FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.
Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.
MỤC LỤC
Tổng hợp 20 bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
STT |
NỘI DUNG |
TRANG |
|
Bản án số 64/2022/HS-PT ngày 20/09/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Do không có nghề nghiệp, cần tiền tiêu xài, Huỳnh Thanh P và Lê Văn T4 rủ nhau thực hiện các vụ trộm cắp tài sản, cụ thể: Vụ án 1: Khoảng 00h30 ngày 28/9/2021, P và T4 phát hiện quán cà phê “The Magic” do Quách T6 làm chủ, không người trông coi, cả hai trèo rào đột nhập vào trong, dùng tua vít tháo gỡ vách phòng lấy 02 cây quạt đứng, 02 cây quạt treo tường, 02 cái bàn bằng kim loại màu trắng (Inox) và 01 bếp gas. Sau đó, P và T4 mang đi bán cho Âu Thị Lệ H3. Riêng 01 bếp gas do bị hỏng, không dùng được nên ném bỏ. Vụ án 2: Khoảng 01h30, ngày 08/10/2021 P và T4, phát hiện bên trong hàng rào nhà Lý Nghiệp P5 có để nhiều bàn, ghế thấy không có người, P ở bên ngoài cảnh giới, T4 trèo rào vào trong lấy 04 cái bàn bằng kim loại màu trắng (Inox) và 08 cái ghế nhựa đưa ra ngoài cho P rồi cùng mang đi bán cho Trần Văn Đ. Kết luận định giá tài sản trong tố tụng hình sự số 234, 236/KL-ĐG ngày 19/10/2021 ghi nhận: Tài sản trong vụ án 1 có trá trị tổng cộng 1.300.000 đồng. Tài sản trong vụ án 1 có trá trị tổng cộng 1.600.000 đồng. Bản Cáo trạng số 41/CT-VKSCĐ-HS ngày 21/5/2022 của Viện kiểm sát đã truy tố các bị cáo Huỳnh Thanh P về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Trần Văn Đ về tội Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HS-ST ngày 28/06/2022 đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Huỳnh Thanh P phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Huỳnh Thanh P 09 tháng tù. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt: Bị cáo Trần Văn Đ 06 tháng tù. Ngày 04/07/2022, bị cáo Trần Văn Đ có đơn kháng cáo yêu cầu xem xét giảm hình phạt và cho hưởng án treo. Nhận định của Tòa án: Bị cáo Trần Văn Đ có 02 lần mua tài sản do Huỳnh Thanh P và Lê Văn T4 mang đến bán. Mặc dù không hứa hẹn trước nhưng bị cáo Trần Văn Đ biết rõ tài sản do Huỳnh Thanh P và Lê Văn T4 mang đến bán cho bị cáo là tài sản do P và T4 lấy trộm của người khác nhưng vì hám lợi, bị cáo vẫn mua với giá thấp hơn so với giá thực tế nhằm mục đích bán lại lấy lãi. Do Huỳnh Thanh P đã bị xử phạt hành chính về hành vi trộm cắp tài sản, trong thời gian được xem là có tiền sự, nay tiếp tục có hành vi trộm cắp tài sản, nên xét xử Huỳnh Thanh P về tội cắp tài sản theo khoản 1 điều 173 Bộ luật Hình sự là đúng người, đúng tội. Do hành vi của bị cáo Huỳnh Thanh P đủ yếu tố cấu thành “Tội trộm cắp tài sản”, nên hành vi của bị cáo Trần Văn Đ đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự. Về kháng cáo của bị cáo Đ: Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự là phạm tội 02 lần trở lên. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm h, o, s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Xét bị cáo đã trên 70 tuổi, bị cáo không biết chữ nên nhận thức về pháp luật còn hạn chế, tài sản phạm tội có giá trị không lớn, bị cáo thể hiện thái độ ăn năn, hối cải. Do đó, Hội đồng xét xử có xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận một phần kháng cáo của bị cáo Trần Văn Đ; sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 36/2022/HS-ST ngày 28/06/2022. Tuyên bố bị cáo Trần Văn Đ phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Trần Văn Đ 04 tháng tù. |
01 – 06 |
|
Bản án số 216/2022/HS-ST ngày 08/12/2022 của Tòa án nhân dân huyên Trảng Bom tỉnh Đồng Nai về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Vào khoảng 18 giờ ngày 19/5/2022, anh Trương Hữu N dựng xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 ở sân nhà. Đến khoảng 21h45 cùng ngày, anh N phát hiện xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 bị kẻ gian lấy trộm; lúc này, anh N dò theo định vị được gắn trên xe. Khi đến nơi thì anh N phát hiện Chu Quang H đang điều khiển xe mô tô này nhưng được gắn biển số 60B7 – 407.12 (biển số giả) nên trình báo Công an. Bản kết luận định giá tài sản số 13/KL-HĐĐGTS ngày 08/6/2022 kết luận: 01 xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 nhãn hiệu Honda Vario màu xám đen, đã qua sử dụng có trị giá là 27.800.000 đồng. Tại cáo trạng số 211/CT-VKS-TB ngày 02/11/2022 của Viện kiểm sát đã truy tố Chu Quang H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm 2015. Nhận định của Tòa án: Vào lúc 20h50 ngày 19/5/2022, tại khu vực ngã 3 Yên Thế, Chu Quang H mặc dù không hứa hẹn trước và biết rõ xe mô tô biển số 60H1 – 074.11 nhãn hiệu Honda Vario màu xám đen (đã được thay bằng biển số 60B7 – 407.12) là tài sản do đối tượng “Thảo Chuối” phạm tội mà có nhưng H vẫn đồng ý mua lại với mục đích để bán kiếm lời. Như vậy, có đủ căn cứ và cơ sở để xác định hành vi của bị cáo Chu Quang H đã phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự năm . Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không. Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Chu Quang H phạm tội: “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Chu Quang H 07 tháng tù. Tổng hợp hình phạt của tội đang bị xét xử với hình phạt 01 năm tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 334/2022/HS-PT ngày 29/8/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai. Buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung là 01 năm 07 tháng tù. |
07 – 11 |
|
Bản án số 210/2022/HS-PT ngày 09/12/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Long An về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Khoảng 08 giờ ngày 01/5/2022, L1 gọi điện thoại cho L rồi hỏi “Hôm nay có nghỉ không, lên làm cho anh 01 bữa, chạy xe cho anh rồi anh chỉ đường vô điểm giao nhận xe”. L nhận thức rõ “chạy xe” là đi vận chuyển xe mô tô do người khác phạm tội mà có. Thỏa thuận vận chuyển từ chân cầu B về cầu M để tiêu thụ, mỗi chuyến vận chuyển sẽ nhận được 500.000 đồng, giao xe xong sẽ nhận được tiền công. Do cần tiền tiêu xài cá nhân nên L đồng ý. Sau đó, L đến nhận xe, L theo hướng dẫn chạy về hướng cầu M. Đến 09h30 cùng ngày, khi L đang điều khiển xe về đến đoạn đường ĐT839 thuộc Ấp 2, xã B, huyện Đ, tỉnh Long An thì bị lực lượng Công an chốt chặn bắt quả tang người cùng tang vật. Bản kết luận định giá số 15/KL-TCKH ngày 04/5/2022 xác định xe mô tô có giá 9.550.000 đồng. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 28/07/2022 đã xử: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Tấn L phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Tấn L 09 tháng tù. Ngày 08/8/2022, bị cáo Nguyễn Tấn L kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt và được hưởng án treo. Nhận định của Tòa án: Khoảng 08 giờ ngày 01/5/2022, Nguyễn Tấn L nhận lời vận chuyển xe do người khác phạm tội mà có cho một người tên L1. Qua định giá tài sản xe môtô có tổng giá trị là 9.550.000 đồng. Hành vi của bị cáo đã có đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 của Bộ luật Hình sự nên Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo về tội danh và điều luật như trên là đúng quy định pháp luật, không oan cho bị cáo. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 37/2022/HS-ST ngày 28/07/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, với thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm trong đó có bà Lê Thị Hà Giang là Hội thẩm nhân dân. Theo quy định tại khoản 2 Điều 49 của Bộ luật Tố tụng Hình sự: “Người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi khi thuộc một trong các trường hợp:… 2. Đã tham gia với tư cách là người bào chữa, người làm chứng, người giám định, người định giá tài sản, người phiên dịch, người dịch thuật trong vụ án đó…”. Như vậy, bà Lê Thị Hà Giang phải từ chối tiến hành tố tụng hoặc bị thay đổi do đã tham gia với tư cách là người định giá tài sản trong cùng vụ án. Tòa án cấp sơ thẩm đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng trong giai đoạn xét xử sơ thẩm. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 37/2022/HS-ST ngày 28/07/2022 của Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An. Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Đức Huệ, tỉnh Long An xét xử lại theo thủ tục tố tụng hình sự. |
12 – 16 |
|
Bản án số 15/2023/HS-ST ngày 10/01/2023 của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh thành phố Hồ Chí Minh về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Khoảng tháng 03/2015, Nguyễn Phương T biết được tiệm sửa xe “Tấn P” do Lê Quốc P làm chủ có nhận tháo rã phụ tùng xe mô tô, gắn máy để hưởng tiền công. T thỏa thuận với P khi nào có xe Mô tô, gắn máy do phạm tội mà có sẽ giao cho P tháo rã thành phụ tùng rời rồi giao lại cho T và sẽ trả tiền công của động cơ xe chạy bằng số là 300.000đồng/xe và động cơ xe chạy bằng tay ga là 500.000đồng/xe. Sau đó, P nói cho Đào Trọng T2 và Ngô Thành V là thợ làm công cho P biết. Ngày 30/6/2015 T trực tiếp đem xe Mô tô số 73C1-310.84 đến tiệm Tấn P giao cho P thảo rã. Khoảng 15 giờ ngày 01/7/2015, T đến tiệm “Tấn P” bảo T2 đi theo T sang Quận 6 nhận xe. Khi đến quán cà phê gần khu vực vòng xoay Phú Lâm thuộc Phường 13, Quận 6, T gặp một người tên Tèo và nhận xe Mô tô hiệu honda Wave biển số 68T1-194.29. Sau đó, T giao cho T2 điều khiển xe chạy về tiệm sửa xe Tấn P. Khi T2 điều khiển xe Mô tô đến ngã ba đường số 10 thì bị Công an Quận 6 kiểm tra bắt giữ. Căn cứ Công văn số 1495/HĐĐG-TTHS ngày 12/8/2015 và số 44/HĐĐGTTHS ngày 13/1/2016 của Hội đồng định giá tài sản xác định xe Mô tô biển số 68T1-194.29 giá là 14.441.500 đồng và xe Mô tô biển số: 73C1-310.84 trị giá là 2.548.500 đồng. Theo bản Cáo trạng số 03/CT–VKS ngày 12/12/2022 của Viện kiểm sát đã truy tố bị cáo Nguyễn Phương T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Nhận định của Tòa án: Hội đồng xét xử xét thấy có đủ căn cứ để kết luận hành vi của bị cáo Nguyễn Phương T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 250 Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009. Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào năm 2015 lúc mà Bộ luật hình sự Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 vẫn còn hiệu lực nên áp dụng Bộ luật hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 để xét xử bị cáo. Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm i, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Phương T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Phương T 12 tháng tù. |
17 – 21 |
|
Bản án số 68/2023/HS-PT ngày 31/01/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Năm 2017, bị cáo T biết Nguyễn Quang L và Nguyễn Quang Đ có thuê xưởng gỗ của ông Nguyễn Quang N là bố đẻ của T để làm nơi chứa chấp xe máy do phạm tội mà có. Khoảng tháng 07/2017, Quách Văn A quen biết với ông N (bố đẻ của T) nên A đã nhờ T tìm mua giúp 01 chiếc xe máy tay ga không giấy tờ (xe do phạm tội mà có). T biết Đ đang có 01 chiếc xe máy nhãn hiệu Honda SH mode màu đen, khi T hỏi mua của Đ và được Đ đồng ý bán với giá 15.000.000 đồng. Sau đó T bán lại cho A với giá 16.500.000 đồng. A sử dụng xe máy đến ngày 08/6/2022 thì bị Cơ quan tra, Công an thành phố Hà Nội thu giữ. Tại bản Kết luận định giá tài sản số 202/KLĐGTS ngày 20/6/2022 kết luận: 01 xe máy nhãn hiệu Honda SH mode, biển kiêm soát 20H1-165.62, số máy F51E0012996, số khung RLHJF5106DY012935, có trị giá là 35.000.000 đồng. Bản án hình sự sơ thẩm số: 207/2022/HSST ngày 18/11/2022 quyết định: xử phạt: Nguyễn Quang T 15 tháng tù, về tội “ Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; xử phạt: Quách Văn A 12 tháng tù, về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”, nhưng cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng kể từ ngày tuyên án. Ngày 22/11/2022, bị cáo Nguyễn Quang T kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt. Nhận định của Tòa án: Để có tiền tiêu xài, bị cáo Nguyễn Quang T đã tìm mua xe máy do trộm cắp được mà có để bán kiếm lời. Quách Văn A do không có nhiều tiền nên có nhờ T tìm mua xe không có giấy tờ, xe do trộm cắp. Khoảng tháng 7/2017, bị cáo T đã mua 01 chiếc xe máy của Nguyễn Quang Đ với giá 15.000.000 đồng rồi bán cho Quách Văn A với giá 16.500.000 đồng. Chiếc xe máy này được đăng ký biển kiểm soát 20H1-165.62 của anh Nguyễn Văn H bị trộm cắp ngày 16/6/2017 tại xã Đ, thị xã P, tỉnh T có giá trị 35.000.000 đồng. Với hành vi trên, cấp sơ thẩm đã xét xử bị cáo Nguyễn Quang T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Xét thấy bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội; tài sản đã được thu hồi trả bị hại, tại phiên tòa phúc thẩm bị cáo trình bày hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, bị cáo là lao động chính, bố mẹ già yếu bị bệnh nặng. Nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo, giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Quang T. Sửa Bản án hình sự sơ thẩm số: 207/2022/HSST ngày 18/11/2022. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Quang T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo: Nguyễn Quang T 12 tháng tù, thời hạn tù T từ ngày 11/6/2022. |
22 – 27 |
|
Bản án số 29/2023/HS-PT ngày 06/02/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Vào khoảng 03 giờ ngày 28/6/2020 Hoàng Minh H có hành vi dùng dao khống chế, uy hiếp tinh thần chị Phạm Thị H chiếm đoạt số tiền 1.800.000đ và 01 điện thoại di động hiệu SAMSUNG J3. Sau đó đưa điện thoại này cho Đinh Ngọc Lê Hoàng A, mặc dù biết tài sản trên do H phạm tội mà có nhưng Hoàng A vẫn đồng ý lấy. Sau đó A đưa 01 điện thoại này cho H nhờ H đi bẻ khóa mặc dù biết điện thoại do H phạm tội mà có nhưng bị cáo H vẫn đồng ý mang đi bẻ khóa Sau khi lấy tài sản bị cáo H đưa cho Phạm Minh H số tiền 100.000 đồng, mặc dù biết tài sản trên do H phạm tội mà có nhưng bị cáo H vẫn đồng ý lấy và sử dụng. Tại Bản án hình sự sơ thẩm số: 96/2022/HS-ST ngày 17/08/2022. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 09 tháng tù. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 năm 06 tháng tù. Ngày 30/8/2022, bị cáo Phạm Minh H kháng cáo xin được giảm nhẹ hình phạt. Nhận định của Tòa án: Bị cáo Phạm Minh H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Bản án sơ thẩm mô tả. Cấp sơ thẩm xét xử bị cáo về các tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” và “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có” theo quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự là có căn cứ pháp luật. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Phạm Minh H; giữ nguyên Bản án hình sự sơ thẩm số: 96/2022/HS-ST ngày 17-8-2022 của Tòa án nhân dân huyện Định Quán. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 09 tháng tù. Tuyên bố bị cáo Phạm Minh H phạm tội “Chứa chấp tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Phạm Minh H 09 tháng tù. Tổng hợp hình phạt buộc bị cáo chấp hành hình phạt chung của hai tội là 01 năm 06 tháng tù. |
28 – 32 |
|
Bản án số 14/2023/HS-ST ngày 07/02/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Dĩ An tỉnh Bình Dương về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Nguyễn Trọng H quen biết với T (không rõ nhân thân),T giới thiệu H cho M (không rõ nhân thân) trung chuyển xe mô tô của những người phụ xe container về Long An sẽ được trả công. Lần 1: Khoảng giữa tháng 7/2022, M gọi điện thoại cho H đến hẻm Đại lộ Độc lập, phường Dĩ An thì H đồng ý. H ngồi lên điều khiển xe chạy về hướng huyện Đức Hòa, tỉnh Long An, sau đó dựng xe mô tô ven đường theo sự hướng dẫn của M rồi quay về thành phố Dĩ An và được M trả công với số tiền 600.000 đồng. Lần 2: Vào khoảng cuối tháng 7/2022, M gọi điện thoại cho H đến gần Công ty gỗ TTT phường Dĩ An để chạy xe mô tô về thì H đồng ý. Tại đây, H nhìn thấy 01 xe mô tô nhãn hiệu Wave Alpha màu xanh có cắm sẵn chìa khóa, xung quanh không có ai. Theo sự hướng dẫn của M, H điều khiển xe về huyện Đức Hòa, tỉnh Long An rồi đón xe về lại thành phố Dĩ An và được M trả công với số tiền 600.000 đồng. Lần 3: Khoảng 13h30, ngày 27/8/2022, M gọi điện thoại cho H đến gần cổng sau Công ty TNHH Scancom, phường Dĩ An. Tại đây, H thấy 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, đang dựng không có ai trông coi. H đi lại, thấy ổ khóa xe đã bị đóng, không cắm chìa khóa vào được nên gọi điện thoại cho M và được M hướng dẫn lấy áo khoác che ổ khóa lại. H lấy áo khoác vắt lên xe che ổ khóa rồi điều khiển xe mô tô đi. Khi xe di chuyển đến đoạn đường trước văn phòng khu phố Bình Đức 1, thành phố Thuận An, thì bị lực lượng tuần tra của Công an phát hiện. Kết luận định giá tài sản số 71/BBĐG-HĐĐGTS ngày 01/7/2022: 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave Alpha, màu xanh – đen – bạc, biển số 36L1-24547, số máy JA39E2507084, số khung RLHJA3926NY10841, trị giá 15.000.000 đồng. Cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 09/12/2022, Viện kiểm sát truy tố bị cáo Nguyễn Trọng H về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ” theo quy định khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Nhận định của Tòa án: Ngày 27/8/2022 khi được người tên M điện thoại cho H đến gần cổng sau Công ty TNHH Scancom, phường Dĩ An, để chạy xe mô tô về. H đi lại, thấy ổ khóa xe đã bị đóng, không cắm chìa khóa vào được và chiếc xe này khác với 02 chiếc xe lần trước nên H biết rõ xe trên là tài sản do phạm tội mà có nhưng vẫn nhận lời giúp M điều khiển xe trên về Long An tiêu thụ để nhận tiền công 600.000 đồng. Như vậy, hành vi trên của bị cáo H đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự. Bản cáo trạng số 08/CT-VKS ngày 09/12/2022 của Viện kiểm sát truy tố là có căn cứ pháp luật. Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tòa án cấp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Trọng H phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có ”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Trọng H 01 năm tù. |
33 – 38 |
|
Bản án số 02/2023/HS-ST ngày 15/02/2023 của Tòa án nhân dân huyện T tỉnh Kiên Giang về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Vào khoảng 12 giờ ngày 24/12/2021, Nguyễn Thái Q một mình đột nhập vào nhà của anh Đặng Hùng P trộm cắp 01 cái Loa kéo di động bằng gỗ màu nâu đỏ với 02 cái Micro không dây đem đến nghĩa địa Thánh thất Tân Hiệp cất giấu ở chòm mả. Sau đó, Q đi bộ đến nhà Võ Thành T ở cùng ấp Đ để tìm T kêu bán cái Loa vừa lấy trộm được, T hỏi Q “cái Loa ở đâu” thì Q kêu T lấy xe chở Q đi lấy, lúc này T biết cái Loa mà Q kêu bán là tài sản mà Q trộm cắp mà có nhưng T không hỏi gì thêm Q, nhưng T vẫn đồng ý mua cái Loa cùng với 02 cái Micro với giá 1.500.000 đồng, T trả cho Quân 1.350.000 đồng còn thiếu lại 150.000 đồng. Đến khoảng 17 giờ cùng Công an xã T đưa Q đến nhà Võ Thành T tiến hành thu hồi tài sản. Kết luận số 05/KL-HĐĐG ngày 05/4/2022 của Hội đồng định giá tài sản kết luận: 01 Thùng loa kéo di động hiệu NANOMAX bằng gỗ màu nâu đỏ và 02 Micro không dây nhãn hiệu UHF màu xám tặng kèm có tổng giá trị tài sản cần định giá: 2.600.000 đồng Cáo trạng số 41/CT-VKSTH ngày 09/11/2022 của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Võ Thành T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự Nhận đinh của Tòa án: Vào khoảng 14 giờ ngày 24/12/2021, bị cáo Võ Thành T mua cái Loa di động do Nguyễn Thái Q kêu bán, T dùng xe mô tô chở Q đến nghĩa địa Thánh thất Tân Hiệp để lấy cái loa, đến đây bị cáo T biết cái loa là do Q trộm cắp mà có nhưng vẫn đồng ý mua và chạy xe vào đường mòn của nghĩa địa để cho Q đi lấy 01 thùng loa kéo di động kèm 02 Micro không dây, đem lên xe để bị cáo T chở về bán cho T với giá 1.500.000 đồng, bị cáo T trả trước cho Q 1.350.000 đồng thì bị Công an phát hiện. Tổng tài sản mà bị cáo T tiêu thụ do Q trộm cắp mà có có trị giá là 2.600.000 đồng Hành vi của bị cáo Võ Thành T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” được quy định tại khoản 1 Điều 323 Bộ luật hình sự Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm i, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tòa án câp sơ thẩm tuyên: Tuyên bố: Bị cáo Võ Thành T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Võ Thành T 01 năm cải tạo không giam giữ, miễn khấu trừ thu nhập. |
39 – 43 |
|
Bản án số 04/2023/HS-PT ngày 09/03/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Khoảng 17 giờ ngày 06/08/2022, Phàn A G điều khiển xe môtô đến thành phố H để làm thuê. Khoảng 00h30, ngày 07/08/2022, G đi đến khu vực thôn M thì phát hiện có 1 con trâu đực của gia đình bà Thượng Thị L không có người trông coi, được buộc trong chuồng phía bên trái nên G nảy sinh ý định trộm cắp. G dừng lại và đi vào bên trong chuồng trâu dùng hai tay cởi đầu dây thừng buộc trâu từ cột gỗ trong chuồng ra và dắt con trâu đi theo đường nhựa về phía xã T1. Sau đó, G buộc giấu vào gốc cây phía bên trái đường, G gọi cho Nguyễn Văn T để bán trâu. T bán con trâu cho Lê Văn H với giá 26.000.000 đồng. Khoảng 16 giờ cùng ngày, T gọi điện thoại hẹn G trả cho G 13.000.000 đồng, T giữ lại 12.000.000 đồng. Tại bản án số 33/2022/HS-ST ngày 17/11/2022 đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”; xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 tháng tù. Ngày 16/12/2022, Nguyễn Văn T xin được hưởng án treo. Nhận định của Tòa án: Tại phiên toà phúc thẩm, bị cáo T xác nhận hành vi phạm tội của mình như bản án sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Xét thấy: bị cáo Nguyễn Văn T có nhiều tình tiết giảm nhẹ quy định khoản 1, khoản 2, Điều 51 Bộ luật Hình sự, có nơi cư trú ổn định, có khả năng tự cải tạo không gây nguy hiểm cho xã hội, không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội. Do đó, HĐXX xét thấy cần áp dụng thêm Điều 65 Bộ luật Hình sự cho bị cáo được hưởng án treo. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của bị cáo Nguyễn Văn T, sửa Bản án hình sự sơ thẩm số 33/2022/HS-ST ngày 17/11/2022 của Tòa án nhân dân huyện V, tỉnh Hà Giang. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn T phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn T 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách là 24 tháng. |
44 – 48 |
|
Bản án số 33/2023/HS-PT ngày 09/03/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Do không có tiền tiêu xài, nên trong các ngày 04/8/2022 và 07/08/2022, Trần Ngọc T đã thực hiện các lần trộm cắp tài sản tại khu vực bãi tắm phường PM, quận S. Cụ thể như sau: Lần thứ nhất: Vào khoảng 06h00 ngày 04/8/2022, T điều khiển xe mô tô đến bãi tắm số 02, phường PM. Tại đây, T thấy có nhóm học sinh đi xuống biển và có nhiều ba lô ở trên bãi cát, không có ai trông giữ nên T đi đến lấy trộm 02 chiếc ba lô và lục lấy 01 điện thoại di động Xiaomi Redmi 9T, 01 điện thoại di động Iphone XS Max, 01 điện thoại di động Iphone 7 Plus, 01 tai nghe Bluetooth hiệu Airpods2, rồi vứt các ba lô tại đây và đi về. Sau khi trộm cắp được tài sản, Trần Ngọc T lên mạng Facebook để tìm chỗ tiêu thụ. T kết bạn với Hoàng Văn D qua tài khoản Zalo. Lúc này, D nhận thức được đây là tài sản do trộm cắp được mà có nên ra giá mua những 03 chiếc điện thoại trên với số tiền 2.500.000 đồng, T đồng ý. Sau đó, D đã bán 01 chiếc điện thoại di động Iphone XS Max, cho một người không rõ lai lịch T qua mạng xã hội với số tiền 3.000.000 đồng. Đối với tai nghe Bluetooth hiệu Airpods2, màu trắng, sau đó T mang trả lại. Tại kết luận định giá số 43 ngày 30/9/2022 của Hội đồng định giá tài sản xác định: Tổng giá trị tài sản mà Trần Ngọc T đã chiếm đoạt trong lần trộm cắp này là: 5.110.000 đồng. Lần thứ hai: Vào Khoảng 06h00 ngày 07/8/2022, T tiếp tục điều khiển xe mô tô đến bãi tắm, phường PM và đi xuống bãi biển. T lấy trộm được 01 chiếc điện thoại di động Xiaomi Redmi Note 10S, 01 điện thoại di động Iphone X, 01 điện thoại di động Iphone 11 Pro, 01 điện thoại di động Xiaomi 11 Lite 5GNE. Sau khi lấy trộm được tài sản, T tiếp tục liên hệ với D và bán chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi 10S cho anh D với giá 1.000.000 đồng. Tại kết luận định giá số: 43/KL-HĐĐGTSTTHS ngày 30/9/2022 xác định: Tổng giá trị tài sản mà Trần Ngọc T đã chiếm đoạt trong các lần trộm cắp này là: 16.340.000 đồng. Bản án hình sự sơ thẩm số: 114/2022/HS-ST ngày 30/11/2022 đã quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Ngọc T phạm tội “Trộm cắp tài sản”; bị cáo Hoàng Văn D phạm tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Xử phạt: Trần Ngọc T 12 tháng tù; xử phạt: Hoàng Văn D 06 tháng tù. Ngày 08/12/2022 và ngày 09/12/2022, bị cáo Hoàng Văn D và bị cáo Trần Ngọc T đã có đơn kháng cáo xin hưởng án treo. Nhận định của Tòa án: Để có tiền tiêu xài, trong các ngày 04/8/2022 và 07/8/2022, tại các bãi tắm biển thuộc phường PM, Trần Ngọc T đã 03 lần thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của các bị hại. Tổng giá trị tài sản Trần Ngọc T đã chiếm đoạt là 21.450.000 đồng. Hoàng Văn D mặc dù biết tài sản là do Trần Ngọc T trộm cắp mà có nhưng vẫn 02 lần mua 04 điện thoại di động có tổng trị giá 7.050.000 đồng từ Trần Ngọc T với số tiền mua là 3.500.000 đồng. Vì vậy, bản án hình sự sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Ngọc T về tội “Trộm cắp tài sản” theo khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự; Xét xử bị cáo Hoàng Văn D về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội. Các bị cáo đều có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự; Gia đình có công với đất nước; Có nơi cư trú rõ ràng; người bị hại đã nhận lại tài sản, các bị cáo đã tự nguyện nộp tiền đảm bảo việc thi hành án tất cả các nghĩa vụ về bồi thường thiệt hại, tiền thu lợi bất chính cũng như án phí sơ thẩm, thể hiện sự ăn năn hối cải của các bị cáo về hành vi phạm tội của mình. Bị hại và người đại diện hợp pháp của bị hại Nguyễn Thế A tiếp tục có đơn xin cho bị cáo được hưởng án treo để được theo học. Bị cáo Hoàng Văn D là lao động duy nhất trong gia đình, vợ bỏ đi để lại con nhỏ cho đến nay mới được 14 tháng tuổi mà bị cáo là người trực tiếp phải nuôi con, hoàn cảnh gia đình khó khăn. Đây là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mới phát sinh, được quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Hội đồng xét xử thống nhất ý kiến của Kiểm sát viên, chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Chấp nhận kháng cáo của các bị cáo Trần Ngọc T, Hoàng Văn D; Sửa Bản án sơ thẩm. Xử phạt: Bị cáo Trần Ngọc T 01 năm tù cho hưởng án treo về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời gian thử thách là 02 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. Xử phạt: Bị cáo Hoàng Văn D 06 tháng tù cho hưởng án treo về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Thời gian thử thách là 01 năm kể từ ngày tuyên án phúc thẩm. |
49 – 55 |
|
Bản án số 34/2023/HS-PT ngày 09/03/2023 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nẵng về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
Nội dung bản án: Nguyễn Phước D là nhân viên lái xe Công ty DH. Trong ngày 19/5/2022 tại kho chứa ống bê tông của công ty D 02 lần lấy trộm tài sản của Công ty DH bán cho Trần Hữu T; mặc dù không hứa hẹn trước, T biết đó là tài sản do D phạm tội mà có nhưng do ham rẻ đã mua lại để bán kiếm lời. Cụ thể: Lần 1: Khoảng 05h sáng ngày 19/5/2022, D đang làm việc tại Trạm bê tông công ty DH thì nhìn thấy kho chứa ống bê tông không có người trông coi, D lẻn vào kho lấy trộm 15 ống bơm bê tông gồm: 05 ống loại 01 mét; 08 ống loại 1,8 mét; 02 ống loại 03 mét bỏ lên xe ô tô tải rồi điều khiển xe đến tiệm thu mua phế liệu do Trần Hữu T làm chủ để bán. T mua với giá 9.000 đồng/ký. D lên xe đưa số ống bơm bê tông xuống cân được 384kg, T thanh toán số tiền 3.411.000 đồng. Theo Kết luận định giá tài sản ngày 20/7/2022 xác định: Tổng tài sản D chiếm đoạt lần 1 có giá trị 13.470.574 đồng. Lần 2: Đến 24h ngày 19/5/2022, D tiếp tục tự ý lấy xe công ty đến kho chứa ống bê tông của Công lấy 16 ống bê tông gồm: 05 ống loại 01 mét; 01 ống loại 1,8 mét; 09 ống loại 02 mét; 01 ống loại 03 mét và 01 co bơm bê tông mang đến bán cho T. Theo Kết luận định giá tài sản ngày 20/7/2022 xác định: Tổng tài sản D chiếm đoạt lần 02 có giá trị 15.785.771 đồng. T đồng ý mua và cân được 351kg thỏa thuận với số tiền 3.159.000 đồng. Tổng tài sản D chiếm đoạt có giá trị: 29.256.344 đồng. Bản án sơ thẩm số 131/2022/HS-ST ngày 09/11/2022 đã quyết định: Xử phạt: Trần Hữu T 09 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. Ngày 21/11/2022, bị cáo Trần Hữu T có đơn kháng cáo với nội dung: Xin được hưởng án treo. Nhận định cuả Tòa án: Trong ngày 19/5/2022, tại tiệm thu mua phế liệu số xx do Trần Hữu T làm chủ, T biết rõ 31 ống bơm bê tông và 01 co có giá trị 29.256.344 đồng do Nguyễn Phước D trộm cắp của Công ty DH nhưng vì hám lợi nên T đã mua để bán lại kiếm lời. Do đó, Bản án sơ thẩm đã xét xử bị cáo Trần Hữu T về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” theo khoản 1 Điều 323 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Xét nội dung kháng cáo của bị cáo Trần Hữu T có tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Tuy nhiên, xét thấy tình tiết mới này không làm thay đổi bản chất của vụ án, mức hình phạt 09 tháng tù mà Tòa án cấp sơ thẩm đã tuyên đối với bị cáo là phù hợp. Tòa án cấp phúc thẩm tuyên: Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Hữu T, giữ nguyên Bản án sơ thẩm. Xử phạt: Trần Hữu T 09 (Chín) tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”. |
56 – 61 |
LINK PDF: Tổng hợp 20 bản án về tội tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có
…………….
99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng
Luật sư tại Huế:
56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế
Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:
122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh
Luật sư tại Hà Nội:
Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội
Luật sư tại Nghệ An:
Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An
Luật sư tại Gia Lai:
Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai
Website: www.fdvn.vn www.fdvnlawfirm.vn www.diendanngheluat.vn www.tuvanphapluatdanang.com
Email: fdvnlawfirm@gmail.com luatsulecao@gmail.com
Điện thoại: 0772 096 999
Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/
Legal Service For Expat: https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/
TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/
DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/
KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn
KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn
KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn