FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 20 bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
STT |
TÊN VÀ NỘI DUNG VỤ ÁN |
TRANG |
1 |
Bản án hình sự sơ thẩm số 13/2023/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Tòa án nhân dân huyện Nga S, tỉnh Thanh Hóa.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Ngày 16/5/2022, Dương Văn H sinh năm 2004 trú tại xã Ng Th, huyện Ng S, tỉnh Th Hóa xuất cảnh sang Campuchia qua cửa khẩu Mộc Bài – Tây Ninh bằng hộ chiếu và thị thực có thời hạn 01 tháng và được M sắp xếp làm việc cho công ty liên quan đến Game, sòng bạc, casino ở gần của khẩu Mộc Bài của người chủ Trung Quốc (không rõ tên, tuổi, địa chỉ). H được một người phụ nữ tên Nhã cũng trong công ty phiên dịch nội dung trao đổi với ông chủ Trung Quốc: nếu tìm được người Việt Nam sang làm việc thì công ty sẽ trả H hồng là 200USD/người. Do muốn có thêm tiền nên H đã đồng ý và sử dụng tài khoản mạng xã hội Facebook và ứng dụng điện thoại để tìm người đưa sang Campuchia lao động. Quá trình này, H liên hệ được cho Mai Thế Qu sinh năm 2004, Đào Duy Kh sinh năm 2005 cùng trú tại Huyện Ng S và rủ rê hứa hẹn về mức lương tháng 20 triệu đồng cùng các chế độ đãi ngộ khác, khi đi không phải làm thủ tục gì mà đi chui (vượt biên). Kh và Qu đồng ý sau đó rủ thêm Dương Đình Đ sinh năm 2007 sang Campuchia lao động. Để đưa người sang Campuchia, ngày 26/6/2022 H tổ chức cho Kh, Qu, Đ bay vào TP. Hồ Chí Minh gặp người của Nhã sắp xếp. Đến ngày 24/6/2022, người của Nhã đưa Kh, Qu, Đ đến gần của khẩu Mộc Bải để tiến hành vượt biên bằng đường bộ sang Campuchia. Sau đó, thời gian làm việc không đạt kết quả Kh, Đ đã nhập cảnh về nước qua của khẩu Mộc Bài nhưng bị xử phạt hành chính về hành vi “Qua biên giới quốc gia mà không làm thủ tục xuất cảnh, nhập cảnh theo quy định của pháp luật. Tháng 10/2022, do chính Quyền Capuchia kiểm tra chặt chẽ các lao động cư trú bất hợp pháp nên Qu và H vượt biên về Việt Nam theo đường tiểu ngạch. Tại bản cáo trạng số 39/CT-VKS-P1 ngày 24/4/2023 của VKSND tỉnh Th Hóa đã truy tố Dương Văn H về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép” theo quy định tại khoản 1 Điều 349 Bộ luật Hình sự (BLHS). Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: – Xét hành vi: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai trong quá trình điều tra, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác được thu thập có trong hồ sơ vụ án, đủ cơ sở để kết luận: Ngày 24/6/2022 H sắp xếp cho Kh, Qu và Đ vượt biên giới trái phép từ Việt Nam sang Campuchia để lao động bất hợp pháp. Như vậy, Cáo trạng số 39/CT- VKS-P1, ngày 24/4/2023 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Th Hóa truy tố bị cáo H về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép” theo quy định tại khoản 1 Điều 349 Bộ luật hình sự, là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. – Xét tinh chất mức độ của vụ án: Tính chất của vụ án là nghiêm trọng, hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã xâm hại đến Quan hệ quản lý hành chính nhà nước trong lĩnh vực xuất, nhập cảnh, xâm phạm đến quan hệ đối ngoại của hai nhà nước Việt Nam và Campuchia, làm ảnh hưởng đến quản lý người lao động do không được hai nhà nước bảo hộ. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo mức án nghiêm, tương xứng với hành vi và hậu quả mà bị cáo đã gây ra, làm bài học giáo dục riêng đối với bị cáo và răn đe phòng ngừa chung. – Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân cho bị cáo: Bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Xét thấy bị cáo phạm tội lần đầu, nhân thân tốt, lý lịch rõ ràng, sau khi phạm tội đã thật sự ăn năn, hối cải. Do đó không cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: Tuyên bố: Bị cáo Dương Văn H phạm tội: Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép” theo khoản 1 Điều 349 BLHS. – Xử phạt: Bị cáo Dương Văn H 24 (hai bốn) tháng tù, cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 48 tháng, tính từ ngày tuyên án sơ thẩm. – Về vật chứng: Tịch thu sung vào ngân sách nhà nước 01 điện thoại Di động Iphone của H có số máy, seri, imei, trong điện loại không lắp sim là công cụ, phương tiện phạm tội. – Về án phí: Buộc bị cáo H phải nộp 200.000 đồng án phí HS sơ thẩm. |
1 – 9 |
2 |
Bản án hình sự sơ thẩm số 16/2023/HS-ST ngày 15 tháng 3 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Hầu Mi C sinh năm 1995 người dân tộc Mông trú tại xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang đang làm thuê cho một người tên là Thò Nỏ P2, chủ lao động người Trung Quốc (không rõ nhân thân) từ tháng 6/2019, sau đó được ông chủ hứa hẹn tìm thêm người làm thì sẽ được làm quản lý và nhận lương cao hơn những người khác 4.500 nhân dân tệ/tháng. C đồng ý và nhập cảnh lại Việt Nam để tìm người. Ngày 24/02/2020, C đã tổ chức đưa 09 người Việt Nam bao gồm: Hầu Mi P sinh năm 1994; Giàng Thị C1 sinh năm 2006; Hầu Sính P1 sinh năm 1995; Hầu Mí T2 sinh năm 2002; Hầu Mí S1 sinh năm 2004; Thào Mí C4 sinh năm 2004; Hầu Sìa T4 sinh năm 1978 cùng trú tại thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Gia và Vàng Mí T3 sinh năm 2004; Vàng Mí C3 sinh năm 2002 cùng trú tại Thôn K1, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang đi Trung Quốc trái phép, không làm thủ tục xuất, nhập cảnh theo quy định. Ngày 04/7/2022, Phòng quản lý xuất nhập cảnh Công an tỉnh Hà Giang tiếp nhận một số công dân Việt Nam do phía Trung Quốc trả (do xuất cảnh sang Trung Quốc làm thuê trái phép) qua cửa khẩu quốc tế T, huyện V, tỉnh Hà Giang. Quá trình làm việc, lấy lời khai, các công dân Hầu Mí P; Hầu Mí P1 khai nhận được Hầu Mí C, sinh ngày 01/02/1995 trú tại thôn K, xã D, huyện Y, tỉnh Hà Giang đưa đi Trung Quốc làm thuê. Căn cứ các tài liệu thu thập được, cơ quan ANĐT Công an tỉnh Hà Giang đã khởi tố bị can đối với Hầu Mí C. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: – Về tội danh và định khung hình phạt: Tại phiên toà bị cáo C đã khai và thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với lời khai của bị cáo trong giai đoạn điều tra, truy tố; phù hợp với biên bản sự việc, bản ảnh nhận dạng, biên bản đối chất, lời khai của những người làm chứng và các tài liệu khác đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ cơ sở kết luận: Ngày 24/10/2020, bị cáo C đã đưa 09 người Việt Nam đi Trung Quốc trái phép, không làm thủ tục xuất, nhập cảnh theo quy định, chưa được hưởng lợi thì bị phát hiện. Hành vi của bị cáo C đã phạm vào tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù từ 05 đến 10 năm; tội phạm bị cáo thực hiện thuộc trường hợp nghiêm trọng. Bị cáo là người có đầy đủ năng lực chịu TNHS, nhận thức được việc tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài là vi phạm pháp luật, biết việc tổ chức xuất cảnh ra nước ngoài do cơ quan, tổ chức được Nhà nước cấp phép thực hiện mới hợp pháp; song với động cơ mục đích vụ lợi, bị cáo đã bất chấp pháp luật, thực hiện hành vi tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài 01 lần số lượng 09 người. Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, thực hiện với lỗi cố ý; xâm phạm trực tiếp đến hoạt động quản lý hành chính Nhà nước về lĩnh vực xuất cảnh, quyền tự do cư trú của công dân, xâm phạm vào chính sách đối nội, đối ngoại của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh biên giới Việt – Trung. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; là người dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, nhận thức pháp luật còn hạn chế; do đó được áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Hầu Mí C phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo điểm c khoản 2 Điều 349 BLHS. 2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Hầu Mí C 06 (sáu) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam, ngày 13/9/2022. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo Hầu Mí C. 3. Về án phí: Do Bị cáo C là người đồng bào dân tộc thiểu số, sinh sống ở xã có điều kiện kinh tế xã hội đặc biệt khóa khăn nên bị cáo C được miễn toàn bộ khoản tiền án phí hình sự sơ thẩm. |
10 – 17 |
3 |
Bản án hình sự phúc thẩm số 93/2021/HS-PT ngày 27 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao thành phố Hồ Chí Minh.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng đầu năm 2018, Nguyễn Văn Thắng sinh năm 1985 trú tại xã Kim Thành, huyện Yên Thành, tỉnh Nghệ An quen với Trần Văn Danh (Giám đốc công ty TNHH Thương mại Dịch vụ Du lịch Itravel), Danh đề nghị Thắng tìm kiếm người có nhu cầu sang Đài Loan để lao động qua hình thức đi du lịch bằng “visa Quan hồng”. Theo thỏa thuận, Danh sẽ thu của Thắng số tiền 23 triệu đồng/người do Thắng giới thiệu. Thực hiện Thỏa thuận Thắng đã dùng mạng xã hội Facebook để trực tiếp tìm kiếm và thông qua các đầu mối là Trịnh Kim Long và Thùy Linh (chưa rõ lai lịch) tìm kiếm, thu gom được 44 người có nhu cầu đi Đài Loan. Do 04 người không được duyệt Visa nên Danh chỉ tổ chức cho 40 người xuất cảnh đi Đài Loan vào ngày 23/12/2018. Thắng thu của mỗi người số tiền từ 27 – 34 triệu đồng tùy trường hợp, thu qua đầu mối là 25 triệu đồng/một trường hợp để hưởng lợi bất chính số tiền chênh lệch. Sau khi tổ chức cho 40 người đi Đài Loan, Thắng bị cơ quan chức năng tại Đài Loan bắt, tạm giam 55 ngày và bị Tòa án thành phố Cao Hùng, Đài Loan tuyên phạt 02 năm 06 tháng tù về hành vi vi phạm pháp luật của Đài Loan. Ngày 10/10/2021, Thắng bị trục xuất về nước và bị Cơ quan ANĐT Bộ Công an bắt giữ. Đối với Trần Văn Danh và các đối tượng đã bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 453/2022/HSST ngày 22 tháng 9 năm 2022 của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Thắng: 07 (bảy) năm 06 (sáu) tháng tù, về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo điểm a khoản 3, 4 Điều 349 BLHS. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ: 10/10/2021. Phạt tiền bị cáo 20.000.000 đồng để sung ngân sách nhà nước. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo Thắng kháng cáo yêu cầu đình chỉ vụ án hoặc xử bị cáo mức án bằng với thời hạn tạm giam. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và chỉ xin kháng cáo giảm nhẹ hình phạt. Luật sư bào chữa cho bị cáo Thắng cho rằng tại phiên tòa phúc thẩm thì bị cáo đã thành khẩn nhận tội; gia đình bị cáo có công với cách mạng; bà Ngoại của bị cáo là Bà mẹ Việt Nam anh hùng; Cha của bị cáo là Đảng viên trên 55 tuổi Đảng; Mẹ của bị cáo được tặng huy hiệu sự nghiệp ngành, nên đề nghị HĐXX giảm hình phạt cho bị cáo. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: HĐXX xét thấy: Theo lời khai của bị cáo Thắng phù hợp với lời khai của Trần Văn Danh. Danh có hành vi đưa tổng số 128 người Việt sang Đài Loan (trong đó có 40 người mà bị cáo Thắng giới thiệu), đã bị TTAND TP. Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm, và TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm xử phạt 10 năm 06 tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo bản án số 43/2021/HSPT ngày 15/01/2021 của TAND cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh. Theo bị cáo Thắng thừa nhận, bị cáo liên hệ giới thiệu được 12 người (Bị cáo Thắng thừa nhận có dẫn 04 người đi sang Đài Loan và 04 người này bỏ trốn), bị tòa án Cao Hùng xử phạt 02 năm 06 tháng tù. Số người còn lại thì thông qua tài khoản Facebook “Trịnh Kim Long” giới thiệu 09 người; Thùy Linh-Xuất khẩu lao động” giới thiệu 03 người; còn lại 20 người thì Thắng không xác định được qua đầu mối nào giới thiệu. Qua lời khai của 12 người mà bị cáo Thắng trực tiếp giới thiệu thì khi qua Đài Loan họ đều trốn ở tại Đài Loan và bị trục xuất về nước. Do xác định bị cáo Thắng có hành vi cùng với Danh tổ chức cho những người nêu trên đi Đài Loan nhằm mục đích cho những người này trốn ở lại nước ngoài, nên Tòa án cấp sơ thẩm xác định bị cáo Thắng phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” là đúng. Án sơ thẩm xử phạt bị cáo 07 năm 06 tháng tù, HĐXX xét thấy: tại phiên tòa hôm nay, bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, gia đình bị cáo có bà Ngoại, Cha, Mẹ của bị cáo là người có công với cách mạng, nên HĐXX xét giảm một phần hình phạt cho bị cáo, thể hiện sự khoan hồng đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: 1. Chấp nhận kháng cáo xin giảm hình phạt của bị cáo Thắng. Xử phạt bị cáo Thắng 07 (Bảy) năm tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”. Thời hạn tù tính từ ngày 10/10/2021. 2. Các quyết định còn lại của Bản án sơ thẩm đã xét xử không có kháng cáo, kháng nghị đã có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. 3. Bị cáo Thắng không phải nộp án phí hình sự phúc thẩm. Bản án này là phúc thẩm có hiệu lực thi hành kể từ ngày 27/02/2023. |
18 – 23 |
4 |
Bản án hình sự sơ thẩm số 04/2023/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng tháng 11/2021 Nhữ Thành T, sinh năm 1999 trú tại xã D, huyện H, tỉnh Thái Bình vượt biên trái phép sang Campuchia lao động với công việc sử dụng máy tính, điện thoại tư vấn khách hàng có chủ là người Trung Quốc. Qua quản lý tên là Q2, trao đổi về việc công ty đang tìm người Việt sang làm việc, lương từ 700 USD – 1.500 USD/tháng và hỗ trợ các chi phí khác, thỏa thuận nếu T tìm được người Việt Nam sang làm việc công ty trả 100USD/người. Sau khi được Q2 trao đổi, T đã 02 lần tư vấn, tổ chức đưa 03 người sang Campuchia lao động trái phép bao gồm: Lần 1: Ngày 17/12/2021, T tổ chức xuất cảnh trái phép cho anh Trần Văn L (bạn T); anh Nguyễn Duy T1 (bạn anh L) qua biên giới từ tỉnh Long An hưởng lợi 200USD và Lần 2: Ngày 25/12/2021 T tổ chức xuất cảnh trái phép cho anh Hoàng Đình T2 (bạn anh T) qua biên giới từ tỉnh Long An, hưởng lợi 100.USD. Sau đó, thấy công việc không phù hợp, các anh T1, T2 và T nộp phạt cho chủ công ty và xin về nước. Ngày 01/7/2022 anh T2 đến công an trình báo sự việc. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: Về chứng cứ buộc tội đối với bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra, truy tố, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ cơ quan điều tra đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. HĐXX có đủ căn cứ để kết luận: Trong tháng 12 năm 2021, Nhữ Thành T có hành vi tư vấn, tổ chức 02 lần cho 03 người gồm: Anh Trần Văn L, Nguyễn Duy T1, anh Hoàng Đình T2 vượt biên trái phép từ Việt Nam qua biên giới thuộc địa phận tỉnh Long An để trốn sang Campuchia lao động trái phép. Bị cáo được hưởng lợi 300 USD. Bị cáo Nhữ Thành T là người có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình sự, thực hiện tội phạm với lỗi cố ý trực tiếp, mục đích vụ lợi. Vì vậy bị cáo Nhữ Thành T đã phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình sự. Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Bị cáo phạm tội khi có 01 tiền án chứa được xóa án tích. Do đó, bị cáo chịu 01 tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Tái phạm”. Bị cáo đươc hưởng tình tiết giảm nhự trách nhiệm hình sự vì quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: 1. Về tội danh: Tuyên bố: bị cáo Nhữ Thành T phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”. 2. Về hình phạt: Xử phạt bị cáo Nhữ Thành T 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 14/7/2022 theo điểm b khoản 2 Điều 349 BLHS. 3. Về biện pháp tư pháp: Buộc bị cáo phải nộp lại số tiền 7.081.000 đồng để nộp ngân sách Nhà nước. 4. Về án phí: Bị cáo T phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm. |
24 – 31 |
5 |
Bản án hình sự phúc thẩm số 73/2023/HS-PT ngày 16 tháng 02 năm 2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng thời gian từ tháng 01/2021 đến tháng 05/2021, TTH sinh năm 1986 trú tại phường T, thành phố H, tỉnh H được H2 là Giám đốc Công ty TNHH Giáo dục và Hợp tác quốc tế VIC HD (gọi tắt Công ty VIC HD) bàn bạc để tìm kiếm người đi lao động tại Canada trái phép. Mặc dù biết Công ty VIC HD không có chức năng đưa người đi lao động tại nước ngoài và TTH cũng không phải là nhân viên của Công ty, nhưng do tin tưởng H2 nói sẽ đưa được người đi lao động tại Canada và tin tưởng vào người có tên “Hồng An” nói có bố chồng làm trong Cục Di trú Canada nên bị cáo nghĩ việc xin visa dễ dàng hơn, những người sang Canada lao động sẽ làm việc trong nông trại của gia đình “Hồng An” nên không cần học ngoại ngữ và không phải lo lắng về thủ tục cư trú, TTH được H2 giao đứng ra ký hợp đồng với danh nghĩa là Trưởng phòng tuyển dụng của Công ty VIC HD, trực tiếp ký Hợp đồng tư vấn dịch vụ với những người có nhu cầu đi lao động tại Canada. TTH đã trực tiếp nhận tiền, hồ sơ của 24 người và thông qua 08 người là đầu mối trung gian nhận tiền, hồ sơ của 34 người. Tổng số tiền TTH đã nhận của 58 người là 15.046.945.000 đồng, sau khi nhận TTH đã chuyển cho H2 tổng số tiền 13.283.145.000 đồng để làm thủ tục xin cấp visa, đưa người đi lao động tại Canada, nhưng TTH cùng một số người thân và những người khác chưa đi được thì bị phát hiện bắt giữ. Sau khi bị bắt, TTH đã trả lại cho những người có quyền lợi liên quan và các đầu mối trung gian số tiền là 1.763.800.000 đồng. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm quyết định: Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2022/HS-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh H đã tuyên xử: 1. Tuyên bố bị cáo TTH phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép”. 2. Xử phạt bị cáo TTH 11 (mười một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2021. 3. Về trách nhiệm dân sự, xử: buộc bị cáo TTH phải có nghĩa vụ hoàn trả lại cho những người có quyền lợi liên quan số tiền là 13.258.145.000 đồng. Có Bảng Danh sách kèm theo. Ngày 29/8/2022, bị cáo TTH có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt tù. Ngày 08/9/2022, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là anh NHV1 có đơn kháng cáo với nội dung: Đề nghị Tòa án buộc bị cáo TTH có nghĩa vụ hoàn trả cho anh Nguyễn Văn Thể số tiền 353.600.000đồng. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm nhận định: – Xét kháng cáo của bị cáo TTH thấy: Lời khai của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai tại Cơ quan điều tra và phiên tòa sơ thẩm, phù hợp với lời khai của những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng thu giữ, dữ liệu điện tử và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, có đủ cơ sở khẳng định: hành vi phạm tội của bị cáo TTH đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép” theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 349 của Bộ luật Hình sự. – Về nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo TTH: Bị cáo có nhân thân tốt, không phải chịu tình tiết tăng nặng nào. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo H đều thành khẩn khai báo, tỏ rõ thái độ ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của bản thân; bị cáo đã tác động nhờ gia đình nộp số tiền 250.000.000 đồng vào thời gian chuẩn bị xét xử sơ thẩm và sau khi xét xử sơ thẩm để khắc phục hậu quả, bản thân bị cáo tích cực tham gia thiện nguyện và ủng hộ quỹ phòng chống covid-19 tại địa phương, có bố đẻ là người có công đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo được hưởng theo quy định tại điểm b, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. – Xét kháng cáo của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án là anh NHV1 thấy: Đối với số tiền 353.600.000đồng, anh H1 không chứng minh được đã chuyển cho bị cáo. Tại phiên tòa phúc thẩm, bị cáo H vẫn không thừa nhận số tiền này nên anh H1 phải có nghĩa vụ hoàn trả cho anh Thế số tiền 353.600.000đồng theo lời bào chữa của Luật sư và đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội. Vì vậy không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của anh NHV1. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: 1. Chấp nhận kháng cáo của bị cáo TTH. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2022/HS-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh H. Tuyên bố bị cáo TTH phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài trái phép” áp dụng điểm a khoản 3 Điều 349 BLHS. Xử phạt bị cáo TTH 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 21/5/2021. 2. Giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số 42/2022/HS-ST ngày 25/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh H về phần trách nhiệm dân sự đối với kháng cáo của anh NHV1. Buộc anh NHV1 phải có nghĩa vụ hoàn trả cho anh NVT số tiền là 353.600.000 đồng. 3. Đối với số tiền 50.000.000 đồng gia đình bị cáo TTH đã nộp (sau khi xét xử sơ thẩm). Cục Thi hành án dân sự tỉnh H tiếp tục quản lý số tiền này và sẽ giải quyết, hoàn trả cho những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ở giai đoạn thi hành án. 4. Về án phí: Bị cáoTTH không phải chịu án phí hình sự phúc thẩm. Anh NHV1 phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự phúc thẩm. |
32 – 49 |
6 |
Bản án hình sự sơ thẩm số 83/2022/HS-ST ngày 19 tháng 12 năm 2022 của Tòa án nhân dân huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Khoảng tháng 03/2014, Lê Đắc Q, sinh năm 1966 trú tại xã Đồng Phúc, huyện Yên Dũng, tỉnh Bắc Giang liên hệ với người đàn ông tên H là người Việt gốc Hoa sống ở Trung Quốc nhờ tìm việc làm. H trao đổi có thể tìm được công việc làm ở lò gạch bên Trung Quốc cách thành phố Móng Cái khoảng 50km, tiền lương hưởng theo sản phẩm, khoảng từ 07 triệu đến 09 triệu đồng/tháng, không mất tiền ở, tự lo tiền ăn và chi phí đi lại. Tìm thêm khoảng 3-4 người để đủ một tổ làm, mỗi người sang làm phải trả cho H 400NDT tương đương khoảng 1.300.000 đồng, đến thành phố Móng Cái thì liên hệ H đón và đưa vượt biên sang Trung Quốc và đưa đến chỗ làm. Trong tháng 4/2014, Q đã 02 lần tổ chức đưa 05 người vượt biên sang Trung Quốc lao động, bao gồm: Lần thứ 1: Ngày 01/04/2014, Q cùng với Lê Đắc E và Dương Văn G, Lương Văn V tổ chức vượt biên qua sông Ka Long, thành phố Móng Cái sang Trung Quốc. Q đưa H 05 triệu đồng tiền công tìm việc và sau đó 04 người đến làm cho 01 lò gạch tại tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc. Khi đến nơi, thấy công việc vất vả nên V không làm mà quay về nhà luôn. G làm đến khoảng ngày 17/4/2014 thì về Việt Nam; QE làm đến tháng 7/2014 thì về Việt Nam còn Q ở lại Trung Quốc; Lần thứ 2: Trong thời gian đang ở Trung Quốc Q gọi điện thoại về rủ Nguyễn khắc E và Triệu Văn Đ sang làm việc, lương hưởng theo sản phẩm, chi phí đi lại hết 2,5 triệu đồng. E và D đồng ý. Ngày 30/4/2014, Q về Móng Cái và tổ chức cho E và D vượt biên qua sông Ka Long như lần 1. E và D làm việc được khoảng 01 tháng thì về Việt Nam. Sau khi mọi người về Việt Nam, Q tiếp tục ở lại Trung Quốc làm việc đến ngày 28/7/2022 thì về Việt Nam, khi về đến Trạm biên phòng cửa khẩu Trà Lĩnh, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng thì bị Cơ quan cảnh sát điều tra Công an tỉnh Cao Bằng bắt giữ. Trong thời gian làm việc bên Trung Quốc, Q không biết bản thân đã bị khởi tố và truy nã. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như bản cáo trạng đã nêu. Lời khai nhận tội của bị cáo phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Căn cứ vào lời khai của bị cáo, lời khai của những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan và các chứng cứ khác. HĐXX có đủ cơ sở để kết luận: Hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 349 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, việc truy tố và xét xử bị cáo theo tội danh và điều luật như Cáo trạng của VKSND tỉnh Bắc Giang là đúng người, đúng tội. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến công tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực xuất nhập cảnh và làm ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Nhà nước ta, đe dọa đến sự an toàn, ổn định của đời sống nhân dân. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh. Xét về nhân thân của bị cáo: Tình tiết tăng nặng trách nhiện hình sự: Không có. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự: Bị cáo xuất thân từ gia đình thuần nông, thành khẩn khai báo, không vì mục đích vụ lợi mà chỉ muốn giúp bạn bè, người thân có công ăn việc làm. Vì vậy, bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội bị cáo thực hiện đã tác động xấu tới xã hội, vì vậy để đảm bảo phòng ngừa tội phạm cần phải xử lý nghiêm minh đối với hành vi phạm tội của bị cáo, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống một thời gian nhất định phù hợp với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo để giáo dục bị cáo trở thành người có ích cho gia đình và xã hội. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm tuyên xử: – Xử phạt: Bị cáo Lê Đắc Q 05 (Năm) năm 06 (Sáu) tháng tù về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”, thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam 28/7/2022. – Hình phạt bổ sung: Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền cho bị cáo. Về vật chứng vụ án: Không giải quyết. – Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm. |
50 – 57 |
7 |
Bản án hình sự sơ thẩm số 71/2022/HS-ST ngày 24 tháng 11 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Thái Bình.
Về tội: “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” Tóm tắt nội dung vụ án: Vào năm 1998, Vũ Thị H sinh năm 1977 trú tại xã T1, huyện T2, tỉnh Thái Bình đã vượt biên trái phép đến lao động tại thành phố S, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Quá trình lao động tại Trung Quốc. Ông chủ người Trung Quốc có xưởng sản xuất đồ gia dụng đã trao đổi với H về việc tìm người Việt Nam sang làm việc với mức lương từ 2000 – 3000 NDT/tháng. Chị H đồng ý với mong muốn kiếm lời từ việc đưa người Việt Nam sang Trung Quốc lao động do chi phí đi lại thấp, không phải làm thủ tục xuất nhập cảnh. H đã liên hệ với người thân, người quen và tổ chức cho họ vượt biên trái phép sang Trung Quốc để lao động bất hợp pháp. Trong khoảng thời gian từ tháng 7 năm 2012 đến tháng 9 năm 2015, H đã tư vấn và tổ chức 04 lần cho 05 người là các anh Vũ Văn L, Hoàng Đức T3, Vũ Văn N, Lại Quang D và chị Tô Thị H2 vượt biên trái phép bằng cách thuê người dẫn vượt biên qua đường mòn, lối mở, vượt sông Ka Long để trốn sang Trung Quốc. H đã thu của chị H2, anh N, anh T3 mỗi người 800 NDT, thu của anh D 200NDT; tổng cộng 2.600NDT. Tòa án nhân dân cấp sơ thẩm nhận định: Hành vi phạm tội của bị cáo: Xét thấy, lời khai nhận tội của bị cáo Vũ Thị H tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra (Bút lục từ số 41 đến số 112) và các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án. Quá trình điều tra bị cáo Vũ Thị H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình phù hợp các tài liệu, chứng cứ đã thu thập được có trong hồ sơ vụ án (Bút lục từ số 41 đến số 112). Từ những chứng cứ nêu trên, HĐXX có đủ căn cứ để kết luận: Hành vi của bị cáo Vũ Thị H đã phạm vào tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”; hành vi phạm tội của bị cáo H xảy ra trước 0 giờ 00 phút ngày 01/01/2018 (ngày Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung có hiệu lực thi hành) nhưng xét thấy Điều 349 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài” có lợi cho người phạm tội hơn so với Điều 275 Bộ luật Hình sự năm 1999, nên căn cứ Nghị quyết số 41/2017/QH 14 ngày 20/6/2017 của Ủy ban thường vụ quốc Hội về thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH 13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo luật số 12/2017/QH 14, nên hành vi phạm tội của bị cáo H được áp dụng theo điểm b, c khoản 2 Điều 349 Bộ Luật Hình sự năm 2015 để xử lý. Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm vào các quy định nhằm đảm bảo trật tự quản lý hành chính của Nhà nước, xâm phạm đến hoạt động xuất nhập cảnh của cơ quan nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự tại vùng biên giới của Tổ quốc. Xét về nhân thân và về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo, thấy: bị cáo Vũ Thị H là người có nhân thân tốt, bị cáo không có tiền án, tiền sự; bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự năm 2015 và nộp lại số tiền thu lợi bất chính số tiền 10.200.000 đồng. Tòa án nhân dân cấp phúc thẩm tuyên xử: 1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Vũ Thị H phạm tội “Tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài”. 2. Về hình phạt: xử phạt bị cáo Vũ Thị H 03 (ba) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 24/6/2022 áp dụng điểm b, c tại khoản 2 Điều 349 BLHS. 3. Tịch thu của bị cáo Vũ Thị H 8.959.140 đồng làm tròn bằng 8.959.000 đồng nhưng được đối trừ vào 10.200.000 đồng bị cáo đã tự nguyện nộp tại Cục thi hành án dân sự tỉnh Thái Bình. 4. Về án phí: Xác Bị cáo Vũ Thị H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm nhưng được đối trừ vào số tiền bị cáo đã nộp |
58 – 67 |
LINK TẢI PDF: Tổng hợp 20 bản án về tội tổ chức cho người khác trốn đi nước ngoài
………………..
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn