Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / Tổng hợp 20 bản án về tội mua bán người dưới 16 tuổi

Tổng hợp 20 bản án về tội mua bán người dưới 16 tuổi

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “Tổng hợp 20 bản án về tội mua bán người dưới 16 tuổi” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

Tổng hợp 20 bản án về tội mua bán người dưới 16 tuổi

STT

NỘI DUNG

TRANG

Bản án số 488/2020/HS-PT ngày 25 tháng 8 năm 2020 của Toà án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về tội “ Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Bị cáo Võ Thanh V mặc dù biết rõ Dương Thị Mỹ N sinh ngày 05/02/2004 chưa đủ tuổi kết hôn, nhưng bị cáo đã lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của gia đình người bị hại để bị cáo thuê người làm giả chứng minh nhân dân, nâng tuổi của N rồi bị cáo môi giới và chuyển giao N sang Trung Quốc lấy chồng để bị cáo hưởng 20.000.000 đồng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố bị cáo Võ Thanh V phạm tội “ Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Võ Thanh V 09 (chín) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày tạm giam ngày 22/8/2019.

Ngày 25/5/2020, bị cáo Võ Thanh V có đơn kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Bản án sơ thẩm đã cân nhắc bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ như: Thật thà khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện nộp lại số tiền thu lợi bất chính, bản thân chưa có tiền án tiền sự nên đã xử phạt bị cáo 09 năm tù, dưới mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tù từ 12 năm đến 20 năm và phạt bổ sung ở mức khởi điểm 50.000.000 đồng, là đã tương xứng với tính chất, mức độ nguy hiểm và hậu quả hành vi của bị cáo. Các tình tiết bị cáo và luật sư nêu ra tại phiên tòa phúc thẩm như: Hoàn cảnh gia đình khó khăn, có mẹ già và đang nuôi con nhỏ nhận thức pháp luật hạn chế, chưa được pháp luật quy định xem là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Do không có cơ sở để chấp nhận kháng cáo của bị cáo và đề nghị của luật sư xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Nên giữ nguyên Bản án sơ thẩm theo đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh là có căn cứ, đúng pháp luật.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Võ Thanh V. Giữ nguyên Bản án 04/2020/HS-ST ngày 12/5/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Tháp.

1

Bản án số 19/2023/HS-ST ngày 26 tháng 5 năm 2023 của Toà án nhân dân tỉnh Tuyên Quang về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 29/5/2004, tại xóm 14, xã T, huyện Yên Sơn và xóm Gềnh Gà, xã Thắng Quân (nay là thị trấn Yên Sơn), huyện Yên Sơn, tỉnh Tuyên Quang, bị cáo Trần Thị H1 và bị cáo Hoàng Thị Vân A đã có hành vi tuyển mộ, chứa chấp bị hại Nguyễn Thị H, sinh ngày 10/10/1988 và bị hại Nguyễn Thị B, sinh ngày 28/7/1988 đưa sang Trung Quốc làm gái bán dâm. Khi bị xâm hại bị hại Nguyễn Thị H có độ tuổi 15 tuổi 07 tháng 19 ngày; bị hại Nguyễn Thị B có độ tuổi 15 tuổi 10 tháng 01 ngày.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Nhận thấy, khi so sánh Điều 120 của Bộ luật Hình sự năm 1999 và Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 thấy: Bộ luật Hình sự năm 1999 tuy mức xử phạt đầu khung là 10 năm nhưng mức hình phạt cao nhất là chung thân; Bộ luật Hình sự năm 2015 tuy mức xử phạt đầu khung là 12 năm nhưng mức hình phạt cao nhất là 20 năm. Căn cứ điểm b khoản 1 Điều 2 Nghị quyết số 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội, để đảm bảo quyền lợi cho người bị buộc tội, Hội đồng xét xử thấy cần xét xử các bị cáo Trần Thị H1, Hoàng Thị Vân A theo khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 theo hướng có lợi cho các bị cáo đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát.

Hội đồng xét xử thấy, trong vụ án này các bị cáo phạm tội không có tổ chức mà là đồng phạm giản đơn. Tuy nhiên bị cáo Trần Thị H1 là người khởi xướng và là người trực tiếp đưa các bị hại sang Trung Quốc để bán dâm nên được xác định có vai trò cao hơn bị cáo Hoàng Thị Vân A.

Khi lượng hình, Hội đồng xét xử thấy các bị cáo có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, hiện đều đang nuôi con nhỏ, mặt khác mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 2 của Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999 thấp hơn mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự năm 2015. Do vậy, Hội đồng xét xử sẽ áp dụng cả những quy định có lợi nhất đối với các bị cáo theo Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999 để xử các bị cáo mức án dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo quy định tại Điều 54 Bộ luật Hình sự đúng như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố: Các bị cáo Trần Thị H1 và Hoàng Thị Vân A phạm tội Mua bán người dưới 16 tuổi.

Xử phạt bị cáo Trần Thị H1 09 (chín) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam (ngày 15/7/2022); Bị cáo Hoàng Thị Vân A 08 (tám) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo đi chấp hành án.

6

Bản án số 194/2023/HS-PT ngày 12 tháng 4 năm 2023 của Toà án nhân dân cấp cao TP. Hồ Chí Minh về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Bị cáo Lâm Thị B là mẹ của bị hại Lâm Hoàng D, sinh năm 2004; cùng nơi cư trú ấp Chùa Phật, thị trấn HB, huyện HB, tỉnh C quen biết với bị cáo Huỳnh Hồng A, nơi cư trú ấp 14, xã VH, huyện HB, tỉnh C. Vào ngày 07/9/2019, bị cáo B và bị cáo A thống nhất, Bị cáo A giới thiệu đưa Lâm Hoàng D sang Trung Quốc kết hôn, bị cáo B sẽ nhận được số tiền 80.000.000 đồng. Sau khi bị cáo A mua hai vé máy bay, bị cáo A, nhờ Huỳnh Minh E (em ruột Bị cáo A) làm thủ tục tại sân bay cho bị cáo B và Lâm Hoàng D đi từ Cần Thơ đến Hải Phòng. Khi bị cáo B và Lâm Hoàng D đến Hải Phòng theo hướng dẫn của bị cáo A, thông qua người tên Hà bị cáo B đưa Lâm Hoàng D ra khỏi biên giới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam bằng đường tiểu ngạch sang Trung Quốc. Bị cáo B giao Lâm Hoàng D cho người tên Hà và nhận từ Hà số tiền 80.000.000 đồng. Sau khi được Hà môi giới kết hôn với người Trung Quốc, Lâm Hoàng D bị hành hạ nên tìm cách trốn về Việt Nam. Đến ngày 27/4/2020 Công an thành phố Đông Hưng, Trung Quốc giải cứu và bàn giao Lâm Hoàng D cho Trạm quản lý xuất nhập cảnh Móng Cái, Công an tỉnh Quảng Ninh, Việt Nam; Lâm Hoàng D được Tổ chức trẻ em Rồng Xanh; địa chỉ số 879 Hồng Hà, Hoàn Kiếm, Hà Nội hỗ trợ đưa về gia đình.

Như vậy, tại thời điểm tháng 9/2019, thì Lâm Hoàng D là ở độ tuổi từ 13 năm 10 tháng đến 14 năm 4 tháng.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố các bị cáo Huỳnh Hồng A và Lâm Thị B phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Huỳnh Hồng A 12 (mười hai) năm tù, thời hạn tù được tính từ ngày tạm giam ngày 04/5/2022.

Ngày 12/7/2022, bị cáo Huỳnh Hồng A kháng cáo kêu oan.

Ngày 07/7/2022, bị cáo Lâm Thị B xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 07/7/2022, bị hại Lâm Hoàng D kháng cáo phần trách nhiệm dân sự, yêu cầu bồi thường 50 triệu đồng.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Trong vụ án này, bị cáo Lâm Thị B được xác định là người thực hiện hành vi phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”, người bị hại Lâm Hoàng D chính là con ruột của bị cáo. Cấp sơ thẩm xác định tư cách tố tụng của Lâm Thị B vừa là bị cáo, vừa là người đại diện hợp pháp cho người bị hại là không đúng, vì hai tư cách tố tụng này là hoàn toàn đối lập nhau về quyền, nghĩa vụ tố tụng. Sai sót này được xem là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Hủy toàn bộ Bản án hình sự sơ thẩm số: 07/2022/HSST ngày 07 tháng 7 năm 2022 của Tòa án nhân dân tỉnh C.

Chuyển hồ sơ cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh C để điều tra và giải quyết lại theo đúng quy định của pháp luật.

15

Bản án số 17/2020/HS-PT ngày 15 tháng 01 năm 2020 của Toà án nhân dân cấp cao TP. Hà Nội về tội “ Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Khoảng tháng 10/2012, P sang Trung Quốc làm thuê và có quen biết với một người phụ nữ tên A, A cho P số điện thoại và bảo P về Việt Nam tìm phụ nữ mang sang bán cho A, P đồng ý. Đến khoảng tháng 4/2013, C đến nhà P chơi, P rủ C cùng tìm phụ nữ đưa sang Trung Quốc bán cho người phụ nữ tên A lấy tiền chia nhau tiêu xài, giá cả tùy thuộc vào hình thức phụ nữ, C đồng ý. Khoảng tháng 7/2013, C cùng P lên huyện Z1, tỉnh Z2 thăm người thân, trên đường quay về L, C nói với P là lừa cháu M (sinh năm 2002; là cháu gọi P bằng bác) đang ở cùng bà nội là M1 gần nhà P, để đưa sang Trung Quốc bán, P đồng ý và thống nhất khi nào bà M1 không ở nhà thì P sẽ bảo M ra Km 20, thị trấn Phong Hải gặp C để C đưa đi mua điện thoại rồi sẽ đưa M sang Trung Quốc bán. Khoảng giữa tháng 8/2013, P thấy bà M1 không ở nhà nên đã gọi điện cho C lên đón M đưa sang Trung Quốc bán. Sau đó P bảo với M là “Ra Km 20 gặp bác C để bác C mua điện thoại cho”, M đồng ý rồi đi bộ ra Km 20. C đi xe máy đến Km 20 thì gặp M ở đó, M hỏi C có phải đưa M đi mua điện thoại không thì C nói “đúng” rồi chở M lên khu vực chợ Cốc Lếu, thành phố L mua cho M một chiếc điện thoại di động giá khoảng 300.000 đồng, C gọi điện thoại cho P nói đã đón được M và bảo P gọi cho người Trung Quốc hẹn đến đón ở khu vực thôn V, xã V1, huyện Bảo Thắng, P gọi điện cho A đến đón người ở khu vực thôn V, A đồng ý. C chở M quay lại rồi rẽ vào đường đi V, khi đến bờ suối thuộc thôn V, xã V1, C nhìn thấy có người đến ở bên bờ phía Trung Quốc, C cõng M lội qua suối sang Trung Quốc gặp hai người đàn ông Trung Quốc, hai người này hỏi C có phải người của P không thì C nói phải, do trời mưa nên C, M và hai người đàn ông Trung Quốc đến một lán để trú mưa. Tại đây C đã giao M cho 2 người này rồi quay về Việt Nam. Khoảng một tuần sau A hẹn gặp P ở khu vực V- V1 thuộc Việt Nam và nói M bé và xấu nên chỉ được 3000CNY (nhân dân tệ), P đồng ý cầm số tiền này về V1 đổi ra tiền Việt Nam được gần 10.000.000 đồng, P nói với C tiền bán M được 3.000CNY rồi chia cho C 5.000.000 đồng, số còn lại P đã chi tiêu cá nhân hết. Đối với bị hại M sau khi bị bán sang Trung Quốc đã được gả chồng cho một gia đình người Trung Quốc, đến đầu năm 2019 thông qua mạng xã hội đã liên lạc được với gia đình. Ngày 03/4/2019, M3 (là anh họ M ) sang Trung Quốc đón M về Việt Nam và làm đơn tố cáo hành vi phạm tội của P và C. Ngày 28/4/2019, P đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh L để đầu thú về hành vi phạm tội của mình.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố các bị cáo P, C phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo P 13 (mười ba) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 28/4/2019; Xử phạt bị cáo C 12 (mười hai) năm tù. Tổng hợp hình phạt 12 (mười hai) năm tù của Bản án này với 04 (bốn) năm tù của Bản án hình sự sơ thẩm số 52/2016/HSST ngày 30/11/2016 của Tòa án nhân dân huyện Y, tỉnh Y2. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 16 (mười sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/9/2016.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Vụ án thuộc loại rất nghiêm trọng, có đồng phạm nhưng thuộc loại giản đơn. Bị cáo P là người khởi xướng, rủ bị cáo C cùng tham gia thực hiện tội phạm và bị cáo cũng là người thực hành nên giữ vai trò chính trong vụ án.

Bị cáo P trình bày do nhận thức hạn chế và xuất phát từ hoàn cảnh khó khăn nên dẫn đến phạm tội, nay rất ăn năn hối hận về hành vi phạm tội của mình, mong được khoan hồng. Sau khi xét xử sơ thẩm, bị cáo P đã tác động với gia đình thực hiện xong nghĩa vụ bồi thường dân sự cho người bị hại, gia đình bị hại có đơn xin giảm nhẹ cho bị cáo. Đây là các tình tiết giảm nhẹ mới nên bị cáo được áp dụng thêm điểm b khoản 1; khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Như vậy kháng cáo của bị cáo là có căn cứ nên cần chấp nhận giảm cho bị cáo một phần hình phạt nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với bị cáo C, Bản án sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh L có hiệu lực pháp luật kể từ ngày Tòa án cấp phúc thẩm ra Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm.

Chấp nhận kháng cáo của bị cáo P, sửa bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh L, giảm hình phạt cho bị cáo P.

Xử phạt bị cáo P 12 (mười hai) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 28/4/2019.

21

Bản án số 87/2019/HSST ngày 18 tháng 7 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Nghệ An về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Do biết được Ven Thị L, sinh năm 1993, trú tại Bản N, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An mới sinh con nhưng không muốn nuôi nên ngày 13/11/2018, Cụt Thị Th, sinh năm 1986, trú tại bản Kẻo Phà Tú, xã B, huyện K, tỉnh Nghệ An; Ven Thị X, sinh năm 1985 và chồng là Moong Văn Th, sinh năm 1980 đều trú tại Bản Ph, xã Ph, huyện K, tỉnh Nghệ An bàn bạc, thống nhất với Ven Thị Lmang cháu Ven Thị Thnh H, sinh ngày 28/10/2018 (con đẻ của L) bán cho một người phụ nữ ở Ngã 3, thị trấn Diễn Châu, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An (người phụ nữ này Ven Thị X quen qua điện Th, không rõ tên, tuổi và địa chỉ cụ thể) với giá 40.000.000 (Bốn mươi triệu) đồng. Sau khi nhận được tiền thì Ven Thị Lsẽ trả tiền công cho Cụt Thị Th 5.000.000 (Năm triệu) đồng; Ven Thị X và Moong Văn Th 3.000.000 (Ba triệu) đồng. Trên đường Cụt Thị Th mang cháu Ven Thị Thnh H đi giao bán khi đến trước khách sạn Mường Thnh thuộc khối 2, thị trấn Con Cuông, huyện Con Cuông thì bị phát hiện, bắt giữ. Ngày 14 và 16 tháng 11 năm 2018, Ven Thị L,Ven Thị X, Moong Văn Th đã đến Công an huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An đầu thú về hành vi phạm tội của mình và khai báo toàn bộ sự việc như đã nêu trên.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Xét hành vi phạm tội của các bị cáo Ven Thị Luyện, Moong Văn Th, Ven Thị X, Cụt Thị Th là nguy hiểm cho xã hội, phạm tội đặc biệt nghiêm trọng không những xâm phạm danh dự, nhân phẩm và quyền tự do của trẻ em mà còn ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh trật tự, gây tâm lý lo lắng trong quần chúng nhân dân.

Trong vụ án này, bị cáo Ven Thị Ltrực tiếp bán con đẻ của mình là tình tiết định khung quy định tại điểm d khoản 2 Điều 151 Bộ luật hình sự, hành vi của bị cáo thể hiện sự coi thường pháp luật, làm trái với đạo đức xã hội. Đối với bị cáo Ven Thị X là người khởi xướng, đề xuất về việc mua bán cháu Ven Thị Thnh H là người đứng ra liên hệ với người mua cháu bé ở Diễn Châu để trao đổi về giá cả và sẽ nhận tiền công 3.000.000 đồng. Bị cáo Cụt Thị Th là người gặp L để bàn bạc chuyện bán cháu bé, dẫn L đến gặp X đồng thời là người thực hành tích cực trong suốt quá trình đưa cháu Hà đi và sẽ nhận tiền công 5.000.000 đồng.

Đối với bị cáo Th là người giúp sức giữ vai trò thứ yếu. Nên Hội đồng xét xử đánh giá vai trò của bị cáo L, Th, X cao hơn đối với bị cáo Th. Do đó cần áp dụng hình phạt nghiêm minh phù hợp tính chất hành vi phạm tội của từng bị cáo.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố bị cáo Ven Thị L(Ven Thị L), Cụt Thị Th, Ven Thị X (Mẹ Th), Moong Văn Th (Moong Văn C) phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Xử phạt bị cáo Ven Thị L 08 (Tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án; Xử phạt bị cáo Cụt Thị Th 06 (Sáu) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án; Xử phạt bị cáo Ven Thị X 05 (Năm) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 16/11/2018; Xử phạt bị cáo Moong Văn Th 03 (Ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án.

26

Bản án số 68/2019/HS-ST ngày 13 tháng 11 năm 2019 của Toà án nhân dân tỉnh Lạng Sơn về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 24-3-2016, bị cáo La Thị H đã có hành vi lừa đưa Nông Thị T (tại thời điểm đó Nông Thị T được 15 tuổi, 09 tháng 24 ngày) sang Trung Quốc bán cho một người nam giới Trung Quốc tên là S (không biết họ, địa chỉ) để nhận 500CNY. Ngày 16-8-2019, Nông Thị T về Việt Nam và ngày 19-8-2019 đã đến cơ quan chức năng tố cáo hành vi của bị cáo La Thị H.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội vào năm 2016 nên sẽ áp dụng các điều khoản của Bộ luật Hình sự năm 1999 để giải quyết vụ án. Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999: Tội Mua bán, đánh tráo hoặc chiếm đoạt trẻ em có khung hình phạt từ ba năm đến mười năm; khoản 2 Điều 120 Bộ luật Hình sự năm 1999 có khung hình phạt từ mười năm đến hai mươi năm hoặc tù chung thân. Theo quy định tại khoản 1 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015: Tội Mua bán người dưới 16 tuổi có khung hình phạt từ bẩy năm đến mười hai năm tù; khoản 2 Điều 151 Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt từ mười hai năm đến hai mươi năm tù. Khi xét xử các vụ án hình sự thuộc các trường hợp: Điều luật xóa bỏ một tội phạm, một hình phạt, một tình tiết tăng nặng, quy định một hình phạt nhẹ hơn, một tình tiết giảm nhẹ mới hoặc mở rộng phạm vi áp dụng án treo, miễn trách nhiệm hình sự, loại trừ trách nhiệm hình sự, miễn hình phạt, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích và các quy định khác có lợi cho người phạm tội, thì được áp dụng đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành theo quy định tại khoản 3 Điều 7 của Bộ luật Hình sự năm 2015 Tòa án cần căn cứ vào quy định tại Nghị quyết số: 41/2017/QH 14 ngày 20-6-2017 của Quốc hội khóa XIV để giải quyết vụ án.

Bị cáo nhận thức được hành vi của mình là vi phạm pháp luật nhưng do muốn có tiền mà bị cáo vẫn cố ý thực hiện tội phạm. Hành vi phạm tội của bị cáo gây ra là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm, xâm hại thân thể, quyền tự do của con người. Việc mua bán người để đưa ra nước ngoài đang có diễn biến phức tạp, gây ảnh hưởng rất lớn đến trật tự an toàn xã hội và gây bất bình trong dư luận quần chúng nhân dân. Chính vì vậy, cần phải xử lý nghiêm minh mọi hành vi mua bán người để nhằm mục đích răn đe, giáo dục, phòng ngừa và đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố bị cáo La Thị H phạm tội Mua bán người dưới 16 tuổi.

Xử phạt bị cáo La Thị H 08 (tám) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị bắt để tạm giam là ngày 21-8-2019.

36

Bản án số 01/2022/HS-ST ngày 07 tháng 01 năm 2022 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Thọ về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Ngày 09/4/2021, Trần Xuân Tuấn L đã có hành vi nhận Đào Vân A và Lê Ngọc A làm nhân viên phục vụ quán hát Karaoke. Tại thời điểm nhận người, Lập bỏ ra số tiền 14.000.000 đồng để trả nợ thay cho Vân A và Ngọc A. Sau 2 ngày, đến ngày 11/4/2021 thì Lập đã chuyển giao Vân A và Ngọc A cho Vũ Văn K để nhận số tiền 30.000.000 đồng. Lập hưởng lợi số tiền 16.000.000 đồng. Khi làm nhân viên quán hát cho Vũ Văn K thì Đào Vân A và Lê Ngọc A bị quản lý, không được tự ý và đi một mình ra khỏi khuôn viên quán hát của gia đình K ở xã Thượng Cốc, huyện Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình. Đào Vân A và Lê Ngọc A làm việc đến ngày 14/6/2021 thì Lê Ngọc A xin nghỉ nhưng K không đồng ý và yêu cầu gia đình cháu Lê Ngọc A phải trả số tiền 15.000.000 đồng (Mười lăm triệu đồng) thì K mới cho đón Ngọc A về. Tại thời điểm Ngọc A xin nghỉ thì Ngọc A còn nợ gia đình K số tiền 13.000.000 đồng (Mười ba triệu đồng). Gia đình cháu Lê Ngọc A đã trình báo và Cơ quan điều tra cùng gia đình đã đến làm việc tại quán hát của K, đồng thời đưa cháu Lê Ngọc A, Đào Vân A về.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Quá trình điều tra các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; gia đình bị cáo Lập đã thay bị cáo bồi thường cho cháu Đào Vân A số tiền 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng); bồi thường cho cháu Lê Ngọc A số tiền 25.000.000 đồng (Hai mươi lăm triệu đồng). Gia đình bị cáo K đã thay bị cáo bồi thường cho cháu Đào Vân A số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng); Bồi thường cho cháu Lê Ngọc A số tiền 20.000.000 đồng (Hai mươi triệu đồng). Đại diện gia đình bị hại đều xin giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo nên các bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm b,s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự. Bị cáo K được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 do đã tích cực giúp đơn cơ quan Công an Lạc Sơn, tỉnh Hòa Bình trong công tác điều tra phát hiện tội phạm được Công an huyện Lạc Sơn có công văn xác nhận và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo. Bị cáo Lập phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự tái phạm theo điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự; bị cáo K không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Căn cứ hành vi phạm tội của các bị cáo, tính chất vụ án xét thấy cần phải xử lý nghiêm đối với các bị cáo để giáo dục riêng cũng như phòng ngừa chung. Tuy nhiên, sau khi phạm tội các bị cáo đều ăn năn hối cải, khai báo thành khẩn được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nên Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 54 của Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt thể hiện sự khoan hồng của pháp luật, tạo cơ hội cho các bị cáo yên tâm cải tạo tốt để sớm được trở về với gia đình và xã hội.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố: Bị cáo Trần Xuân Tuấn L và bị cáo Vũ Văn K phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Trần Xuân Tuấn L 09 (chín) năm tù. Tổng hợp hình phạt của bản án này với hình phạt mà bị cáo chưa chấp hành của bản án số 01/2021/HS-ST ngày 12/01/2021 của Tòa án nhân dân huyện T, tỉnh Phú Thọ quy đổi thành 02 (hai) tháng 21(hai mốt) ngày tù. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung là 09 (chín) năm 02 (hai) tháng 21(hai mốt) ngày tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2021.

Xử phạt: Vũ Văn K 07(bảy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 19/6/2021.

43

Bản án số 02/2021/HS-ST ngày 06 tháng 01 năm 2021 của Toà án nhân tỉnh Lào Cai về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Để có tiền trả nợ do làm ăn thua lỗ, khoảng cuối tháng 12/2012, các bị cáo Sùng Seo C và Hảng Thị S đã có hành vi lừa bán Hảng Thị Đ (sinh năm 1999) cho một người phụ nữ Trung Quốc để lấy 8000 CNY. Tại thời điểm bị bán, bị hại Hảng Thị Đ 13 tuổi 02 tháng.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Xét thấy, năm 2016 và năm 2019, Sùng Seo C bị Tòa án nhân dân huyện Văn Yên, tỉnh Yên Bái và Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai xử phạt về tội “Trộm cắp tài sản” và “Mua bán người dưới 16 tuổi”. Tuy nhiên, thời điểm bị cáo C thực hiện hành vi phạm tội và bị xét xử là sau thời điểm bị cáo thực hiện hành vi lừa bán bị hại Hảng Thị Đ sang Trung Quốc (năm 2012). Vì vậy, Hội đồng xét xử đánh giá các bị cáo đều có nhân thân tốt, trước thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo đều chưa có tiền án, tiền sự và không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Trong quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, các bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Do vậy, cần áp dụng quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 21/2019/HSST ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai đã buộc bị cáo Sùng Seo C phải chấp hành hình phạt 16 năm tù về các tội “Mua bán người dưới 16 tuổi” và “Trộm cắp tài sản”. Hiện tại, bị cáo đang chấp hành hình phạt tại Trại giam Hồng Ca – Bộ Công an. Vì vậy, cần áp dụng quy định tại Điều 56 Bộ luật hình sự để tổng hợp bản án đối với bị cáo.

Đối với quan điểm của người bào chữa cho các bị cáo, đề nghị Hội đồng xét xử xử phạt bị cáo Sùng Seo C 10 năm tù, bị cáo Hảng Thị S 06 năm tù là không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo nên không có căn cứ chấp nhận.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố các bị cáo Sùng Seo C, Hảng Thị S phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Sùng Seo C 13 (Mười ba) năm tù. Áp dụng Điều 56 Bộ luật hình sự, tổng hợp hình phạt 13 (mười ba) năm tù của bản án này với hình phạt 16 (mười sáu) năm tù tại Bản án số 21/2019/HSST ngày 12/8/2019 của Tòa án nhân dân tỉnh Lào Cai. Buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của hai bản án là 29 (hai chín) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 14/9/2016.

Xử phạt bị cáo Hảng Thị S 12 (mười hai) năm tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt tạm giam ngày 21/9/2020.

55

Bản án số 124/2021/HS-ST ngày 16 tháng 12 năm 2021 của Toà án nhân quận 3, TP.Hồ Chí Minh về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Do muốn hưởng tiền chênh lệch từ việc mua bán trẻ sơ sinh, nên thông qua tài khoản Facebook “Moon Moon” để liên lạc người có nhu cầu cho con và người có nhu cầu nhận con nuôi. Đến ngày 05/01/2021, tại Bệnh viện đa khoa tỉnh Gia Lai, bị cáo P đưa 12.000.000 đồng (tiền viện phí cho chị P) và “Giấy cam kết tự nguyện cho con” (giấy do P viết sẵn đem theo) cho chị P ký rồi nhận 01 bé trai (sinh ngày 01/01/2021) con của chị P rồi đưa về Thành phố Hồ Chí Minh để chuyển giao cho chị Đặng Thị Hồng G để nhận số tiền 35.000.000 đồng. Đến ngày 07/01/2021 vào khoảng 19 giờ, tại quán cafe Aptea Coffee địa chỉ số 450 Nguyễn Thị Minh Khai, Phường 5, Quận 3, Thành phố Hồ Chí Minh, bị cáo P giao 01 bé trai (sinh ngày 01/01/2021) con của chị P để nhận số tiền 34.000.000 đồng (trước đó bị cáo đã nhận chuyển khoản từ chị G số tiền 1.000.000 đồng) nhằm hưởng số tiền chênh lệch là 23.000.000 đồng để tiêu xài cá nhân.

Đến ngày 08/01/2021, chị G đưa bé trai sơ sinh (sinh ngày 01/01/2021) vào Bệnh viện Từ Dũ để khám bệnh nhưng không có giấy tờ liên quan đến bé nên nhân viên bảo vệ Bệnh viện Từ Dũ đã trình báo Công an phường Phạm Ngũ Lão, Quận 1. Cùng ngày, chị P mang theo giấy tờ liên quan đến bé sơ sinh để nhận lại bé đem về Gia Lai nuôi.

Toà án cấp sơ thẩm nhận định:

Hành vi của bị cáo đã xâm phạm đến quan hệ về quyền được chăm sóc, nuôi và sống chung với cha mẹ, được Nhà nước bảo hộ quyền được bảo vệ của trẻ em dưới 16 tuổi mà còn gây ảnh hưởng xấu đến trật tự trị an xã hội.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Xét thấy trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo DIỆP MINH THỊ BÍCH P thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải và bị cáo có nhân thân tốt, lần đầu phạm tội. Do đó, nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 cho bị cáo.

Đối với chị P do hoàn cảnh khó khăn mà lại có bầu nên muốn cho con làm con nuôi để con có cuộc sống tốt đẹp hơn. Còn chị Đặng Thị Hồng G vì mới xảy thai nên muốn nhận con nuôi. Do đó, mục đích của chị P và chị G cũng chưa đến mức phải chịu trách nhiệm hình sự nên Cơ quan điều tra không khởi tố là có căn cứ.

Toà án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố bị cáo Diệp Minh Thị Bích P phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt bị cáo Diệp Minh Thị Bích P 07 (bảy) năm tù về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

62

Bản án số 69/2020/HS-PT ngày 25 tháng 02 năm 2020 của Toà án nhân dân cấp cao TP. Hà Nội về tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”

Tóm tắt nội dung vụ án:

Sau khi đã tạo được lòng tin với cháu Vàng Thị Gi. Ngày 23/11/2018, Hầu Văn T gọi điện thoại hẹn gặp cháu Gi, để tạo lòng tin với cháu Gi, T nói dối đón cháu Gi về nhà làm vợ nhưng thực chất là đưa cháu Gi sang Trung Quốc với mục đích để bán. T báo cho Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1 biết để cùng đi đến huyện Bảo L, tỉnh Cao Bằng, sau đó Th1 gọi điện cho Dương Văn C1 để C1 dẫn đường sang Trung Quốc. Khi cháu Gi đồng ý đi, T, Th1, C1 cùng cháu Gi đến huyện Mèo Vạc, tỉnh Hà Giang và được người đàn ông tên D1 đưa sang Trung Quốc bán Gi cho một đôi vợ chồng người Trung Quốc.

Vàng Thị Gi sau khi biết bị lừa bán sang Trung Quốc đã tìm cách bỏ trốn và được một người phụ nữ đưa đến đồn Công an Trung Quốc trình báo. Sau một thời gian bị tạm giữ, Gi được Công an Trung Quốc đưa ra biên giới để tự trở về Việt Nam, sau đó đến Công an huyện Bảo L, tỉnh Cao Bằng trình báo toàn bộ sự việc.

Toà án cấp sơ thẩm tuyên:

Tuyên bố: Bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1 và Dương Văn C1 phạm tội “Mua bán người dưới 16 tuổi”.

Xử phạt: Hầu Văn T 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 25/01/2019.

Xử phạt: Lầu Văn B 15 (Mười năm) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày 07/6/2019.

Xử phạt: Hoàng Văn Th1 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giam là ngày 07/6/2019.

Xử phạt: Dương Văn C1 14 (Mười bốn) năm tù, thời hạn chấp hành án phạt tù tính từ ngày bị bắt, tạm giữ, tạm giam là ngày 26/6/2019.

Ngày 24/10/2019, đại diện hợp pháp của người bị hại là ông Vàng A M2 có đơn kháng cáo đề nghị tăng tiền bồi thường thiệt hại.

Cùng ngày 25/10/2019, các bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1, Dương Văn C1 đều có đơn kháng cáo xin giảm hình phạt. Ngoài ra, bị cáo Th1 kháng cáo trả lại điện thoại Sam Sung của bị cáo.

Toà án cấp phúc thẩm nhận định:

Hành vi phạm tội của các bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1 và Dương Văn C1 là đặc biệt nghiêm trọng cần phải xử lý nghiêm khắc để làm gương cho người khác, đồng thời phục vụ công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm mua bán người nói chung và tội phạm mua bán người dưới 16 tuổi nói riêng.

Các bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự, thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị cáo T khi thực hiện tội phạm mới 17 tuổi 05 tháng 03 ngày, nên áp dụng quy định của pháp luật về xử lý hình sự đối với người dưới 18 tuổi phạm tội để quyết định hình phạt là có căn cứ pháp luật; bị cáo T, Th1, C1 không có tình tiết tăng nặng; bị cáo B có 01 tình tiết tăng nặng “Xúi giục người dưới 18 tuổi phạm tội”. Tại phiên tòa phúc thẩm hôm nay, người bào chữa cho các bị cáo xuất trình tài liệu thể hiện, sau khi xét xử sơ thẩm, gia đình bị cáo T, B, Th1 đã tự nguyện khắc phục hậu quả cho cháu Vàng Thị Gi và được người bị hại, đại diện hợp pháp của người bị hại xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo T, B, Th1. Hội đồng xét xử sẽ áp dụng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự đối với bị cáo T, B, Th1, chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo và đề nghị của người bào chữa, đại diện Viện kiểm sát, giảm nhẹ một hình phạt cho các bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng Điều 592 Bộ luật dân sự buộc các bị cáo phải liên đới bồi thường tương đương 10 tháng lương cơ sở với số tiền 14.900.000 đồng, tổn thất về tinh thần, thiệt hại do danh dự nhân phẩm bị xâm phạm cho người bị hại là có căn cứ pháp luật nên không có căn cứ để chấp nhận kháng cáo của địa diện hợp pháp của người bị hại yêu cầu các bị cáo phải bồi thường số tiền 480.000.000 đồng.

Toà án cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của các bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1, Dương Văn C1; sửa bản án hình sự sơ thẩm về hình phạt đối với các bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1, Dương Văn C1.

Không chấp nhận kháng cáo của đại diện hợp pháp người bị hại ông Vàng A M2 đề nghị tăng mức bồi thường dân sự đối với các bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1, Dương Văn C1; giữ nguyên bản án hình sự sơ thẩm về trách nhiệm dân sự đối với các bị cáo Hầu Văn T, Lầu Văn B, Hoàng Văn Th1, Dương Văn C1;

69

LINK TẢI PDF: Tổng hợp 20 bản án về tội mua bán người dưới 16 tuổi

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0772 096 999

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan