Feel free to go with the truth

Trang chủ / Hình sự / TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

FDVN trân trọng giới thiệu tài liệu “TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN” do các Luật sư – Chuyên viên pháp lý của FDVN sưu tầm, tổng hợp.

Tài liệu này phục vụ cho mục đích học tập, nghiên cứu, công tác và được chia sẻ hoàn toàn miễn phí. Chúng tôi phản đối việc sử dụng tài liệu này vào mục đích thương mại và mục đích khác trái pháp luật.

MỤC LỤC

TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

STT

NỘI DUNG

TRANG

Bản án số: 16/2018/HS-PT ngày 07/02/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Hưng Yên về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

Nội dung bản án:

Ngày 25/6/2013, ông T ban hành Quyết định số 52/QĐ-CTUBND giao trách nhiệm cho Vương Gia H làm tổ trưởng, một số cán bộ chuyên môn và 6 Trưởng thôn thực hiện các công việc theo quyết định của Chủ tịch UBND xã tại phiên họp ngày 20/6/2013 tiến hành xác minh diện tích đất dôi dư của các hộ gia đình trên địa bàn xã ở trước ngày 01/7/2004 để lập hồ sơ trình UBND huyện phê duyệt, sau đó sẽ yêu cầu các hộ thực hiện nghĩa vụ tài 2 chính và làm thủ tục cấp GCNQSDĐ cho các hộ theo quy định. Hộ gia đình ông Nguyễn Văn B và anh Nguyễn Trường S ở đội 5, thôn L, xã D đang ở trên diện tích đất là 161,6m2, thửa số 257, tờ bản đồ số 16 do UBND xã D cho ông B mượn từ năm 1986 để bán hàng và ở tạm. Đến cuối tháng 06/2013, anh S có gặp H để xin cấp GCNQSDĐ đối với mảnh đất nêu trên. H biết là không thể làm được GCNQSDĐ theo yêu cầu của anh S nhưng vẫn nói với anh S sẽ làm được, và bảo anh S nộp trước cho H số tiền 150.000.000đ. Anh S đồng ý. Sau khi nhận tiền của anh S, H có hỏi Trưởng Phòng TNMT huyện K về việc cấp GCNQSDĐ cho anh S. Được trả lời là cần xác minh làm rõ nguồn gốc đất và các vấn đề liên quan, nếu đủ điều kiện thì lập hồ sơ trình UBND huyện xem xét để cấp GCNQSDĐ theo quy định. H không làm theo chỉ đạo của chủ tịch UBND xã, không làm theo hướng dẫn của lãnh đạo Phòng TNMT. Số tiền 150.000.000đ của anh S thì H đã tiêu xài cá nhân hết. Anh S có hỏi nhiều lần thì H đã hứa sẽ làm được. Ngày 22/01/2014, H viết giấy hẹn trả kết quả với nội dung “anh S có tạm ứng cho anh H số tiền 150.000.000đ để lo thủ tục hoàn thiện hồ sơ liên quan đến việc quản lý và sử dụng đất của anh S. Hẹn sau 45 ngày anh H sẽ hoàn thiện xong thủ tục cho anh S, nếu không xong thì anh H phải hoàn trả toàn bộ số tiền trên”. Tuy nhiên đến ngày 17/7/2015 H vẫn không trả được số tiền trên cho anh S. Ngày 11/7/2016, anh S làm đơn tố cáo về hành vi trên của Vương Gia H. Trong quá trình điều tra, ngày 11/11/2016 H trả cho anh S số tiền 90.000.000đ. Nay anh S yêu cầu H phải trả cho anh số tiền còn thiếu là 60.000.000đ và không có yêu cầu gì khác.

Tại bản án số 64/2017/HS-ST ngày 25/9/2017, Tòa án nhân dân huyện K đã quyết định: Tuyên bố: Bị cáo Vương Gia H phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Vương Gia H 07 năm tù.

Ngày 03/10/2017, bị cáo Vương Gia H kháng cáo xin chuyển tội danh sang tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản và xin hưởng án treo.

Nhận định của Tòa án:

Khoảng tháng 06/2013, Vương Giao H là cán bộ địa chính xã D đã có hành vi vượt quá nhiệm vụ, quyền hạn được giao là tham mưu giúp Chủ tịch UBND xã. Vương Gia H đã lạm dụng chức vụ của mình là cán bộ địa chính xã tự ý thu số tiền 150.000.000 đồng của anh Nguyễn Trường S để làm thủ tục cấp GCNQSDĐ. Sau khi nhận tiền, bị cáo không làm các thủ tục để đề nghị xem xét cấp GCNQSDĐ cho anh S và Vương Gia H đã chiếm đoạt tiêu xài cá nhân hết số tiền trên. Hành vi nêu trên của bị cáo đã bị Tòa án nhân dân huyện K xét xử về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo điểm đ khoản 2 Điều 280 Bộ luật hình sự là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm v khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Vương Gia H. Sửa bản án hình sự sơ thẩm số 64/2017/HSST ngày 25/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện K, tỉnh Hưng Yên. Tuyên bố: Bị cáo Vương Gia H phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt: Bị cáo Vương Gia H 06 năm 03 tháng tù.

01 – 05

Bản án số: 32/2019/HS-PT ngày 19/03/02019 của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Tĩnh về tội lạm chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Nội dung bản án:

Sau khi xảy ra sự cố môi trường biển ở 4 tỉnh miền Trung vào năm 2016, Chính Phủ, các Bộ, ngành trung ương và UBND tỉnh Hà Tĩnh đề ra chủ trương rà soát, kê khai, thẩm định, áp giá và chi trả tiền bồi thường cho các hộ dân ở các vùng bị ảnh hưởng. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Võ Trọng Đ và Nguyễn Trọng Đ1 đã trực tiếp nhận tiền của một số người dân để kê khai cho họ hưởng chế độ bồi thường theo diện 1.5, cụ thể như sau:

Lần thứ nhất: Ông Trần Viết T2 trước đây làm nghề đi biển đánh bắt thủy H sản, nhưng sau này do đau yếu pH nghỉ tại nhà. Biết ông T2 không thuộc đối tượng hưởng chế độ bồi thường diện 1.5 nhưng sau khi nhận số tiền 4.000.000đ của ông T2, Đ đã viết kê khai cho ông T2 vào tờ khai mẫu số 1.5. Sau khi thẩm định ông T2 không được xét duyệt, chi trả bồi thường vì không thuộc đối tượng nào theo quy định.

Lần thứ hai: Chị Nguyễn Thị T4 có chồng là anh Lưu Minh L1 làm nghề đánh cá, sau đó làm nghề lao động tự do. Chị T4 đã đưa cho Đ số tiền 2.000.000đ và Đ đã viết kê khai cho anh Lưu Minh L1 theo tờ kê khai mẫu 1.5. Sau khi thẩm định, anh L1 chỉ được xét duyệt vào diện sinh kế (Mức thấp hơn so với đối tượng 1.5).

Lần thứ ba: Võ Trọng Đ biết được chị Nguyễn Thị H2 có hai người con là P và V đang làm ăn tại các tỉnh phía Nam không thuộc diện đối tượng được kê khai. Nhưng sau khi H2 đưa cho Đ số tiền 2.000.000đ, Đ đã viết kê khai cho hai đứa con của H2 theo mẫu số 1.5. Sau khi thẩm định thì hai con của H2 đều không thuộc diện được chi trả, bồi thường theo quy định.

Tại bản án số 26/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 đã Quyết định: xử phạt: Võ Trọng Đ 36 tháng tù về tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”; Xử phạt: Nguyễn Trọng Đ1 12 tháng tù về tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”

Ngày 30/10/2018 bị cáo Võ Trọng Đ có đơn kháng cáo xin xem xét giảm nhẹ hình phạt và hưởng án treo, bị cáo Nguyễn Trọng Đ1 có đơn kháng cáo xin được hưởng án treo.

Nhận định của Tòa án:

Trong khoảng tháng 12/2016, Võ Trọng Đ, Nguyễn Trọng Đ1 là những người hiểu rõ các chính sách, chế độ của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ sự cố môi trường biển; là những người chịu trách nhiệm rà soát, kê khai, lập danh sách những đối tượng thuộc diện được hưởng chế độ theo đúng quy định; biết được ông T2, chị T4, H2, chị H là những người không thuộc 5 diện được hưởng chế độ theo quy định nhưng vẫn cố tình đưa họ vào danh sách kê khai để nhận tiền, trục lợi cá nhân. Số tiền mà Võ Trọng Đ đã chiếm đoạt của ông Trần Viết T2 là 4.000.000 đồng, của chị Nguyễn Thị T4 là 2.000.000đồng, của chị Nguyễn Thị H2 2.000.000đồng. Số tiền mà Nguyễn Trọng Đ1 chiếm đoạt của chị Hồ Thị H là 5.000.000 đồng. Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm đã xét xử các bị cáo về tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo Điều 355; điểm b, s, x khoản 1, 2 Điều 51 BLHS năm 2015 là đúng người, đúng tội, có căn cứ, đúng pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Đối với bị cáo Võ Trọng Đ tại điểm b, s, x khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự; Đối với bị cáo Nguyễn Trọng Đ1 tại điểm b, s, x khoản 1 khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:

Chấp nhận một phần nội dung kháng cáo của bị cáo Võ Trọng Đ, Nguyễn Trọng Đ1, sửa bản án sơ thẩm số: 26/2018/HS-ST ngày 24/10/2018 của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Hà Tĩnh Tuyên bố: Các bị cáo Võ Trọng Đ, Nguyễn Trọng Đ1 phạm tội “Lạm dụng chức vụ quyền hạn chiếm đoạt tài sản”.

Xử phạt: Võ Trọng Đ 24 tháng tù, Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo thi hành án.

Xử phạt: Nguyễn Trọng Đ1 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng, kể từ ngày tuyên án phúc thẩm.

06 – 12

Bản án số: 260/2019/HS-PT ngày 08/05/2019 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội về tội lạm chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Nội dung bản án:

Trần Đức Ch được bổ nhiệm là Kế toán trưởng của Viện Dầu khí Việt Nam từ ngày 07/4/2009 đến ngày 28/10/2010. Chức năng nhiệm vụ của Kế toán trưởng là giúp Viện trưởng chỉ đạo thực hiện công tác tài chính kế toán, thống kê của Viện, thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo quy định. Phùng Đình Th – nguyên Tổng giám đốc PVN có Công văn về việc yêu cầu các đơn vị thành viên mở và phát triển hệ thống tài khoản thanh toán tại Ocean Bank. Từ tháng 4/2009 đến tháng 10/2010, Viện Dầu khí là khách hàng phát sinh tiền gửi tại Ocean Bank Chi nhánh Thăng Long với tổng doanh số tiền gửi có kỳ hạn là 308.000.000.000 đồng. Từ 15/8/2009 đến 31/12/2010, Ngân hàng Ocean Bank có chủ trương chi tiền chăm sóc khách hàng, triển khai trên toàn hệ thống và các Quyết định gia hạn chương trình năm 2010. Thực hiện chủ trương, từ ngày 31/8/2009 đến 05/7/2010 Nguyễn Thị Minh Phương khi đó là Phó Giám đốc (sau này là Giám đốc Chi nhánh Thăng Long từ tháng 3/2010) đã chỉ đạo và đưa tiền cho 03 nhân viên Ocean Bank gồm: Bùi Thu H, Nguyễn Thị Minh H, Đoàn Thị Tr tổng số tiền 57 triệu đồng để chuyển các khoản tiền chăm sóc khách hàng Viện Dầu khí thông qua tài khoản của Trần Đức Ch và Nguyễn Thị Minh Ph trực tiếp thực hiện chuyển khoản 40 triệu đồng vào tài khoản của Trần Đức Ch. Trần Đức Ch đã thừa nhận số tiền 97.000.000 đồng do các nhân viên Ocean Bank chi chăm sóc khách hàng cho Viện dầu khí đã được chuyển vào tài khoản của Trần Đức Ch. Mỗi lần các nhân viên hoặc Minh Ph chuyển tiền, Ch đều được Minh Ph thông báo và sau khi có tiền về tài khoản Ch đã rút ra sử dụng cá nhân.

Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 302/2018/HS-ST ngày 21/8/2018, quyết định: Tuyên bố bị cáo Trần Đức Ch phạm tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản ”. Xử phạt bị cáo Trần Đức Ch 18 tháng tù.

Ngày 30/8/2018, Trần Đức Ch kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

Ngày 31/8/2018, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội kháng nghị tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Đức Ch.

Nhận định của Tòa án:

Trong thời gian từ 31/8/2009 đến 31/12/2010 bị cáo Trần Đức Ch giữ chức vụ Trưởng ban Tài chính kiêm Kế toán trưởng Viện Dầu khí Việt Nam, được giao nhiệm vụ ký các Hợp đồng tiền gửi tại Ocean Bank. Trong giai đoạn này, ngoài nhận tiền lãi từ số tiền gửi của Viện dầu khí gửi tại Ocean Bank và đã được hạch toán theo quy định của nhà nước, bị cáo Trần Đức Ch còn có 13 lần nhận tổng số tiền 97.000.000 đồng do Ocean Bank chi chăm sóc khách hàng. Sau khi nhận tiền, bị cáo không báo cáo với người có thẩm quyền, không nộp và hạch toán vào nguồn thu của Viện Dầu khí Việt Nam mà sử dụng cho mục đích cá nhân. Số tiền bị cáo chiếm đoạt dưới 100 triệu đồng, do vậy, Tòa án cấp sơ thẩm đã kết án bị cáo về tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản theo quy định tại khoản 1 Điều 355 Bộ luật Hình sự năm 2015 là có căn cứ, đúng pháp luật.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm b,v,s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015

Tòa án cấp phúc thẩm quyết định:

Không chấp nhận kháng cáo của bị cáo Trần Đức Ch về việc giảm nhẹ hình phạt; không chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Nội về việc tăng hình phạt đối với bị cáo Trần Đức Ch.

Giữ nguyên quyết định về hình phạt tại Bản án sơ thẩm số 302/2018/HSST ngày 21/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, Xử phạt bị cáo Trần Đức Ch 18 tháng tù về tội Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.

13 – 19

Bản án số: 19/2020/HS-ST ngày 08/06/2020 của Tòa án nhân dân huyện M tỉnh Lại Châu về tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản

Nội dung bản án:

Từ ngày 19/11/2019, Lỳ Chừ G được bổ nhiệm chức danh Công an viên bản H, xã V có trách nhiệm nắm tình hình an ninh, trật tự, an toàn xã hội, tiếp nhận phân loại xử lý các vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật về an ninh trật tự trên địa bàn mình phụ trách tại bản. Khoảng 23h00 đêm ngày 08/08/2019, Lỳ Chừ G đi tuần thấy Lò Văn L đang sử dụng trái phép chất ma túy bằng hình thức chích, G liền đẩy cửa vào và thu giữ của L 01 bơm kim tiêm y tế và 01 con dao gọt hoa quả bằng kim loại. L thừa nhận hành vi. Do biết trước đó từ ngày 02.07.2019 L đã bị Cơ quan Công an huyện M khởi tố về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy, L đang bị cấm đi khỏi nơi cư trú tại xã V, nên G đã yêu cầu L nộp phạt 5.000.000 đồng và nói nếu L không đưa tiền, thì G sẽ đưa L ra UBND xã V để làm việc, thì tội của L sẽ nặng thêm. Do L không có tiền nên G hẹn L đến ngày 12/8/2019 sẽ đến lấy tiền. Đến khoảng 23h00 ngày 13/8/2019, G rủ Pờ Gió P và Lỳ Gió T đến nhà Lò Văn L để lấy tiền. Đến nơi G bảo T và P đứng ngoài cửa còn G vào trong nhà gọi L và hỏi L tiền nộp phạt, L nói chưa có, G yêu cầu L cùng về Ủy ban nhân dân xã V để làm việc, do sợ nên L đã bỏ chạy thì bị G đuổi theo được khoảng 10 mét thì cả hai bị ngã, trong lúc vật lộn, G đã dùng con dao mà G thu giữ của L chém vào lưng của Lò Văn L thương tích là 03%.

Bản cáo trạng số 11/CT-VKS-MT ngày 18/03/2020 đã truy tố bị cáo: Lỳ Chừ G về tội: “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự.

Nhận định của Tòa án:

Với mục đích tư lợi cá nhân, lợi dụng chức vụ quyền hạn là công an viên, khi phát hiện hành vi sử dụng trái phép chất ma túy của L. Lỳ Chừ G yêu cầu L nộp phạt số tiền 5.000.000 đồng và dọa L không đưa tiền thì G sẽ đưa L ra Ủy ban nhân dân xã để làm việc. Việc yêu cầu nộp phạt số tiền 5.000.000 đồng, do chưa có tiền nộp ngay, nên G hẹn L ngày 12/8/2019 phải có tiền nộp. Đến khoảng 12 giờ đêm ngày 13/8/2019 khi đi G có rủ Lỳ Gió T, Pờ Gió P đến nhà L để hỏi tiền nộp phạt, L nói chưa có, G yêu cầu L cùng về Ủy ban nhân dân xã V để làm việc, do sợ nên L đã bỏ chạy. Như vậy hành vi của bị cáo Lỳ Chừ G đã đủ yếu tố cấu thành tội: “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản” theo khoản 1 Điều 355 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên bị cáo chưa lấy được tiền của Lò Văn L tại thời điểm đó, do L không có tiền để nộp, nên HĐXX cần áp dụng tình tiết hành vi phạm tội chưa đạt đối với bị cáo, do vậy bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về tội phạm chưa đạt được quy định tại Điều 15 Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát truy tố bị cáo Lỳ Chừ G theo tội danh và điều khoản như trên là có căn cứ, đúng người, đúng hành vi bị cáo.

Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không

Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: tại điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 57 Bộ luật hình sự.

Tòa án cấp sơ thẩm quyết định:

Tuyên bố bị cáo Lỳ Chừ G phạm tội: “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản”. Xử phạt bị cáo Lỳ Chừ G 06 tháng tù.

XEM THÊM TẠI FILE PDF ĐÍNH KÈM

20 – 27

LINK TẢI PDF: TỔNG HỢP 20 BẢN ÁN VỀ TỘI LẠM DỤNG CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN

………………..

Luật sư tại Đà Nẵng

99 Nguyễn Hữu Thọ, Quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng

Luật sư tại Huế: 

56A Điện Biên Phủ, phường Phường Đúc, thành phố Huế, Thừa Thiên Huế

Luật sư tại TP. Hồ Chí Minh:

122 Đinh Bộ Lĩnh, quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh

Luật sư tại Hà Nội:

Tầng 5, số 11 Ngõ 183, phố Đặng Tiến Đông, phường Trung Liệt, quận Đống Đa, Hà Nội

Luật sư tại Nghệ An:

Số 19 đường V.I Lê Nin, Nghi Phú, thành phố Vinh, tỉnh Nghệ An

Quốc lộ 1A, Khối 11, phường Quỳnh Xuân, Hoàng Mai, tỉnh Nghệ An

Luật sư tại Gia Lai:

Số 61 Phạm Văn Đồng, thành phố Pleiku, tỉnh Gia Lai

Website: www.fdvn.vn    www.fdvnlawfirm.vn  www.diendanngheluat.vn  www.tuvanphapluatdanang.com

Email: fdvnlawfirm@gmail.com    luatsulecao@gmail.com

Điện thoại: 0906 499 446 – 0905 045 915

Fanpage LUẬT SƯ FDVN: https://www.facebook.com/fdvnlawfirm/

Legal Service For Expat:  https://www.facebook.com/fdvnlawfirmvietnam/

TỦ SÁCH NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/SayMeNgheLuat/

DIỄN ĐÀN NGHỀ LUẬT: https://www.facebook.com/groups/saymengheluat/

KÊNH YOUTUBE: https://www.youtube.com/c/luatsufdvn

KÊNH TIKTOK: https://www.tiktok.com/@luatsufdvn

KÊNH TELEGRAM FDVN: https://t.me/luatsufdvn

Bài viết liên quan