấu tổ chức nên ngày 29-12- 2019 ông và Tổng giám đốc Công ty Khoai mì T thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động kể từ ngày 31-12-2019. Theo thỏa thuận, Tổng giám đốc Công ty Khoai mì T ban hành quyết định cho ông thôi việc kể từ ngày 01-01-2020. Tuy nhiên giám đốc Công ty không giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc làm cho ông theo thỏa thuận và quy định pháp luật. Trong quá trình khởi kiện, Công ty Cổ phần Mía đường T đã giải quyết chế độ trợ cấp thôi việc cho ông thời gian làm việc từ năm 1984 đến năm 2005, Công ty Cổ phần Khoai mì T không trả chế độ cho ông do ông đã tham gia bảo hiểm thất nghiệp nên Tòa án không chấp nhận yêu cầu khởi kiện buộc Công ty Cổ phần Khoai mì T trả chế độ trợ cấp thôi việc cho ông. Ông có liên hệ yêu cầu Công ty Cổ phần Khoai mì N trả chế độ thôi việc cho ông khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2008 nhưng không được chấp nhận. Nay, ông khởi kiện yêu cầu Công ty Cổ phần Khoai mì N trả chế độ trợ cấp thôi việc cho ông trong khoảng thời gian ông làm việc tại Công ty từ năm 2006 đến năm 2008 là (25.000.000 đồng/tháng x 03 tháng) ½= 37.500.000 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: – Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Lê Tài B đối với Công ty Cổ phần Khoai mì N. – Buộc Công ty Cổ phần Khoai mì N trả cho ông Lê Tài B tiền trợ cấp thôi việc là 37.500.000 (ba mươi bảy triệu năm trăm nghìn) đồng. Ngày 30-11-2021, Công ty Cổ phần Khoai mì N có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Theo Quyết định số: 19-QĐ/CTMĐ của Công ty Mía Đường Tây Ninh về việc chuyển công tác cán bộ, viên chức thì ông Lê Tài B được chuyển đến Công ty Cổ phần Khoai mì N từ tháng 01 năm 2006. Nên từ tháng 01 năm 2006 đến ngày 25-02-2011, ông Lê Tài B làm việc cho Công ty Cổ phần Khoai mì N. Giữa ông Lê Tài B và Công ty Cổ phần Khoai mì N đã xác lập quan hệ lao động độc lập, không phụ thuộc vào quan hệ lao động giữa ông Lê Tài B với Công ty Mía đường Tây Ninh. Từ tháng 01 năm 2006 đến hết tháng 12 năm 2008, ông Lê Tài B chưa tham gia bảo hiểm thất nghiệp và chưa được chi trả trợ cấp thôi việc nên phải được hưởng trợ cấp thôi việc. Công ty Cổ phần Khoai mì N là người sử dụng lao động phải có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động. Tổng giám đốc Công ty Cổ phần Khoai mì T ban hành Quyết định số: 57/2019/QĐ-KMTN cho ông Lê Tài B thôi việc kể từ ngày 01-01-2020. Tiền lương bình quân của ông Tài Ba 06 tháng liền kề trước khi nghỉ việc theo mức đóng bảo hiểm xã hội là 25.000.000 đồng/tháng. Do đó, cấp sơ thẩm buộc Công ty Cổ phần Khoai mì N trả chế độ trợ cấp thôi việc cho ông Lê Tài B mức 37.500.000 đồng là có căn cứ. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của Công ty Cổ phần Khoai mì N Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê Tài B, Buộc Công ty Cổ phần Khoai mì N trả cho ông Lê Tài B tiền trợ cấp thôi việc là 37.500.000 đồng. |
1 – 7 |
2 |
Bản án số 01/2022/LĐ-ST ngày 09/02/2022 của Tòa án nhân dân quận 7, thành phố Hồ Chí Minh về “tranh chấp về trợ cấp thôi việc”
Nội dung vụ án: Ông Nguyễn Duy G và Công ty Cổ phần C ký hợp đồng lao động từ tháng 4/1995, sau đó hai bên ký tiếp Hợp đồng lao động ngày 21/7/2008, từ năm 2018 công ty không bố trí công việc cho ông G, ông đã nghỉ việc và được công ty đồng ý bằng Quyết định số 63/QĐ-CPTC. Theo quyết định trên thì công ty chấm dứt hợp đồng lao động với ông Nguyễn Duy G kể từ ngày 30/9/2019, số tiền trợ cấp thôi việc cho ông G là 34.677.500 đồng. Sau khi hai bên chấm dứt hợp đồng lao động thì đến nay công ty không chi trả số tiền trợ cấp thôi việc cho ông G. Ông G yêu cầu Tòa án buộc Công ty Cổ phần C phải trả một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ trợ cấp thôi việc là 34.677.500 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định Ông G đã xin nghỉ việc và Công ty Cổ phần C đã ra Quyết định số 63/QĐ-CPTC ngày 03/9/2019, theo quyết định trên thì chấm dứt hợp đồng lao động với ông Nguyễn Duy G kể từ ngày 30/9/2019, ông G có thời gian làm việc tại công ty từ ngày 04/4/1995 đến ngày 30/9/2019 (24 năm 06 tháng), thời gian trả trợ cấp thôi việc là 13 năm 09 tháng (từ tháng 4/1995 đến tháng 12/2008), số tiền trợ cấp thôi việc là 5.044.000 đồng x 13 năm 09 tháng x ½ = 34.677.500 đồng, việc thỏa thuận chấm dứt hợp đồng lao động của hai bên là phù hợp với quy định pháp luật. Theo quy định khoản 1 Điều 48 của Bộ luật Lao động năm 2012 quy định: “khi hợp đồng lao động chấm dứt theo quy định tại các khoản 1, 2, 3, 5, 6, 7, 9 và 10 Điều 36 của Bộ luật này thì người sử dụng lao động có trách nhiệm chi trả trợ cấp thôi việc cho người lao động đã làm việc thường xuyên từ đủ 12 tháng trở lên, mỗi năm làm việc được trợ cấp một nửa tháng tiền lương”. Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, bị đơn đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng và triệu tập hợp lệ, nhưng bị đơn vắng mặt mà không có lý do, không cung cấp tài liệu, chứng cứ chứng minh, không gửi cho Tòa án văn bản phản đối yêu cầu của nguyên đơn. Như vậy theo quy định, bị đơn đã tự từ bỏ quyền được chứng minh của mình, phải chịu hậu quả theo quy định của pháp luật. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn Duy G Buộc Công ty Cổ phần C phải trả cho ông G một lần ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật số tiền nợ trợ cấp thôi việc là 34.677.500 đồng. |
8 – 12 |
3 |
Bản án số 21/2022/LĐ-ST ngày 17/08/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về “tranh chấp về lợi ích, tiền lương và tiền trợ cấp thôi việc khi chấm dứt hợp đồng lao động”
Nội dung vụ án Vào tháng 5 năm 1995, ông có ký hợp đồng lao động không xác định thời hạn với Công ty Cổ phần T II (Công ty Cổ phần T), chức vụ là công nhân vận hành xáng cạp, hệ số lương là 1.92. Trong quá trình làm việc vì lý do công ty không có việc làm và chậm trả lương cho ông, ông đã làm đơn xin nghỉ việc vào tháng 02/2020 nhưng không được giải quyết, ngày 04/5/2020 ông tiếp tục gửi đơn xin nghỉ việc cho Công ty T. Sau đó, ông đã làm đơn yêu cầu Phòng Lao động – Thương binh – Xã hội Quận B, Thành phố H giải quyết. Sau buổi làm việc, ông Tâm và đồng ý tiếp tục làm việc đến tháng 11/2020 nhưng công ty phải thực hiện ra quyết định nghỉ việc và chốt sổ BHXH cho ông. Tuy nhiên, sau đó ông đề nghị công ty giải quyết cho ông được nghỉ việc theo đơn đã gửi từ tháng 02/2020 nhưng công ty không ra quyết định cho ông nghỉ việc cũng như không chốt sổ BHXH, không trả tiền trợ cấp thôi việc cho ông. Ông xác định yêu cầu khởi kiện đề nghị Tòa án nhân dân Quận 7 giải quyết buộc Công ty Cổ phần T: Ra quyết định nghỉ việc cho ông theo đúng quy định pháp luật từ tháng 03/2020. Chốt sổ bảo hiểm cho ông đến thời điểm có quyết định nghỉ việc theo quy định Trả trợ cấp thôi việc cho ông từ háng 5/1995 đến 31/12/2008 là 13 năm, 7 tháng, ông chỉ yêu cầu tính tròn số 13 năm 06 tháng với số tiền là 43.230.240 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định Tại Văn bản trình bày ý kiến, bị đơn – Công ty Cổ phần T trình bày đã thanh toán đầy đủ khi kết thúc Hợp đồng lao động với ông Đinh Công H. Do đó Công ty Cổ phần T không còn nợ và không phải bồi thường thiệt hại, trợ cấp nào khi chấm dứt Hợp đồng lao động với ông Đinh Công H. Ngày 12/3/2021, Tòa án nhân dân Quận B đã ban hành Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ yêu cầu Công ty Cổ phần T cung cấp Quyết định cho ông Đinh Công H thôi việc; Chứng từ thanh toán lương, Bảo hiểm xã hội và chế độ khác cho Đinh Công H khi cho thôi việc nhưng không nhận được văn bản phản hồi của Công ty Cổ phần T. Như vậy, việc Công ty Cổ phần T không cung cấp chứng cứ chứng minh cho lời trình bày của mình tại Văn bản trình bày ý kiến và theo yêu cầu của Tòa án là đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình nên phải chịu hậu quả của việc không chứng minh. Theo kết quả xác minh của Bảo hiểm xã hội Quận B, Quá trình tham gia của ông Đinh Công H tại Công ty Cổ phần T chưa được chốt sổ. Như vậy có đủ cơ sở chứng minh Công ty Cổ phần T chưa ra quyết định cho ông Đinh Công H nghỉ việc theo nguyện vọng và chưa chốt sổ BHXH cho ông. Về thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc: Theo Sổ Bảo hiểm xã hội, thời gian làm việc để tính trợ cấp thôi việc cho ông Đinh Công H là 13 năm 07 tháng. Tuy nhiên, ông Hà chỉ yêu cầu tính trợ cấp thôi việc 13 năm 06 tháng, nên ghi nhận sự tự nguyện của ông Hà. Số tiền trợ cấp thôi việc ông Đinh Công H được nhận: 13 năm 06 tháng x 6.404.480 đồng/tháng x ½ = 43.230.240 đồng, nên yêu cầu của ông Hà là có cơ sở chấp nhận. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, ông Đinh Công H: Buộc Công ty Cổ phần T ra quyết định chấm dứt hợp đồng lao động đối với ông Đinh Công H, kể từ ngày 01/3/2020; Buộc Công ty Cổ phần T chốt sổ bảo hiểm xã hội kể từ ngày 31/01/2020 cho ông Đinh Công H; Buộc Công ty Cổ phần T thanh toán tiền trợ cấp thôi việc của 13 năm 06 tháng làm việc cho ông Đinh Công H với số tiền là 43.230.240 đồng. |
13 – 20 |
4 |
Bản án số 01/2022/LĐ-PT ngày 04/01/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Sóc Trăng về “tranh chấp tiền trợ cấp khi chấm dứt hợp đồng lao động”
Nội dung vụ án Các nguyên đơn là ông Trần Hoàng M và ông Điền Ngọc T là người lao động của Công ty cổ phần M. Vào tháng 01/1998, ông Trần Hoàng M và ông Điền Ngọc T ký Hợp đồng lao động với Công ty cổ phần M, loại hợp đồng không xác định thời hạn. Ngày 26/7/2019 và ngày 04/09/2019, ông Trần Hoàng M và ông Điền Ngọc T nhận Quyết định chấm dứt hợp đồng lao động với Công ty với lý do nghỉ việc theo nguyện vọng. Công ty xác nhận thời gian làm việc thực tế để hưởng trợ cấp, ông Trần Hoàng M là 11 năm và ông Điền Ngọc T là 13 năm. Công ty thanh toán tiền trợ cấp thôi việc cho ông M số tiền là 30.332.500 đồng và cho ông T số tiền là 32.435.000 đồng, Công ty chỉ lấy mức lương bình quân tối thiểu thực lĩnh để làm căn cứ chi trả trợ cấp mà không áp dụng mức lương tối thiểu vùng. ông M và ông T yêu cầu Công ty áp dụng mức lương tối thiểu vùng (3.250.000đ) và cộng thêm 7% lao động đã qua đào tạo để làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc khi chấm dứt hợp đồng lao động, yêu cầu Tòa án buộc Công ty trả trợ cấp thôi việc cho: – Nguyên đơn M số tiền 80.330.250đồng. Công ty đã trả cho nguyên đơn M 30.332.500đồng, nên Công ty còn phải trả thêm cho M 49.997.750đồng – Nguyên đơn T số tiền 84.538.025đồng. Công ty đã trả cho nguyên đơn T 32.435.000đồng, nên Công ty còn phải trả thêm cho T 52.103.025đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc yêu cầu buộc Công ty cổ phần M Sóc Trăng thanh toán thêm tiền trợ cấp thôi việc. Ngày 02/06/2021, nguyên đơn Trần Hoàng M và Điền Ngọc T đồng có đơn kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định Các nguyên đơn với Công ty thống nhất về thời gian tính trợ cấp của nguyên đơn M là 11 năm và của nguyên đơn Điền Ngọc T là 13 năm. Công ty đã thực hiện chi trả trợ cấp thôi việc cho các nguyên đơn mỗi năm làm việc nửa tháng tiền lương, nguyên đơn M với tổng thời gian thực tế làm việc cho Công ty là 11 năm nên Công ty chi trả 5,5 tháng tiền lương, nguyên đơn T với tổng thời gian thực tế làm việc cho Công ty là 13 năm nên Công ty chi trả 6,5 tháng tiền lương là đúng theo quy định của Bộ luật lao động năm 2012. Trên thực tế hệ thống thang lương, bảng lương của Công ty đã áp dụng, thực hiện trả lương cho người lao động trong Công ty kể từ tháng 01/2018 và thực hiện chi trả cho các nguyên đơn đến khi chấm dứt hợp đồng lao động. Các nguyên đơn không có khiếu nại hay phản đối, khi Công ty chi trả tiền trợ cấp các nguyên đơn đồng ý nhận và cũng không khiếu nại. Công ty đã thực hiện chi trả trợ cấp thôi việc cho các nguyên đơn là đúng pháp luật, theo kháng cáo các nguyên đơn yêu cầu Công ty áp dụng “Mức lương tối thiểu vùng” và cộng thêm 7% lao động đã qua đào tạo, nhân với hệ số lương để làm căn cứ tính trợ cấp thôi việc khi chấm dứt hợp đồng lao động đối với các nguyên đơn là không có cơ sở Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên Không chấp nhận kháng cáo của người kháng cáo Trần Hoàng M và Điền Ngọc T. Giữ nguyên Bản án Lao động sơ thẩm số 02/2021/LĐ-ST ngày 27 tháng 05 năm 2021 của Tòa án nhân dân thành phố Sóc Trăng. |
21 – 29 |
5 |
Bản án số 39/2022/LĐ-ST ngày 30/06/2022 của Tòa án nhân dân quận 1- thành phố Hồ Chí Minh về “tranh chấp về tiền lương, bảo hiểm xã hội”
Nội dung vụ án Ngày 24/5/2016, ông Nguyễn Xuân V ký hợp đồng thử việc với Công ty TNHH T với công việc là lái xe khách giường nằm. Thời hạn thử việc 02 tháng. Sau khi ký hợp đồng lao động thử việc, ông V làm việc liên tục từ ngày 24/5/2016 đến 04/5/2017 nhưng Công ty T không tiến hành các thủ tục liên quan đến quyền lợi của người lao động và người sử dụng lao động theo quy định của pháp luật. Ngày 04/7/2017 Công ty đã đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với ông V, không cung cấp quyết định chấm dứt hợp đồng lao động cho ông, ông V khởi kiện yêu cầu: – Công ty T đóng đầy đủ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm y tế cho ông kể từ ngày 24/5/2016 đến ngày 23/7/2016; Hoàn trả số tiền bảo hiểm y tế là: 653.000 đồng ông đã tự mua. – Trả tiền thế chân 8.000.000 đồng và tiền lãi tạm tính đến tháng 11/2017 là: 1.036.000 đồng. – Trả tiền lương chênh lệch giữa mức lương tối thiểu vùng 1+7% bằng nghề với mức thực tế ông nhận từ tháng 6/2016 đến tháng 5/2017 tổng cộng là: 32.003.000 đồng – Bồi thường tiền do công ty đơn phương chấm dứt Hợp đồng lao động trái pháp luật tạm tính đến tháng 11/2017 số tiền là: 58.744.240 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định Tòa án nhân dân Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh căn cứ điểm g khoản 2 Điều 97 Bộ luật Tố tụng dân sự đã có Quyết định yêu cầu cung cấp tài liệu, chứng cứ, được tống đạt trực tiếp cho ông Nguyễn Ngọc H là đại diện theo ủy quyền của bị đơn. Tuy nhiên ông Nguyễn Ngọc H chỉ cung cấp các chuyến xe ông V đã làm việc cho Công ty T nhưng không cung cấp hợp đồng thử việc và sao kê tiền lương của ông V do công ty không biết và không ký Hợp đồng này, ông Nguyễn Xuân V không phải là người lao động của công ty nên không có tên trong danh sách nhận lương nhân viên của Công ty T. Đối với các tài liệu ông Nguyễn Xuân V cung cấp có ghi Biểu thưởng và lương có chữ ký của ông Trần Trung C1 của Công ty TS. Công ty TS không phải là tên khác, tên trước đây hay chi nhánh của Công ty TNHH T. Công ty T không phát hành các văn bản đó và ông Trần Trung C1 không phải là nhân viên công ty. Bảng liệt kê thu nhập Nguyễn Xuân V không phải là số tiền cố định hàng tháng, thể hiện Công ty T đã thanh toán lợi nhuận trực tiếp cho ông V bằng tiền mặt ngay sau khi kết thúc lộ trình của mỗi chuyến xe. Ông Nguyễn Xuân V không chứng minh được ông có quan hệ lao động với Công ty T nên giữa ông V và Công ty T không phát sinh quyền và nghĩa vụ được điều chỉnh theo Bộ luật Lao động. Do đó, yêu cầu khởi kiện của ông V đối với Công ty T không có cơ sở chấp nhận. Xét yêu cầu của nguyên đơn yêu cầu bị đơn trả tiền thế chân 8.000.000đồng: Trong các buổi hòa giải, bản khai và tại phiên tòa nguyên đơn và bị đơn đều thống nhất lời khai về việc Công ty T giao xe cho ông V với tình trạng bình xăng dầu của xe được Công ty đổ đầy dầu. Ông V có trách nhiệm bàn giao nộp lại xe đúng hiện trạng ban đầu với bình xăng dầu được đổ đầy dầu bằng chi phí của ông V, ông phải đặt cọc tiền bảo đảm tương đương với giá trị bình xăng đổ đầy dầu là: 8.000.000. Số tiền thế chân Công ty T chưa trả cho ông V là: 255.577 đồng, Công ty T tự nguyện hoàn trả lại cho ông V. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân V: Công ty TNHH T có trách nhiệm hoàn trả cho ông Nguyễn Xuân V số tiền thế chân còn chưa thanh toán là: 255.577 đồng. Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Nguyễn Xuân V yêu cầu Công ty TNHH T: Thanh toán số tiền 653.000 đồng và đóng bảo hiểm xã hội cho ông từ ngày 24/5/2016 đến ngày 31/5/2021; Trả đủ số tiền lương tối thiểu vùng 1+7% bằng nghề và yêu cầu thanh toán tiền lương những tháng không được làm việc của ông V. |
30 – 37 |
6 |
Bản án số 03/2022/LĐ-PT ngày 23/08/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Tây Ninh về “tranh chấp về yêu cầu bồi thường thiệt hại do đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật”
XEM BẢN ĐẦY ĐỦ TẠI FILE PDF |
38 – 44 |
XEM TOÀN BỘ BẢN ÁN VÀ TẢI FILE PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TRANH CHẤP BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI, TRỢ CẤP KHI CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn